Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA CÔNG TY VILEXIM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.86 KB, 35 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA CÔNG TY
VILEXIM
I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY.
1. Tên gọi, trụ sở, nguồn vốn của công ty.
a. Tên gọi.
 Tên Việt Nam: Công ty xuất nhập khẩu với Lào.
 Tên tiếng Anh: Việt Nam National Import-Export with Laos.
b.Trụ sở.
 Trụ sở chính của công ty tại 4A - Đường Giải Phóng - Hà Nội.
Ngoài trụ sở chính tại Hà Nội công ty còn có các chi nhánh và văn phòng đại
diện đặt tại các tỉnh, thành phố sau:
 Chi nhánh tại thành phố HCM: 6/59 Bis đường Cao Thắng quận 3.
 Đại diện ở Đông Hà Quảng Trị.
 Đại diện tại Vientinate - Cộng hòa nhân dân Lào.
c. Nguồn vốn hoạt động của công ty.
 Vốn điều lệ: 9.717.179.746 đồng.
 Vốn lưu động: 5.757.471.539 đồng.
 Vốn cố định: 3.959.708.207 đồng.
Trong những năm tiếp theo tùy theo yêu cầu của công ty, công ty sẽ tiếp tục
tăng thêm nguồn vốn bằng cánh bổ sung thêm từ lợi nhuận của công ty.
2. Lịch sử hình thành công ty.
Công ty VILEXIM Hà Nội trực thuộc Bộ Thương Mại được thành lập
ngày 24-12-1987 theo quyết định số 82/VNG-TCCB của Bộ Ngoại Thương
(nay là Bộ Thương Mại). Tiền thân của công ty là công ty xuất nhập khẩu biên
giới được thành lập năm 1967 thực hiện nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa của các
nước XHCN chi viện cho kháng chiến chống Mỹ cứu nước của Lào. Từ năm
1976 đến năm 1987 ngoài nhiệm vụ vận chuyển hàng viện trợ cho Lào, công ty
còn được Bộ Thương Mại giao cho tiến hành các hoạt động xuất nhập khẩu
trực tiếp với Lào và trong thời gian này công ty đổi tên thành công ty xuất nhập
khẩu với Lào. Trước chính sách mở cửa nền kinh tế của đất nước, để tồn tại và
tiếp tục phát triển công ty đã không ngừng mở rộng mối quan hệ hợp tác kinh


doanh với nhiều tổ chức, công ty kinh doanh của nước ngoài. Đến nay công ty
đã có quan hệ ngoại giao với khoảng 40 nước và quan hệ kinh doanh với
khoảng trên 23 nước trên thế giới.
3. Cơ cấu tổ chức của công ty .
Công ty xuất nhập khẩu với Lào là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc
Bộ Thương Mại. Cơ cấu của công ty là một thể thống nhất từ trên xuống. Được
thể hiện ở sơ đồ sau:
Phòng tổ chức
hành chính
Phòng kế toán
tài vụ
Phòng kế hoạch
tổng hợp
Phó giám đốc
Phòng dịch vụ
đầu tư
Giám đốc
Các phòng XKN
từ 1-4
Đại diện
Đông Hà -Quảng Trị
Chi nhánh
tại TP.HCM
Phó giám đốc
Đại diện
tại Viênchăn-Lào
Ban lãnh đạo công ty: Là bộ phận đứng đầu công ty.
Giám đốc công ty là đồng chí Nguyễn Khánh Kiền, được Bộ trưởng Bộ
Thương Mại bổ nhiệm. Giám đốc là đại diện hợp pháp cho mọi quyền lợi và
nghĩa vụ của công ty trước pháp luật, các cơ quan quản lý nhà nước. Giám đốc

