LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VÀ
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN LƯU ĐỘNG
I- KHÁI NIỆM KẾT CẤU VÀ VAI TRÒ CỦA VỐN LƯU ĐỘNG TRONG
HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH :
1. Khái niệm về vốn lưu động :
Mỗi một doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài tư liệu
lao động ra còn phải có đối tượng lao động, đối tượng lao động khi tham gia
vào quá trình sản xuất không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu và chỉ có thể
tham gia một chu kỳ sản xuất nấy. Vì vậy toàn bộ giá trị của đối tượng lao động
được dịch chuyển toàn bộ một lần vào sản phẩm và được bù đắp khi giá trị sản
phẩm được thực hiện.
ĐTLĐ trong doanh nghiệp được biểu hiện thành hai bộ phận : Một bộ
phận là những vật tư dự trữ để chuẩn bị cho quá trình sản xuất được liên tục
(nguyên vật liệu chính, nguyên vật liệu phụ), một bộ phận là những vật tư đang
trong quá trình chế biến (sản phẩm dở dang, bán thành phẩm, CCDC ...). Hai bộ
phận này biểu hiện dưới hình thái vật chất gọi là tài sản lưu động sản xuất.
Ngoài ra, quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gắn liền với
quá trình lưu thông như chọn lọc, đóng gói, xuất giao sản phẩm, thanh toán ...
và những tài sản nằm trong quá trình lưu thông như hàng hoá chưa tiêu thụ, các
khoản tiền phát sinh trong lưu thông gọi là tài sản lưu thông. TSLĐ trong quá
trình sản xuất và TSLĐ trong quá trình lưu thông thay chỗ nhau vận động không
ngừng nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất được liên tục. Do đó, doanh nghiệp
nào cũng cần một số vốn thích ứng để đầu tư vào các tài sản này, số tiền ứng
trước về những tài sản đó gọi là vốn lưu động.
Vậy vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về TSLĐ sản
xuất và TSLĐ lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh
nghiệp được thực hiện thường xuyên liên tục.
Có thể định nghĩa vốn lưu động theo cách khác : VLĐ của doanh nghiệp
là các khoản đầu tư của doanh nghiệp vào tài sản ngắn hạn như tiền mặt, các
khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các tài sản
lưu động khác có khả năng chuyển đổi thành tiền trong vòng 01 năm.
2. Đặc điểm của vốn lưu động :
Vốn lưu động luôn được chuyển hoá qua nhiều hình thái khác nhau, bắt
đầu từ hình thái tiền tệ sang hình thái dự trữ, sản xuất, vật tư hàng hoá và cuối
cùng trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp diễn ra liên tục. Vì vậy vốn lưu động cũng tuần hoàn không ngừng có
tính chất chu kỳ thành chu chuyển của tiền vốn.
3. Vai trò của vốn lưu động :
- Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu của quá trình sản
xuất kinh doanh, do đặc điểm tuần hoàn của vốn lưu động trong cùng một lúc
phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thức
khác nhau. Để có tổ chức hợp lý sự tuần hoàn của các tài sản và quá trình sản
xuất kinh doanh được liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn để đầu tư cũng như
có được mức tồn hợp lý và đồng bộ, nếu không quá trình sản xuất kinh doanh sẽ
gặp khó khăn.
- Vốn lưu động là công cụ phản ánh và kiểm tra quá trình vận đọng của
vật tư. Trong doanh nghiệp sự vận động của vốn phản ánh sự vận động của vật
tư. Vốn lưu động nhiều hay ít, tốc độ luân chuyển nhanh hay chậm sẽ phản ánh
số lượng vật tư hàng hoá dự trữ ở các khâu nhiều hay ít, số lượng vật tư sử dụng
tiết kiệm hay không. Vậy thông qua tình hình luận chuyển vốn lưu động còn có
thể kiểm tra một cách toàn diện đối với việc cung cấp sản xuất và tiêu thụ của
doanh nghiệp.
- VLĐ là yếu tố nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, nâng cao uy
tín của doanh nghiệp trên thương trường. Trong quá trình sản xuất kinh doanh,
doanh nghiệp không thể không gặp những rủi ro mất mát, hư hỏng, giá cả biến
động, nếu qui mô và khả năng VLĐ lớn sẽ giúp doanh nghiệp làm chủ được quá
trình kinh oanh, đứng vững trong nền kinh tế thị trường khi có tính cạnh tranh
trong kinh doanh rất gay gắt.
II- KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH QUẢN
LÝ VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VLĐ :
1) Khái niệm :
Phân tích tình hình quản lý, sử dụng VLĐ là việc sử dụng những thông
tin kế toán cần thiết, áp dụng những phương pháp phân tích thích hợp nhằm tìm
hiểu đánh giá quản lý và sử dụng VLĐ ở doanh nghiệp, qua đó kiến nghị các
biện pháp để phát huy những điểm mạnh, khắc phục những mặt còn chưa tốt
của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho quá trình phát triển.
