Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Hệ thống phương pháp dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (778.93 KB, 8 trang )

HNUE JOURNAL OF SCIENCE
Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4C, pp. 296-303
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0050

HỆ THỐNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC LỊCH SỬ
THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC HỌC SINH
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Nguyễn Thị Thế Bình*1, Trương Trung Phương2 và Lê Thị Thu3
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
3
Trường Trung học Cơ sở và Trung học Phổ thông Nguyễn Tất Thành, Hà Nội
1

2

Tóm tắt. Thực hiện Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, cùng với việc đổi mới về chương trình, sách giáo khoa,
mục tiêu, nội dung, hình thức, kiểm tra đánh giá, cơ sở vật chất, trình độ quản lí, đổi mới về
phương pháp dạy học giữ vai trò then chốt. Trên cơ sở nghiên cứu việc đổi mới phương
pháp dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, tác giả đề xuất việc sử dụng hệ thống
phương pháp dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh nhằm đáp ứng
yêu cầu của Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử (2018) và góp phần nâng cao
chất lượng dạy học bộ môn ở trường trung học phổ thông.
Từ khóa: phương pháp dạy học lịch sử, năng lực, phát triển năng lực HS, chương trình giáo
dục phổ thông, trung học phổ thông.

1. Mở đầu


Quá trình dạy học (DH) nói chung, DH Lịch sử (DHLS) ở trường trung học phổ thông
(THPT) nói riêng, gồm nhiều yếu tố: mục tiêu DH - nội dung DH - hình thức tổ chức DH Phương pháp (PP), phương tiện DH - chương trình - sách giáo khoa (SGK) – kiểm tra, đánh giá
- môi trường DH. Chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo thành một chỉnh thể thống
nhất, cùng hỗ trợ và thúc đẩy nhau phát triển. Trong các yếu tố đó, PPDH giữ vai trò then chốt,
quyết định chất lượng DH. Vì vậy, vấn đề PPDHLS đã được các nhà khoa học trong và ngoài
nước nghiên cứu từ rất sớm. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
A.A.Vaghin đã đề cập đến hệ thống PPDHLS trong cuốn “PP giảng dạy LS ở trường phổ
thông” (1972) [1]. Cuốn “Chuẩn bị giờ học LS như thế nào”? của N.G. Đairi (1978) trình bày
cơ sở lí luận và thực tiễn để tiến hành một giờ học LS hiệu quả. Ông khẳng định,“hoạt động
nhận thức tích cực có tính độc lập của HS được xem như là một điều kiện bắt buộc đối với một
giờ học được tổ chức một cách khoa học và có hiệu quả cao” [2, tr 8]. Một số tác giả khác như
Korovkin với PPDHLS (1981) [3], Công nghệ hiện đại trong DHLS ở trường phổ thông”
(2007) [4]; M.T Stuđennhiki, Amy Absher với One way teach history through artifacts Teaching History in America, (2012) (Một cách thức DHLS qua các hiện vật); [5] “Teaching
and Learning history in elementary school” [6] của Jere Brophy and Bruce Vansledrigh là
những tác giả đã để lại nhiều công trình có giá trị về PPDHLS... Nhìn chung, các công trình
Ngày nhận bài:2/3/2020. Ngày sửa bài: 16/3/2020. Ngày nhận đăng: 23/3/2020.
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Thế Bình. Địa chỉ e-mail:

296


Hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh...

nghiên cứu trên đều khẳng định tầm quan trọng của PPDH đối với bộ môn LS. Đồng thời, chỉ ra
cách thức sử dụng các PPDH để đạt được mục tiêu DH bộ môn.
Ở trong nước, giáo trình PPDH Lịch sử (1966; 1976; 1980; 1999, 2002 và tái bản qua các
năm 2010, 2012...) của tác giả Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị
Côi [7] là những cuốn sách dùng trong đào tạo, bồi dưỡng GV vẫn còn nguyên giá trị cho đến
ngày nay. Trong đó, trình bày về đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, bản chất, phân loại và cách
thức sử dụng các PPDH trong quá trình DHLS ở trường PT. Ngoài ra, còn có nhiều chuyên đề