sẽ trực tiếp điều hành công ty theo chế độ một thủ trưởng, có quyền quyết định
mọi hoạt động kinh doanh của công ty sao cho có hiệu quả đồng thời là người
chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ thương Mại và tập thể cán bộ công nhân
viên trong công ty.
Tham mưu cho giám đốc là hai phó giám đốc.
 Phó giám đốc: Tăng Văn Cường - phụ trách công tác xuất nhập khẩu,
hành chính ở các kho Cổ Loa, kho Pháp Vân, kho 139 Lò Đúc, kho và cơ
quan đại diện tại Đông Hà, liên doanh đầu tư và công tác đời sống cho
cán bộ công nhân viên.
 Phó giám đốc: Nguyễn Trường Sơn - Phụ trách chi nhánh tại Thành Phố
HCM và văn phòng đại diện tại Viên Chăn Lào.
Các phó giám đốc có quyền triển khai các quyết định của giám đốc, giúp
giám đốc điều hành công ty, tạo sự nhịp nhàng, thống nhất và chịu trách nhiệm
trước giám đốc về nghiệp vụ chuyên môn và lập báo cáo định kỳ lên giám đốc.
 Dưới ban lãnh đạo là các phòng ban chức năng, các chi nhánh và văn
phòng đại diện. Cụ thể:
 Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho giám đốc quản lý nhân sự
trong công ty. Gồm: Sắp xếp, tuyển chọn, thuyên chuyển, lập kế hoạch
đào tạo cán bộ, đánh giá chất lượng cán bộ, xét duyệt định mức tiền
lương lao động trong công ty. Ngoài ra còn quản lý công văn, giấy tờ
trong các quan hệ đối nội và đối ngoại của công ty.
Phòng kế toán tài vụ: có chức năng huy động vốn và các nguồn lực khác
phục vụ cho công tác kinh doanh của công ty, tiến hành nhận vốn và tài
sản của nhà nước giao cho công ty, tổ chức hạch toán kinh doanh, kiểm
tra, kiểm soát việc chấp hành các chế độ quản lý tài chính của các đơn vị
thành viên trong công ty, lập các báo cáo tài chính định kỳ, tổng hợp và
công khai tình hình tài chính của công ty, cung cấp số liệu, tài liệu liên
quan đến tình hình tài chính của công ty cho giám đốc cũng như các cơ
quan quản lý nhà nước có chức năng.
Phòng kế hoạch tổng hợp: Thực hiện chức năng tổng hợp, báo cáo tình

hình hoạt động của công ty. Qua đó, ban giám đốc sẽ đề ra phương án sản
xuất kinh doanh phù hợp.
Phòng kinh doanh: Gồm 6 phòng, trong đó có 4 phòng thực hiện chức
năng xuất nhập khẩu, 1 phòng đầu tư có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi
tình hình triển khai của các dự án đầu tư, đồng thời lập kế hoạch đầu tư
trình ban giám đốc, 1 phòng dịch vụ nhận các dịch vụ thuộc phạm vi
kinh doanh của công ty theo yêu cầu của khách hàng trong và ngoài
nước .
Chi nhánh và văn phòng đại diện: Trưởng chi nhánh và văn phòng đại diện
có quyền ra quyết định và quản lý mọi hoạt động kinh doanh của chi
nhánh và văn phòng đại diện, có quan hệ với các cơ quan chủ quản cấp
trên, với các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước. Trưởng chi nhánh và văn
phòng đại diện có nhiệm vụ báo cáo hoạt động kinh doanh của mình lên
phó giám đốc điều hành chi nhánh, văn phòng đại diện đồng thời chịu
trách nhiệm trước pháp luật, trước ban giám đốc và tập thể cán bộ công
nhân viên về quá trình điều hành sản xuất và kinh doanh của mình.
4. Nhiệm vụ, quyền hạn của công ty .
a. Nhiệm vụ.
Nghiên cứu khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường để thông qua hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu đẩy mạnh quan hệ thương mại, hợp tác
đầu tư và các quan hệ khác có liên quan đến kinh tế đối ngoại giữa nước
ta với các nước khác, đặc biệt là với Lào để thực hiện nhiệm vụ chính trị
do Đảng và nhà nước đề ra - là cầu nối liền tình đoàn kết giữa hai nước
Việt - Lào.
Hoạt động theo pháp luật hiện hành của nước CHXHCN Việt Nam và
những quy định riêng của toàn công ty. Cụ thể: xây dựng và tổ chức thực
hiện các kế hoạch sản xuất kinh doanh theo cơ chế hiện hành để thực hiện
mục tiêu và nội dung hoạt động như đã quy định trong điều lệ công ty;
tuân thủ các chính sách, chế độ luật pháp của nhà nước về quản lý kinh tế
tài chính; thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế mà công ty đã ký;

quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn nhằm thực hiện tốt các
hoạt động kinh doanh; nhập khẩu và thực hiện có hiệu quả các biện pháp
nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hóa.
b.Quyền hạn.
Được chủ động giao dịch, đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng
mua bán ngoại thương, hợp đồng kinh tế và các văn bản về hợp tác liên
doanh với các bạn hàng trong và ngoài nước theo nội dung hoạt động của
công ty.
Được vay vốn ở trong và ngoài nước, được hợp tác liên doanh với các tổ
chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước theo quy
chế của pháp luật hiện hành của nhà nước.
Được tham gia vào các hội chợ triển lãm, quảng cáo hàng hóa, tham gia
các hội nghị, hội thảo chuyên đề có liên quan đến hoạt động của công ty
trong và ngoài nước.
Được cử cán bộ của công ty đi công tác nước ngoài hoặc mời bên nước
ngoài vào Việt Nam để giao dịch, đàm phán, ký kết các vấn đề thuộc nội
dung hoạt động của công ty .
5. Nội dung hoạt động của công ty.
a. Các lĩnh vực hoạt động của công ty.
Công ty trực tiếp xuất nhập khẩu hàng hóa với Lào và một số nước khác hoặc
nhận ủy thác xuất nhập khẩu và dịch vụ thuộc phạm vi kinh doanh của công ty
theo yêu cầu của khách hàng. Công ty có thể sản xuất gia công các mặt hàng để
xuất khẩu hoặc liên doanh liên kết với các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước. Ngoài ra, công ty có thể làm đại lý tiêu thụ hoặc lắp ráp,
bảo hành, sửa chữa xe máy, các lĩnh vực dịch vụ hàng hóa quá cảnh qua Việt
Nam.
b.Các mặt hàng kinh doanh chủ yếu của công ty.
Hàng nông sản, lâm sản có: lạc, chè, cà phê, hạt tiêu, gỗ, sắn lát, đậu.
Hàng bông vải sợi may mặc có: hàng dệt kim,các loại sợi, các loại vải thêu
ren, khăn mặt...