2) Sự cần thiết của việc phân tích tình hình quản lý và hiệu quả sử
dụng VLĐ :
VLĐ là yếu tố quan trọng và rất cần thiết đối với bất kì một doanh nghiệp
hoạt động sản xuất kinh doanh nào hay bất kì một nhà đầu tư nào khi muốn bỏ
vốn ra để đầu tư vào doanh nghiệp vì thông qua VLĐ, có thể đánh giá được tình
hình quản lý và sử dụng VLĐ tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, để có được thông tin
chính xác đó thì không chỉ đơn thuần căn cứ vào các bảng báo cáo tài chính mà
phải tiến hành quá trình phân tích những thông tin có liên quan đến VLĐ. Vì
vậy việc tiến hành phân tích tình hình quản lí và sử dụng VLĐ là đòi hỏi khách
quan. Mỗi đối tượng quan tâm ở những góc độ khác nhau và có xu hướng tập
trung vào những khía cạnh riêng phục vụ cho mục đích của họ. Chính vì thế tạo
ra sự phức tạp của việc phân tích nhưng đồng thời việc phân tích này đem lại
nhiều ý nghĩa khác nhau đối với mỗi đối tượng :
+ Đối với nhà quản lý doanh nghiệp : Một trong những mối quan tâm
hàng đầu của họ là làm thế nào để quản lý VLĐ đạt được hiệu quả tốt nhất trong
việc sử dụng VLĐ. Thông qua việc phân tích tình hình quản lý, sử dụng VLĐ,
họ có thể trả lời được những câu hỏi sau.
Doanh nghiệp nên dự trữ một lượng tiền mặt là bao nhiêu ? Có nên bán
chịu hay không ? Nếu có thì chính sách tín dụng bán hàng như thế nào và bán
chịu cho những khách hàng nào ... ? Từ đó có quyết định đúng đắn cho việc lựa
chọn các phương án kinh doanh, huy động vốn.
+ Đối với nhà cho vay (Ngân hàng, tổ chức tín dụng) hay nhà cung cấp ...
thì những đối tượng này đặc biệt chú ý đến khả năng thanh toán của doanh
nghiệp, tình hình công nợ, hiệu quả sử dụng vốn ... để có quyết định nên cho
doanh nghiệp vay hay bán hàng chịu không ?
Do những lợi ích trên nên trong quá trình kinh doanh phải xác định đúng
đắn qui mô, cơ cấu của lượng vốn này, tránh tình trạng thiếu hụt hay lãng phí.
Mỗi doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể về sử dụng VLĐ trong những thời
gian khác nhau, có như vậy quá trình SXKD mới đem lại hiệu quả cao.
III- TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH :
1) Tài liệu sử dụng để phân tích ;
Tài liệu sử dụng để phân tích là những số liệu, dữ liệu, chứng từ, sổ sách
có liên quan mà nhà phân tích cần phải dựa vào đó làm cơ sở để phân tích.
Ý nghĩa của những tài liệu này là nhằm cung cấp những thông tin chính
xác về tình hình của doanh nghiệp cho nhà phân tích nhằm phục vụ cho việc
phân tích được thuận lợi.
1.1. Bảng cân đối kế toán :
a. Nội dung của bảng cân đối kế toán ;
BCĐKT là một báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát tình hình
tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp dưới hình thái tiền tệ tại
một thời điểm nhất định. Thời điểm đó thường là cuối tháng, cuối quí, cuối
năm. Gồm hai phần :
- Phần tài sản phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp
tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình
kinh doanh doanh nghiệp. Các tài sản được sắp xếp theo khả năng hoán chuyển
thành tiền theo thứ tự giảm dần hoặc theo độ dài thời gian để chuyển hoá tài
sản thành tiền.
- Phần nguồn vốn phản ánh toàn bộ nguồn hình thành tài sản hiện có ở
doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các loại nguồn vốn được sắp xếp theo
trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn vốn đối với các chủ nợ
và chủ sở hữu.
b. Ý nghĩa của BCĐKT :
BCĐKT có ý nghĩa về mặt kinh tế và pháp lý. Về mặt kinh tế : số liệu
phần tài sản cho phép nhà phân tích đánh giá một cách tổng quát qui mô và kết
cấu tài sản của doanh nghiệp. Số liệu phần nguồn vốn phản ánh các nguồn tài
trợ cho tài sản của doanh nghiệp, qua đó đánh giá thực trạng tài chính của doanh
nghiệp. Về mặt pháp lý : số liệu phần tài sản thể hiện giá trị các loại tài sản hiện
có mà doanh nghiệp có quyền quản lý và sử dụng lâu dài để sinh lợi. Phần
nguồn vốn thể hiện phạm vi trách nhiệm và nghĩa vụ của doanh nghiệp về tổng
số vốn kinh doanh với chủ nợ và chủ sở hữu. Như vậy, tài liệu từ BCĐKT cung
cấp những thông tin tổng hợp về tình hình huy động và sử dụng vốn của doanh
nghiệp.