và các Hội thảo khoa học đi sâu nghiên cứu về PPDHLS như Đổi mới nội dung và PPDHLS ở
trường PT [8]; Đổi mới PPDHLS (2014) [9]; Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả bài
học LS ở trường phổ thông (Tái bản năm 2016) [10]. Bên cạnh đó, còn có nhiều bài viết được
đăng tải trên các tạp chí uy tín xoay quanh vấn đề này.
Trong những năm gần đây, thực hiện Nghị quyết 29 của BCH Trung ương Đảng về đổi
mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), có rất nhiều Hội thảo, bài viết của các
nhà khoa học trong và ngoài nước đi sâu nghiên cứu về đổi mới PPDH theo định hướng phát
triển NL của HS. Tiêu biểu như đề tài Phát triển chương trình giáo dục phổ thông theo định
hướng phát triển NL người học (2011) [11]; Hội thảo Đổi mới chương trình và SGK sau năm
2015, (2013) [12]; Hội thảo Quốc tế “ Phát triển đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục
phổ thông” (2016) [13] với bài viết tiêu biểu của Trần Ngọc Điệp về: “Đổi mới PPDH của GV
THPT theo định hướng phát triển năng lực học sinh”. Kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Đào tạo
và bồi dưỡng giáo viên môn Lịch sử đáp ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa,
(2017) [14]. Trong đó, có nhiều bài viết đã đề cập đến việc đổi mới PPDH theo định hướng phát
triển NL người học ở các mức độ khác nhau, tiêu biểu là Nghiêm Đình Vỳ với bài viết Tích hợp
trong chương trình và SGK LS ở Tiểu học và THCS sau năm 2018. Ngoài ra, còn nhiều chuyên
đề về đổi mới PPDH theo định hướng phát triển NL người học được dùng trong các lớp tập
huấn, bồi dưỡng GV những năm gần đây. Tiêu biểu như Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và
giáo viên THPT xây dựng các chuyên đề DH và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển
năng lực HS môn LS (2014) [15]; Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên THPT DH tích
hợp liên môn lĩnh vực khoa học xã hội” (2015) [16].
Như vậy, qua khảo cứu chúng tôi nhận thấy có rất nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống
PPDH nói chung, PPDHLS ở trường THPT nói riêng, nhưng chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu về hệ thống PPDH theo định hướng phát triển năng lực HS trong DHLS ở trường
THPT. Vấn đề đặt ra là Cần phát triển những NL chung và chuyên biệt nào cho HS trong quá
trình DHLS ở trường THPT? Làm thế nào để lựa chọn được PPDH tối ưu để phát triển NL
người học? Để hình thành một NL cụ thể cần vận dụng linh hoạt các PP, phương tiện và hình
thức tổ chức DH dạy học nào cho hiệu quả?… Chính sự lúng túng nêu trên đã phần nào hạn chế
kết quả của quá trình đổi mới PPDHLS hiện nay. Vì vậy, trong khuôn khổ bài viết này, tác giả
tập trung phân tích những ưu nhược điểm của hệ thống PPDHLS hiện hành, đề xuất việc sử

dụng hệ thống PPDH theo định hướng phát triển NL HS trong DHLS ở trường THPT, với mong
muốn góp phần nhỏ vào việc đổi mới và nâng cao chất lượng DHLS hiện nay.

2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Cơ sở xác định hệ thống phương pháp dạy học lịch sử theo định hướng phát
triển năng lực học sinh ở trường Trung học phổ thông
2.1.1. Yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thông
Giáo dục Việt Nam đang trong quá trình hội nhập toàn cầu, những kết quả đạt được của
giáo dục nước nhà trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững đất
nước. Vì vậy, việc không ngừng đổi mới giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang
297


Nguyễn Thị Thế Bình*, Trương Trung Phương và Lê Thị Thu

bị cho thế hệ trẻ nền tảng văn hoá vững chắc, năng lực thích ứng trước mọi biến động của xã hội
trở thành nhu cầu cấp thiết.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới
căn bản, toàn diện GD&ĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế; Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 về đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông,
góp phần đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. Ngày 27/3/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành
Quyết định số 404/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông.
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
Chương trình giáo dục phổ thông Tổng thể (2018) được xây dựng theo định hướng phát triển
phẩm chất và NL của HS, với mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ có những phẩm chất tốt đẹp và NL
cần thiết để trở thành người công dân toàn cầu, có trách nhiệm, người lao động có văn hoá, cần
cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong tình
hình mới [17, tr 6]. Điều này đặt ra yêu cầu đổi mới hoạt động DH, trong đó đổi mới về hệ