Hàng thủ công mỹ nghệ: Đồ gốm, sứ, sơn mài.
Dược liệu: Sa nhân, quế, các cây thuốc dân tộc.
Công ty đã nhập khẩu các mặt hàng: Kim loại đen và kim loại màu, dây
cáp nhôm, đồng, kẽm.
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA CÔNG
TY VILEXIM GIAI ĐOẠN 1996 - 2000.
Sau hơn 10 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển
vượt bậc. Trong sự phát triển chung ấy không thể không nhắc đến những kết
quả mà ngành nông nghiệp đã đạt được. Đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và
kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản. Từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu,
phải nhập khẩu lương thực, cảnh đói ăn trong nhân dân xảy ra thường xuyên thì
đến nay Việt Nam không những không còn cảnh đói ăn mà còn là một trong
những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu thế giới. Có được những thành tựu to
lớn ấy là nhờ vào sự nỗ lực không ngừng của mọi cá nhân, mọi đơn vị trong
toàn ngành. Trong sự phát triển chung của ngành nông nghiệp Việt Nam cũng
có sự đóng góp của công ty VILEXIM.
Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trong những ngày đầu mới thành lập như:
Bị hạn chế trong chức năng kinh doanh, cơ sở vật chất kỹ thuật vừa yếu lại vừa
thiếu, cán bộ công nhân viên trong công ty mới chỉ được tiếp xúc với khái niệm
cơ chế thị trường trong một thời gian ngắn nên có rất ít kinh nghịêm về thị
trường, trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên còn non kém, cơ chế
chính sách của nhà nước lại thường xuyên thay đổi. Nhưng vượt lên những khó
khăn, cùng với ban lãnh đạo đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty đã nổ
lực không ngừng để tìm ra các thức kinh doanh có hiệu quả nhất. Trên thực tế
những kết quả mà công ty đã đạt được trong thời gian qua thật đáng khích lệ.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty, đặc biệt là đối với hàng nông sản
ngày càng tăng, các mặt hàng ngày càng đa dạng, khả năng thu mua hàng nông
sản xuất khẩu, duy trì thị trường cũ và tiếp cận thị trường mới đang dần được
cải thiện. Ngoài ra hàng năm từ hoạt động xuất khẩu hàng nông sản công ty giải
quyết công ăn việc làm, mang lại thu nhập ổn định cho nhiều lao động trong và

ngoài công ty đồng thời đóng góp hàng chục tỷ đồng vào ngân sách nhà nước.
Để hiểu rõ hơn về kết quả kinh doanh hàng nông sản của công ty trong thời gian
qua ta sẽ đi sâu nghiên cứu một số chỉ tiêu sau:
1.Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty.
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường thế giới, tuy
gặp rất nhiều khó khăn để tăng kim ngạch xuất khẩu nhưng những năm qua mặt
hàng nông sản xuất khẩu của công ty đã có những bước tiến vượt bậc, kim
ngạch xuất khẩu không ngừng tăng và đến nay mặt hàng nông sản đã trở thành
mặt hàng xuất khẩu chủ kực của công ty.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM giaiđoạn
1996 - 2000. ĐV: USD
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
Giá trị 5.244.000 3.286.816,2 4.387.264,6 5.695.007 8.740.900
Tốc độ TT -37,3% 33,48% 29, 8% 53,48%
Nguồn:Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
Qua bảng số liệu trên: Nếu năm 1996 giá trị xuất khẩu hàng nông sản của
công ty đạt 5.244.000 USD thì năm 2000 giá trị xuất khẩu đạt 8.740.900 USD.
Tăng về giá trị tuyệt đối là 3.496.900 USD tương đương với 66,69%. Tuy nhiên
nếu xét riêng từng năm ta thấy:
Năm 1997: là một năm đầy rẫy khó khăn đối với công ty. Kim ngạch
xuất khẩu hàng nông sản của công ty giảm sút đáng kể. Nếu năm 1996 giá trị
xuất khẩu hàng nông sản của công ty đạt 5.244.000 USD thì năm 1997 giá trị
xuất khẩu hàng nông sản của công ty chỉ đạt 3.286,18 USD, giảm 37,3% so với
năm 1996 (đây là một con số khá lớn đối với công ty).
Nguyên nhân chính làm kim ngạch xuất khẩu năm 1997 giảm so với năm
1996 là do: Cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra ở các nước ASEAN (là những thị
trường tiêu thụ sản phẩm chính của công ty) vào tháng 7/1997 đã làm cho nhu
cầu hàng nông sản trên thị trường các nước ASEAN giảm nghiêm trọng. Do vậy
sản phẩm của công ty tiêu thụ ở thị trường này rất chậm, thậm chí trong năm
công ty đã phải ngừng xuất khẩu một số mặt hàng truyền thống tại những