2.1. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
a. Nội dung báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là báo cáo tài chính tổng hợp,
phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong một
thời kỳ (quý, năm) chi tiết theo các loại hoạt động, tình hình thực hiện nghĩa vụ
của doanh nghiệp với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm ba phần chính :
Phần I : Lãi, lỗ : Thể hiện kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp theo 3 hoạt động :
+ Hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Hoạt động tài chính
+ Hoạt động bất thường
Phần II : Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Phần này phản ánh
tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác
(phí, lệ phí).
Phần III : Thuế GTGT được khấu trừ, được hoàn lại, được miễn giảm,
thuế GTGT hàng bán nội địa. Phần này phản ánh số thuế GTGT dược khấu trừ,
đã khấu trừ và còn được khấu trừ cuối kỳ; số thuế GTGT được hoàn lại, đã hoàn
lại và còn được hoàn lại; số thuế GTGT được miễn giảm, đã miễn giảm và còn
được miễn giảm cuối kỳ.
b. Ý nghĩa của Bảng kết quả hoạt động kinh doanh :
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh
giá hiệu quả kinh doanh và công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có thể kiểm tra tình
hình thực hiện kế hoạch thu nhập, chi phí và kết quả từng loại hoạt động cũng
như kết quả chung toàn doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo này còn là cơ sở để
đánh giá khuynh hướng hoạt động của doanh nghiệp trong nhiều năm liền, dự
báo hoạt động trong tương lai. Thông qua báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
có thể đánh giá được hiệu quả và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp : Đây là
một trong các nguồn thông tin rất bổ ích cho người ngoài doanh nghiệp trước
khi ra quyết định đầu tư vào doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo kết quả kinh
doanh còn cho phép đánh giá tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước về
thuế và các khoản phải nộp khác, đặc biệt là thanh quyết toán thuế GTGT, qua
đó đánh giá phần nào tình hình thanh toán của doanh nghiệp.
1.3. Các thông tin khác :
Bên cạnh việc sử dụng các BCTC cần được sử dụng thêm các sổ chi tiết,
các hợp đồng kinh tế .v.v... để phân tích tình hình quản lý sử dụng VLĐ được
cụ thể hơn, hoàn thiện hơn.
Chẳng hạn, dựa vào sổ chi tiết công nợ ta biết được các khoản phải thu
của doanh nghiệp đối với từng khách hàng, từ đó có biện pháp thích hợp đối với
mỗi khách hàng, hoặc khi hàng tồn kho tăng thì dựa vào sổ chi tiết thành phẩm
tồn kho, ta biết được loại hàng nào còn tồn đọng, loại nào thích ứng trên thị
trường, từ đó ta quyết định đúng đắn, phù hợp .
- Tuy nhiên, khi phân tích không chỉ giới hạn trong phạm vi các BCTC
hay sổ chi tiết mà mục tiêu của phân tích là đưa ra những dự báo giúp việc ra
quyết định về vốn trong tương lai của doanh nghiệp. Vì vậy, cần quan tâm đến
các thông tin chung như :
- Những thông tin về đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp:
Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong tổ chức sản xuất
kinh doanh và trong phương hướng hoạt động nên để đánh giá tình hình tài
chính, nhà phân tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm hoạt động của doanh
nghiệp, bao gồm :
+ Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp, gồm cả chiến lược
tài chính và chiến lược kinh doanh.
+ Tính thời vụ, tính chu kỳ trong hoạt động kinh doanh.
+ Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, khách hàng, và các
đối tượng khác.
+ Các chính sách hoạt động khác
+ v.v...
- Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế :
+ Thông tin về tăng trưởng kinh tế, suy thoái kinh tế.
+ Thông tin về lãi suất ngân hàng, trái phiếu kho bạc, tỷ giá ngoại tệ.
+ Thông tin về lạm phát.
+ Các chính sách kinh tế lớn của Chính phủ, chính sách chính trị, ngoại
giao của Nhà nước ...
- Những thông tin theo ngành, lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp như
:
+ Mức độ và yêu cầu công nghệ của ngành.
+ Mức độ cạnh tranh và qui mô của thị trường.
+ Tính chất cạnh tranh của thị trường hay mối quan hệ giữa doanh nghiệp
với nhà cung cấp và khách hàng.
+ Nguy cơ xuất hiện những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng.
+ v.v...
2) Các phương pháp sử dụng để phân tích :
2.1. Phương pháp so sánh :
Phương pháp so sánh là phương pháp sử dụng phổ biến nhất trong phân
tích tài chính. Để vận dụng phép so sánh trong phân tích tài chính cần quan tâm
đến tiêu chuẩn so sánh, điều kiện so sánh của chỉ tiêu phân tích cũng như kĩ
thuật so sánh.
- Tiêu chuẩn so sánh : là chỉ tiêu gốc được chọn làm căn cứ so sánh. Khi
phân tích tài chính, nhà phân tích thường sử dụng các gốc sau :
+ Sử dụng số liệu tài chính ở nhiều kỳ trước để đánh giá và dự báo xu
hướng của các chỉ tiêu tài chính. Thông thường, số liệu phân tích được tổ chức
từ 3 đến 5 năm liền kề.