thống PPDH nhằm phát triển phẩm chất và NL của HS trở thành cấp thiết và mang tính thực
tiễn cao.
Hệ thống PPDHLS được hình thành thông qua quá trình nghiên cứu tích lũy của nhiều thế
hệ, trở thành cơ sở để GV tổ chức hoạt động DH hiệu quả. Chương trình giáo dục phổ thông
Tổng thể (2018) xác định năm phẩm chất chung cần bồi dưỡng và phát triển cho HS là: yêu
nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm [17, tr. 7]. Nhưng do đặc trưng, nội dung và
ưu thế của bộ môn Lịch sử nên trong quá trình DH còn bồi dưỡng cho HS nhiều phẩm chất tốt
đẹp khác như lòng dũng cảm, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, ý chí, nghị lực vượt qua khó
khăn. Đồng thời, hình thành và phát triển cho HS những NL đặc thù của bộ môn như NL tìm
hiểu lịch sử; NL nhận thức và tư duy LS; NL vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học [18, tr. 7-8]. Để
hình thành và phát triển được các phẩm chất và NL của HS, trong quá trình DHLS ở trường
THPT đòi hỏi mỗi GV phải nỗ lực phấn đấu, tự bồi dưỡng, trau dồi kiến thức chuyên môn,
nghiệp vụ sư phạm, nghệ thuật DH, trong đó sử dụng hệ thống PPDH theo định hướng phát
triển NL và phẩm chất HS là một trong những yếu tố quyết định.
2.1.2. Ưu điểm và hạn chế của hệ thống phương pháp dạy học lịch sử hiện hành
Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được xây dựng dựa trên quan điểm tiếp cận nội
dung DH. Đối với bộ môn LS, trên cơ sở mục tiêu, quan điểm giáo dục và đặc trưng bộ môn,
căn cứ vào quy luật nhận thức, các nhà giáo dục đã phân loại hệ thống PPDHLS thành: nhóm
PP thông tin - tái hiện LS, nhóm PP nhận thức LS và nhóm PP tìm tòi nghiên cứu [7, tr. 14].
Nhóm PP thông tin - tái hiện LS chủ yếu gồm PP dùng lời và PP trực quan. Trong quá trình
DH, PP dùng lời được GV triển khai thông qua các biện pháp sư phạm chủ yếu như: tường
thuật; miêu tả; nêu đặc điểm; giải thích. PP trực quan trong DHLS là cách thức, biện pháp sư
phạm được GV sử dụng dựa trên các loại đồ dùng trực quan (ĐDTQ) nhằm huy động các giác
quan của HS tham gia vào quá trình nhận thức LS. ĐDTQ đem đến cho người học những hình
ảnh cụ thể, sinh động về quá khứ, khắc phục tình trạng “hiện đại hóa” LS. ĐDTQ trong DHLS
được chia thành 3 nhóm: ĐDTQ hiện vật, ĐDTQ tạo hình và ĐDTQ quy ước.
Nhóm các PP phát triển năng lực nhận thức bao gồm: PP sử dụng SGKvà tài liệu tham
khảo; PP sử dụng câu hỏi, bài tập lịch sử; PP trao đổi đàm thoại... Nhóm PP này được tiến hành
trên cơ sở HS đã lĩnh hội kiến thức cơ bản về các sự kiện, hiện tượng LS, từ đó đi sâu tìm hiểu
mối liên hệ bản chất bên trong, giúp HS đi từ “biết” đến “hiểu” sâu sắc các sự kiện, hiện tượng LS.

Nhóm PP tìm tòi - nghiên cứu bao gồm các PPDH như DH nêu vấn đề; DH tích hợp liên
môn; DH dự án… Nhóm PP này được tiến hành thông qua các PPDH cụ thể, phù hợp với trình
298


Hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh...

độ nhận thức và yêu cầu học tập của HS, góp phần phát triển kĩ năng tự học, tự chiếm lĩnh kiến
thức, chủ động sử dụng tri thức đã có vào giải quyết các nhiệm vụ học tập và trong đời sống.
Với cách phân loại hệ thống PPDHLS hiện hành thể hiện được tính khoa học, lôgic và phù
hợp với sự phát triển từ thấp đến cao của quá trình nhận thức, khả năng tư duy của HS, cũng
như con đường hình thành kiến thức LS cho HS. Trong thực tiễn DHLS hiện nay ở trường
THPT, có rất nhiều GV đã biết vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo các nhóm PPDH nên có
nhiều tiết học đạt chất lượng tốt, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho HS. Tuy nhiên, hệ
thống PPDH hiện nay được GV sử dụng chủ yếu nhằm mục đích truyền thụ và trang bị tối đa
kiến thức theo SGK cho HS, điều này buộc HS phải chú trọng ghi nhớ, học thuộc nội dung kiến
thức, hạn chế tính chủ động và sáng tạo ở người học, mà chưa chú trọng đến mục tiêu DH theo
định hướng phát triển NL của HS. Vì vậy, phải có sự điều chỉnh, bổ sung hệ thống PPDHLS
phù hợp để đáp ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