trường tiêu thụ truyền thống của công ty. Thêm vào đấy, cuộc khủng hoảng tài
chính đã làm cho đồng tiền của các nước trong khu vực rẻ tương đối so với
đồng tiền Việt Nam nên sức cạnh trang về giá sản phẩm của công ty rẻ hơn
nhiều so với sản phẩm cùng loại của của nước trong khu vực. Trong năm công
ty đã phải hạ giá hầu hêt các sản phẩm của mình song sản phẩm của công ty tiêu
thụ vẫn rất chậm, giá trị hàng tồn kho lớn. VD: Năm 1996: Giá lạc nhân của
công ty là: 550 USD/tấn thì năm 1997 giá giảm xuống còn 536 USD/tấn; giá
hạt điều giảm từ 1200 USD/tấn xuống còn 1150 USD/tấn; giá vừng giảm từ
580USD/tấn xuống còn 500USD/tấn.
Sang năm 1998: cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực tiếp tục tác
động gay gắt đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Thị trường tiêu thụ
sản phẩm của công ty tiếp tục bị thu hẹp, giá một số mặt hàng chủ lực tiếp tục
giảm mạnh. Tuy nhiên rút kinh nghiệm từ năm 1997, ban lãnh đạo công ty đã đề
ra phương hướng và những biện pháp cụ thể phù hợp với tình hình hiện tại đưa
công ty vượt lên những khó khăn để tồn tại và tiếp tục phát triển. Trên thực tế,
kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty đã có sự cải thiện rõ rệt. Năm
1998 kim ngạch xuất khẩu đã tăng so với năm 1997 là 1.100.448,45USD, tương
đương với 33,49%. Một số biện pháp mà công ty đã áp dụng cho phù hợp với
tình hình mới đó là: Bổ sung và hoàn chỉnh cơ chế khoán kinh doanh với mức
phí thích hợp, đảm bảo vốn kịp thời cho hoạt động kinh doanh thông qua việc
tranh thủ các mối quan hệ ngân hàng để vay vốn, đôn đốc bàn hàng tốn kho để
vay vốn...
Sang năm 1999 và năm 2000, cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực
đã tạm ngưng, nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực đã bắt đầu hồi phục
nên cầu về hàng nông sản của công ty đã bắt đầu tăng trở lại. Do vậy kim ngạch
xuất khẩu của công ty trong 2 năm 1999 và 2000 tiếp tục được cải thiện.
Năm 1999 giá trị xuất khẩu hàng nông sản tăng so với năm 1998 là
1.307.742,34USD tương đương với 29,8%. Tuy xét về giá trị tăng tương đối của
năm 1999 so với năm 1998 nhỏ hơn giá trị tăng của năm 1998 so với năm 1997
nhưng xét về giá trị tăng tuyệt đối thì giá trị tăng của năm 1999 so với 1998 vẫn

lớn hơn giá trị tăng của năm 1998 so với 1997.
Năm 2000 kim ngạch xuất khẩu xuất khẩu nông sản của công ty đã tăng so
với năm 1999 là 3.045.893,03 USD tương đương với 53,48%. Ngoài nguyên
nhân chính là nền kinh tế trong khu vực đã hồi phục còn phải kể đến một số
nguyên nhân khác làm kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng đáng kể trong hai
năm 1999 và 2000 là:
 Mặt hàng xuất khẩu của công ty trong thời gian qua đã được mở rộng.
 Số lượng từng mặt hàng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước.
 Nghiệp vụ thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của cán bộ công nhân viên
trong công ty đã hoàn thiện hơn nên chất lượng hàng cao hơn, tiết kiệm
được chi phí hơn do vậy lợi nhuận thu được từ mỗi thương vụ xuất khẩu
cũng cao hơn.
Trong hai năm 1999 và 2000 công ty đã gặp nhiều thuận lợi hơn so với các
năm trước đó nhưng vẫn còn không ít khó khăn mà công ty gặp phải. Đó là số
lượng các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu hàng nông sản ngày
càng tăng làm cho tình trạng tranh mua, tranh bán xảy ra phổ biến. Giá hàng
nông sản thu mua trong nước bị đẩy lên cao song khi ra thị trường nước ngoài
thì doanh nghiệp lại bị ép bán hàng với giá rẻ bởi hàng nông sản được xuất khẩu
ồ ạt ra thị trường và các doanh nghiệp đều mong muốn hàng của mình được tiêu
thụ nhanh chóng nên chấp nhận bán với giá cạnh tranh hơn so với đối thủ cạnh
tranh.
Trong thời gian qua, không những kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của
công ty tăng mà tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu của công ty cũng tăng. Hàng
nông sản đang có xu hướng trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.
Bảng 5: Tỷ trọng hàng nông sản xuất khẩu của công ty VILEXIM giai đoạn
1996 - 2000. ĐV: USD.
Năm 1996 1997 1998 1999 2000
KNXKN
S
5.244.000 3.286.818,2 4.387.264,6 5.695.007 8.740.900