2.2. Hệ thống phương pháp dạy học lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học
sinh ở trường Trung học phổ thông
Chương trình giáo dục phổ thông môn LS (2018) định hướng PPDH chủ đạo là tích cực
hóa hoạt động của người học nhằm phát triển các phẩm chất chủ yếu, các NL chung và NL đặc
thù cho HS. Vì vậy, việc vận dụng linh hoạt, đa dạng và sáng tạo hệ thống PPDHLS hiện hành
vừa là yêu cầu, vừa là là điều kiện tiên quyết để GV tổ chức thành công quá trình DHLS ở trường
THPT. Căn cứ vào các NL bộ môn được quy định trong Chương trình giáo dục phổ thông môn LS
(2018), trên cơ sở tiếp thu và vận dụng linh hoạt hệ thống PPDHLS hiện hành, chúng tôi đề xuất hệ
thống các PPDH theo định hướng phát triển phẩm chất và NL của HS như sau:
2.2.1. Nhóm phương pháp dạy học phát triển năng lực tìm hiểu lịch sử

Trong các NL cần hình thành cho HS cấp THPT, năng lực tìm hiểu LS (NLTHLS) được
xem là NL cơ bản, nền tảng cho các NL khác. NLTHLS được mô tả ở 2 cấp độ chủ yếu. Một là,
nhận diện và sử dụng tư liệu lịch sử (TLLS): phân biệt được các loại hình TLLS, hiểu được nội
dung, khai thác và sử dụng được TLLS trong quá trình học tập; Hai là, tái hiện và trình bày LS:
mô tả, trình bày (nói hoặc viết) diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình LS từ đơn giản
đến phức tạp; xác định được các sự kiện LS trong không gian và thời gian cụ thể [18, tr.7]. Mục
đích của nhóm PP này là phải hình thành ở HS khả năng nhận diện, khai thác, sử dụng được các
nguồn TLLS; biết trình bày sự kiện, hiện tượng, nhân vật LS một cách khách quan, chân thực
nhất trên cơ sở tái tạo hình ảnh quá khứ bằng trí tưởng tượng của HS.
NLTHLS là NL cốt lõi đầu tiên cần trang bị cho HS trong quá trình DHLS ở trường THPT.
Bởi lẽ, mục tiêu DH hiện nay là dạy cho HS biết cách học phù hợp với khả năng nhận thức của
HS, trên cơ sở phát huy cao độ tính tự giác, tự học, độc lập và sáng tạo trong quá trình nhận
thức. Theo đó, NL học tập LS đầu tiên của HS không phải là khả năng ghi nhớ kiến thức, ghi
chép bài hợp lí hay trình bày lại kiến thức do GV cung cấp, mà là khả năng nhận diện và khai
thác các nguồn sử liệu để phục vụ việc học tập. HS phải có kĩ năng tìm hiểu, tự nhận diện và
đánh giá được nguồn tư liệu đảm bảo tính khoa học, tính tư tưởng, hữu ích cho quá trình học
tập. Đồng thời, biết cách sưu tầm tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau như tư liệu trong SGK, sách
tham khảo, từ mạng internet, báo chí, hay những kiến thức từ cuộc sống hiện tại …; biết chọn
lọc và ghi chép tư liệu đúng PP. Tiếp đó, HS phải biết khai thác nguồn tư liệu hợp lí và hiệu quả
trong quá trình học tập như sử dụng tư liệu để trình bày hoàn cảnh, diễn biến, kết quả của một
sự kiện LS hay mô tả quá trình hoạt động của một nhân vật LS. Qua đó, tái hiện được bức tranh
hiện thực của quá khứ, giúp HS “biết” LS diễn ra như thế nào một cách chính xác, sinh động và
hấp dẫn, làm cơ sở để “hiểu” được bản chất của các sự kiện, hiện tượng, nhân vật LS.
NLTHLS được hình thành và phát triển qua một quá trình lâu dài, ở cả trên lớp và tự học ở
nhà, với sự kết hợp chặt chẽ giữa việc tổ chức, hướng dẫn của GV và việc chủ động học tập của
299


Nguyễn Thị Thế Bình*, Trương Trung Phương và Lê Thị Thu


HS, trên cơ sở vận dụng linh hoạt một số PPDH có ưu thế như: PP khai thác, sử dụng tài liệu
tham khảo; PP sử dụng SGK; PP Web Quest; PP khai thác, sử dụng đồ dùng trực quan; PP sử
dụng lời nói (thông báo, miêu tả, tường thuật, lược thuật, nêu đặc điểm, kể chuyện); PP tự học,
PP học theo nhóm, ứng dụng công nghệ thông tin … Tuy nhiên, trong quá trình DH, tùy thuộc
vào mục tiêu và nội dung bài học mà GV cần kết hợp các PPDH khác để đem lại hiệu quả thực
sự của giờ học.
Ví dụ, khi dạy học về Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 (lớp 12), trước hết GV cần
yêu cầu HS tự đọc trước SGK ở nhà để xác định kiến thức cơ bản của bài; hướng dẫn HS sưu
tầm một số tư liệu liên quan trực tiếp đến bài học như tư liệu về hoàn cảnh quốc tế và trong
nước trước tổng khởi nghĩa; chủ trương quyết định tổng khởi nghĩa của Đảng; khởi nghĩa giành
chính quyền ở Thủ đô Hà Nội, Huế, Sài Gòn; nôi dung của bản Tuyên ngôn Độc lập; phim tư
liệu về sự kiện ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình - Hà Nội. Đồng thời, hướng dẫn HS
các địa chỉ để sưu tầm tư liệu như qua sách tham khảo hay trên mạng internet, phim tư liệu,
tranh ảnh… Trên cơ sở đó, ở trên lớp GV tổ chức cho HS chủ động tìm hiểu về sự kiện Tổng
khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 với các PP làm việc theo nhóm, miêu tả, tường thuật, kể
chuyện kết hợp với sử dụng tranh ảnh, lược đồ, phim tư liệu và các tài liệu viết… để tái hiện
chính xác, sinh động bối cảnh, chủ trương, diễn biến và kết quả của Tổng khởi nghĩa tháng Tám
năm 1945, làm cơ sở để đi sâu tìm hiểu vấn đề thời cơ của cách mạng, vai trò lãnh đạo của
Đảng, Hồ Chí Minh và quần chúng nhân dân đối với cách mạng. Qua đó, phát triển NLTHLS
cho HS.
2.2.2. Nhóm phương pháp dạy học phát triển năng lực nhận thức và tư duy lịch sử
Năng lực nhận thức và tư duy lịch sử (NLNT&TDLS) được biểu hiện qua hai cấp độ. Một là,
giải thích được nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện LS từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra
được quá trình phát triển của LS theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt
giữa các sự kiện LS, lí giải được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình LS. Hai là, đưa ra
những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện, nhân vật, quá trình LS trên cơ sở
nhận thức và tư LS; hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của LS; biết suy nghĩ theo những chiều
hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá
trình LS [18, tr.8]
NLNT&TDLS là NL chuyển tiếp trong mối quan hệ từ việc “biết - hiểu - vận dụng” kiến