TKNXK 7.225.000 6.570.523,4 8.437.047,4 10.546.310 12.000.000
Tỷ trọng 72,58% 50% 52% 54% 72,84%
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Năm 1996 kim ngạch xuất khẩu hàng nông
sản của công ty chiếm 72,58% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên trong
3 năm 1997, 1998, 1999 giá trị này lại giảm xuống còn 50%, 52%, 54%.
Nguyên nhân của sự giả sút này chính là những khó khăn mà công ty gặp phải
như đã phân tích ở phần trên. Đến năm 2000, hàng nông sản của công ty đã có
ưu thế trở lại trong cơ cấu hàng xuất khẩu và đã chiếm tới 72,84% tổng giá trị
xuất khẩu của công ty. Hiện tại và trong thời gian tới, hàng nông sản đang có xu
hướng trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiến lược của công ty.
2.Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu của công ty.
Bảng 5: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty giai đoạn 1996 - 2000.

Qua bảng số liệu trên ta thấy:
Năm 1996: Lạc nhân là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng vị trí số
một của công ty. Tiếp theo sau là hạt điều, sắn lát, vừng, đậu. Đối với mặt hàng
lạc nhân, khối lượng xuất khẩu năm 1996 là 7800 tấn, tăng so với năm 1995 là
4800 tấn, tương đương với 160% song về kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng so với
năm 1995 là 2,4triệu USD, tương đương với 78,75%. Như vậy, tốc độ tăng về
khối lượng lớn hơn tốc độ tăng về kim ngạch. Nguyên nhân của hiện tượng tốc
độ tăng về kim ngạch không theo kịp tốc độ tăng về khối lượng là do giá lạc
nhân của công ty trong năm giảm mạnh (giá lạc nhân năm 1996 giảm 80
USD/tấn so với năm 1995). Sau khi mất đi vị trí của mình trong danh sách các
mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty năm 1995, năm 1996 mặt hàng sắn lắt
đã được xuất khẩu trở lại. Tuy nhiên các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của
công ty như cà phê, ngô, hạt tiêu, hành, tỏi lại không có trong danh sách các mặt
hàng xuất khẩu.
Các năm 1997, 1998, 1999: mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty
giống nhau. Ngoài các mặt hàng xuất khẩu năm 1996, các mặt hàng cà phê, hạt