thức, cụ thể hơn là trong mối quan hệ chặt chẽ giữa các NL đặc thù của môn LS “tìm hiểu nhận thức, tư duy - vận dụng”. Đây là NL trung gian, có vai trò quan trọng trong việc thực hiện
nguyên tắc cơ bản của khoa học LS, đó là thông qua việc khai thác, sử dụng các nguồn sử liệu
khác nhau để tái hiện, phục dựng một cách chân thực, khách quan sự kiện, hiện tượng LS. Đồng
thời, đặt các sự kiện LS trong mối liên hệ, sự tương tác, vận động của chúng. NLNT&TDLS chỉ
được hình thành và phát triển trên cơ sở HS đã có kiến thức cơ bản về các sự kiện, hiện tượng,
nhân vật lịch sử, đã “biết” LS diễn ra như thế nào một cách chính xác, trên cơ sở đó các em
được hướng dẫn để tiếp tục đi sâu vào tìm hiểu bản chất, mối liên hệ bên trong của các sự kiện,
hiện tượng, nhân vật lịch sử và đưa ra những nhận định, đánh giá, bày tỏ quan điểm cá nhân.
Đây là giai đoạn nhận thức lí tính, đòi hỏi HS phải huy động các thao tác của tư duy trong quá
trình nhận thức như phân tích, giải thích, so sánh, đánh giá, chứng minh, tổng hợp… Từ đó,
giúp HS “hiểu” LS một cách sâu sắc và biện chứng, làm cơ sở để “vận dụng” kiến thức một
cách linh hoạt trong học tập và cuộc sống.
Để hình thành, phát triển NLNT&TDLS của HS, trong quá trình DHLS ở trường THPT,
GV cần sử dụng linh hoạt các PPDH có ưu thế như: PPDH nêu và giải quyết vấn đề; PPDH tích
hợp; PP dùng lời (giải thích, tranh luận, trao đổi đàm thoại, đóng vai); PPDH nghiên cứu trường
hợp; PPDH theo dự án, PPDH hợp đồng; PPtự học, tự nghiên cứu, PP học tập theo nhóm, PP sử
dụng câu hỏi, bài tập… Đây là những PPDH có khả năng phát huy cao độ tính chủ động, độc
300


Hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh...

lập của HS trong quá trình DH, góp phần phát triển tư duy sáng tạo, thu hút, lôi cuốn HS tham
gia vào các hoạt động học tập. Từ đó, hình thành, phát triển NLNT&TDLS cho HS. Tuy nhiên,
nhóm PP này cần sử dụng kết hợp đan xen, nhuần nhuyễn với nhóm PPTHLS để đáp ứng tính
đa dạng của mục tiêu bài học.
Ví dụ, trên cơ sở HS đã có kiến thức cơ bản về nguyên nhân, diễn biến, kết quả của Cách
mạng tháng Tám năm 1945, GV vận dụng PPDH nêu và giải quyết vấn đề kết hợp với PP tranh
luận, PP học theo nhóm để tổ chức cho HS đưa ra quan điểm về vấn đề Cách mạng tháng Tám
thắng lợi là do quá trình chuẩn bị lâu dài, chu đáo trong suốt 15 năm của toàn Đảng, toàn dân

hay Cách mạng tháng Tám thắng lợi là do “ăn may”, trong thời điểm “trống vắng quyền lực”.
Đồng thời, sử dụng PP giải thích và chứng minh để luận giải vấn đề thời cơ (khách quan, chủ
quan) của Cách mạng tháng Tám. Từ đó, HS đánh giá được vai trò lãnh đạo của Đảng, đứng đầu
là Hồ Chí Minh trong việc hoạch định đường lối đúng đắn, đặc biệt là nghệ thuật chớp thời cơ
“ngàn năm có một” để phát động toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Giải quyết được
những nhiệm vụ học tập này tạo điều kiện cho HS phát triển NLNT&TDLS.
2.2.3. Nhóm phương pháp dạy học phát triển năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học
Năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học (NLVDKT, KNĐH) của HS THPT được thể
hiện qua khả năng “Rút ra bài học LS và vận dụng kiến thức LS để lí giải những vấn đề của
thực tiễn cuộc sống. Trên nền tảng đó, HS có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề LS, phát triển
NL sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lí thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và
năng lực tự học LS suốt đời” [18, tr.8].
NLVDKT, KNĐH nhấn mạnh tính chủ động, độc lập, sáng tạo của HS trong việc tiếp cận,
giải quyết những vấn đề thực tiễn cuộc sống đặt ra. Để hình thành được NL này, trong quá trình
DH, GV phải giúp HS nhận thức được mối quan hệ giữa kiến thức LS với cuộc sống thực tại.
Đồng thời, trang bị PP tự học, tự nghiên cứu, ý thức phản biện tích cực, PP sử dụng kiến thức,
kĩ năng đã học để giải quyết mối liên hệ của các vấn đề lịch sử trong quá khứ và hiện tại, từ đó
tự rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá có ích cho hiện tại và tương lai đối với quốc gia,
dân tộc hay với chính cá nhân HS. Nhóm PPDH này thuộc giai đoạn cao của quá trình nhận
thức lí tính, giúp HS không chỉ hiểu được bản chất của các sự kiện, hiện tượng, nhân vật LS, mà
quan trọng hơn là biết vận dụng kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới và biết chủ động giải
quyết những vấn đề đặt ra từ thực tiễn. Qua đó, hiểu sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa LS
quá khứ với cuộc sống hiện tại và định hướng cho tương lai. HS chỉ có thể có được NLVDKT,
KNĐH khi được trang bị NLTHLS cũng như NLNT&TDLS.
Để hình thành và phát triển NLVDKT, KNĐH cho HS, trong quá trình DHLS ở trường
THPT, GV cần chú ý sử dụng nhóm các PPDH có ưu thế như: PP học tập qua trải nghiệm,
PPDH theo dự án, PPDH tích hợp, PP làm các bài tập nghiên cứu khoa học, PP tìm hiểu và đánh
giá thực tiễn, PP tự học, tự nghiên cứu, PP sử dụng kiến thức LS địa phương, PP học tập theo
nhóm. Đây là nhóm PPDH có ưu thế để khích lệ tính tích cực, chủ động, độc lập và sáng tạo
trong học tập của người học, tạo điều kiện cho HS được bộc lộ quan điểm cá nhân, khả năng