tiêu, hành, tỏi đã tìm lại được chỗ đứng của mình. Ngoài ra công ty còn xuất
khẩu thêm một số mặt hàng khác như gạo, kê, che, lá tre và nâng tổng số mặt
hàng xuất khẩu của công ty là 12. Lạc nhân vẫn là mặt hàng được xuất khẩu với
số lượng lớn nhất trong 3 năm 1997, 1998, 1999. Tiếp theo đó là hạt tiêu, hạt
điều, gạo, cà phê. Tuy nhiên các mặt hàng này có một chút sự thay đổi vị trí xếp
hạng trong từng năm.
Năm 2000, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty có sự biến động mạnh
so với các năm trước đó. Điển hình là sự tăng đột biến trong xuất khẩu gạo. Mặt
hàng gạo từ chỗ đứng vị trí thứ 3 trong kim ngạch xuất khẩu năm 1997, thứ 2
năm 1998 và năm 1999, chiếm tỷ trọng khẩu trên 10% trong tổng kim ngạch
xuất hàng nông sản thì đến năm 2000 gạo đã vươn lên đứng vị trí thứ nhất với
tỷ trọng trên 40%. Ngoài ra số lượng mặt hàng nông sản đã bị thu hẹp xuống
còn 8 với sự biến mất của cà phê, hạt điều, kê, lá tre và sự trở lại của sắn lát, sự
xuất hiện của mặt hàng mới (hoa hồi).
Nguyên nhân làm cho hai mặt hàng cà phê, hạt điều (các mặt hàng xuất khẩu
chủ lực các năm trước của công ty) biến khỏi danh sách hàng nông sản xuất
khẩu năm 2000 là: cung các mặt hàng này trên thị trường thế giới tăng nhưng
cầu lại giảm mạnh. Do đó hàng của công ty không thể cạnh tranh để tiêu thụ ở
thị trường thế giới.
Qua phân tích cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty thời gian
qua thấy có một số vấn đề tồn tại sau:
Mặt hàng xuất khẩu của công ty tương đối rộng, công ty xuất khẩu dàn trải
ở nhiều mặt hàng song do tiềm lực về tài chính và nhân lực của công ty có hạn
nên số lượng xuất khẩu ở từng mặt hàng không cao, kim ngạch xuất khẩu thu
được ở từng mặt hàng cũng không cao.
Có sự bất ổn định lớn trong xuất khẩu ở một số mặt hàng có tiềm năng sản
xuất và xuất khẩu của Việt Nam (mặt hàng ấy cũng được xem là mặt hàng chủ
lực và chiến lược của công ty) VD: Hai mặt hàng điều và cà phê, là những mặt
hàng đem lại kim ngạch xuất khẩu lớn cho công ty ở các năm 1997, 1998, 1999
nhưng lại không còn được xuất khẩu ở năm 2000.

3.Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty.
a. Khái quát chung chất lượng hàng nông sản của công ty.
Công ty VILEXIM là một công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu. Công ty
không tổ chức sản xuất và chế biến hàng nông sản xuất khẩu nên chất lượng
hàng nông sản xuất khẩu của công ty phụ thuộc vào quá trình sản xuất, chế biến,
bảo quản hàng nông sản chung của cả nước thông qua nghiệp vụ thu mua tạo
nguồn hàng xuất khẩu.
Trong thời gian qua, nhà nước ta đã quan tâm song chưa thực sự hiệu quả
vấn đề giúp đỡ nhân dân có nguồn vốn ban đầu để trang trải cho việc mở rộng
diện tích gieo trồng, thay đổi giống cây trồng, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nên nông dân nhiều khi phải trồng những loại cây thoái hoá, lẫn
tạp, chất lượng không đồng bộ hoặc chạy theo những giống cây trồng cho năng
suất cao nhưng chất lượng lại thấp.
Quá trình chế biến, hàng nông sản của cả nước cũng tác động đến chất
lượng hàng xuất khẩu của công ty. Trong thời gian qua, hoạt động chế biến
hàng nông sản của nước ta chưa thực sự được chú trọng đầu tư phát triển nên
hàng xuất khẩu của công ty chủ yếu là sản phẩm thô hoặc mới chỉ qua sơ chế,
chưa đáp ứng được yêu cầu cao của thị trường thế giới.
Ngoài ra, với tính chất dễ mốc, ẩm, biến chất thì khâu bảo quản cũng đóng
vai trò quan trọng quyết định chất lượng hàng xuất khẩu. Hiện nay hệ thống sân
phơi, kho bãi, phòng sấy và các thiết bị khác phục vụ công tác bảo quản hàng
nông sản nhìn chung vẫn còn thiếu về số lượng, kém về chất lượng. Hệ thống
kho tàng mới chỉ là nơi chứa hàng chứ chưa đủ điều kiện là nơi bảo quản, chống
mối, mọt, nấm...cho hàng. Các nhà máy sấy còn thiếu, quy mô nhỏ, chủ yếu là
sử dụng các biện pháp thủ công với nguyên liệu chính là than củi nên năngsuất
chế biến thấp, chất lượng không đảm bảo.
Tóm lại hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của công ty
nói riêng còn thấp. Vì vậy hàng nông sản xuất khẩu của công ty gặp phải nhiều
khó khăn khi cạnh tranh với các đối thủ xuất khẩu sản phẩm cùng loại.
b.Chất lượng một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty.

Chất lượng lạc nhân xuất khẩu.
Khí hậu nhiệt đới nước ta là điều kiện thuận lợi cho cây lạc phát triển. Với
đặc điểm là cây công nghiệp ngắn ngày (85-90 ngày), cây lạc đặc biệt phù hợp
với những vùng hay bị thiên tai, hạn hán. Vì vậy, miền Trung và Trung Du là hai
nguồn cung cấp lạc chủ yếu của nước ta.
Trong những năm qua, nhận thức rõ vai trò của cây lạc trong sản xuất và
xuất khẩu nông nghiệp, các địa phương trong nước đã tích cực thực hiện công
tác khuyến nông, từng bước đưa giống lạc mới có năng suất và chất lượng cao
vào gieo trồng đồng thời áp dụng một số tiến bộ khoa học vào sản xuất. Vì vậy
chất lượng lạc nhân xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của công ty
VILEXIM nói riêng đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, so với một số nước
khác cũng sản xuất lạc trên thế giới thì chất lượng lạc của VILEXIM còn kém
hơn nhiều. VD: So sánh về cỡ hạt: Lạc nhân Việt Nam có cỡ hạt khoảng 60 - 70
hạt / ounce trong khi đó lạc nhân của Mỹ chỉ khoảng 40 hạt / ounce.
Ngoài yếu tố giống, phương pháp gieo trồng, công tác chế biến và bảo
quản cũng có tác động trực tiếp đến chất lượng Lạc xuất khẩu của công ty.
Thông thường hạt Lạc tươi chiếm khoảng 40% độ ẩm. Theo yêu cầu chung
của thị trường thế giới thì sau khi phơi khô hàm lượng này chỉ còn 10% hoặc ít
hơn, khi bảo quản Lạc phải có độ ẩm <10%. Hiện nay chúng ta thường nhờ
nắng, gió làm khô Lạc. Tuy rằng biện pháp này rất kinh tế song lại không chủ
động, gặp lúc trời mưa hay nắng yếu phải phơi kéo dài. Đây là dịp tốt để các
sinh vật có hại phát triển trên hạt Lạc. Những quá trình sinh lý bất lợi như (hô
hấp, tự bốc nóng) cũng sẽ xảy ra và làm giảm chất lượng Lạc. Đặc biệt là việc
phơi lạc dưới nắng Hè quá lâu (như trong điều kiện nắng và gió Lào Nghệ
Tĩnh) sẽ gây hiện tượng chảy dầu và dễ bị vỡ khi bóc vỏ, làm giảm chất lượng
Lạc.
Như vậy, có thể thấy khí hậu nhiệt đới của nước ta không những là điều
kiện khí hậu tuyệt vời cho cây nông nghiệp phát triển mà cũng là điều kiện
thuận lơi cho các loại sâu, mọt, nấm, mốc ... phát triển. Chính vì vậy công tác
bảo quản phải được công ty đặc biệt chú trọng. Tuy nhiên trong thời gian qua,

hệ thống kho tàng bảo quản của công ty vẫn chưa được đầu tư thích đáng,

×