liên kết kiến thức trong sách vở với thực tiễn cuộc sống, làm cho LS trở nên gần gũi và có ý
nghĩa hơn trong thực tại. Từ đó, thực hiện nguyên tắc giáo dục của Đảng “học gắn liền với
hành”, “lí luận gắn liền với thực tiễn”, đạt được mục tiêu dạy học là giúp cho HS “biết làm gì”,
chứ không phải “học được gì”. Đó là cơ sở quan trọng để hình thành và phát triển NLVDKT,
KNĐH của HS trong quá trình DHLS ở trường THPT.
Ví dụ, từ phân tích nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa LS, HS rút ra được bài học kinh nghiệm
của Cách mạng tháng Tám năm 1945 như bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng với đường lối
đúng đắn; bài học về sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là liên minh công nông;
bài học về xây dựng lực lượng cách mạng; bài học về nghệ thuật chớp thời cơ. Từ đó, HS biết
liên hệ với thực tiễn công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam để thấy được những bài
301


Nguyễn Thị Thế Bình*, Trương Trung Phương và Lê Thị Thu

học quý giá rút ra từ LS vẫn còn nguyên giá trị đến ngày nay và cả tương lại. Đồng thời, bồi đắp
ở các em truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, biết ơn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và
thế hệ cha ông đã ngã xuống vì nền độc lập dân tộc, có ý thức học tập, vươn lên trong cuộc sống
và xác định trách nhiệm của bản thân trước cộng đồng.
Như vậy, ba nhóm PPDH trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, gắn bó chặt chẽ, thống
nhất và cùng hỗ trợ nhau để đạt được mục tiêu chung là phát triển NL và phẩm chất người học.
Điểm khác biệt của cách phân loại hệ thống PPDH theo định hướng phát triển NL người học là
hướng dẫn GV cách sử dụng các PPDH nhằm mục đích cao nhất là giúp HS có cách học tập tích
cực, chủ động, sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với đối tượng nhận thức. Đặc biệt là coi trọng việc
tự học, tự nghiên cứu của HS dưới sự tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ trực tiếp hoặc gián tiếp của
GV. Hệ thống PPDH theo định hướng phát triển NL của HS không đặt nhiệm vụ trọng tâm là
HS học được gì sau giờ học, mà chủ yếu là trang bị cho HS kiến thức, kĩ năng và điều kiện cần
thiết để HS biết chủ động chiếm lĩnh kiến thức và sử dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề đặt
ra từ thực tiễn cuộc sống. Qua đó, phát triển NL chung, NL đặc thù, bồi đắp những phẩm chất,
nhân cách tốt đẹp, cũng như định hướng thái độ và hành động đúng cho HS trong học tập và

cuộc sống. Vì vậy, trong quá trình DHLS ở trường THPT, GV cần sử dụng một cách linh hoạt,
đa dạng để đem lại hiệu quả giáo dục cao nhất.

3. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn, các nhà giáo dục lịch sử đã chỉ ra rằng:
“PPDHLS không chỉ là một PP đơn nhất, mà bao gồm một hệ thống các PP có quan hệ chặt
chẽ tác động, hỗ trợ nhau trong quá trình DH” [19, tr.54]. Vì vậy, việc phân loại, sắp xếp hệ
thống PPDHLS nhằm hình thành và phát triển các NL đặc thù bộ môn chỉ mang tính tương đối.
Việc phân loại nói trên được xác định trên cơ sở quan điểm, mục tiêu giáo dục tiếp cận NL, triết
lí “học đi đôi với hành”, phù hợp với đặc trưng bộ môn và hoạt động nhận thức LS của HS.
Đồng thời, thể hiện mối quan hệ giữa các PPDH cụ thể trong việc tạo thành một hệ thống PPDH
hoàn chỉnh nhằm phát triển các NL đặc thù của bộ môn LS theo Chương trình giáo dục phổ
thông (2018). Trong quá trình tổ chức hoạt động DHLS ở trường THPT, GV cần căn cứ vào
mục tiêu bài học, đối tượng nhận thức và điều kiện thực tế của địa phương để lựa chọn, vận
dụng linh hoạt các PPDH phù hợp đảm bảo phát huy tính tích cực học tập của người học, qua đó
phát triển các NL và phẩm chất của HS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] A.A.Vaghin, 1972. Phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông. Nxb Matxcova,
bản dịch tiếng Nga tại thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[2] N.G. Đairi, 1973. Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào. Nxb Giáo dục, Hà Nội.
[3] Korovkin, 1981. Phương pháp dạy học lịch sử, Bản dịch tại thư viện Trường ĐHSP Hà Nội.
[4] M.T Stuđennhiki, 2007. Công nghệ hiện đại trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông
(bản tiếng Nga).
[5] Amy Absher, 2012. One way teach history through artifacts. Teaching History in America.
[6] Jere Brophy and Bruce Vansledrigh, 2015. Teaching and Learning history in elementary
school. Teachers College Press; 1997 edition (March 1, 1997), USA.
[7] Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, 2010. Phương pháp dạy
học lịch sử, Tập 1, 2, Nxb Đại học Sư phạm.
[8] Phan Ngọc Liên (Chủ biên), 2008. Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở
trường phổ thông. Nxb Đại học Sư phạm.

302


Hệ thống phương pháp dạy học Lịch sử theo định hướng phát triển năng lực học sinh...

[9] Trịnh Đình Tùng (Chủ biên), 2014. Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử. Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
[10] Nguyễn Thị Côi (tái bản 2016). Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả bài học lịch
sử ở trường phổ thông. Nxb Đại học Sư phạm.
[11] Lương Việt Thái, 2011. Phát triển chương trình giáo dục phổ thông theo định hướng phát
triển năng lực người học (đề tài nghiên cứu khoa học).
[12] Bộ Giáo dục & Đào tạo, 2013. Kỉ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia Đổi mới chương trình
và Sách Giáo khoa sau năm 2015.
[13] Hội thảo Quốc tế, 2016. Phát triển đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục phổ
thông, Nxb Đại học Sư phạm.
[14] Hội thảo khoa học quốc tế, 2017. Đào tạo và bồi dưỡng giáo viên môn Lịch sử đáp ứng
yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[15] Bộ Giáo dục & Đào tạo, 2014. Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên trung học phổ
thông xây dựng các chuyên đề dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển
năng lực học sinh môn Lịch sử.
[16] Bộ Giáo dục & Đào tạo, 2015. Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên THPT dạy học
tích hợp liên môn lĩnh vực khoa học xã hội.
[17] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018. Chương trình giáo dục phổ thông Tổng thể.
[18] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018. Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử.
[19] Vũ Quang Hiển, Hoàng Thanh Tú (đồng chủ biên), 2014. Phương pháp dạy học môn Lịch sử
ở THPT, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
ABTRACT
A system of history teaching-method-oriented competencies development
of students in high school


Nguyen Thi The Binh1, Truong Trung Phuong2 and Le Thi Thu3
1

Faculty of History, Hanoi National University of Education
Faculty of History, University of Science and Education, University of Da Nang
3
Nguyen Tat Thanh Secondary and High School, Hanoi

2

According to the implementation of the Resolution 29 of the Central Committee of the
Communist Party of Vietnam on fundamental and comprehensive innovation in education and
training, along with the innovation in curricula, textbooks, objectives, contents and forms,
assessment and evaluation, facilities and management level, innovation of teaching methods
plays a key role. Basing on research on innovating teaching methods in general and teaching
History methods in particular, the authors propose the use of a system of history teachingmethod-oriented to develop students' competencies to meet the requirements of the general
educational curriculum - History subject (2018) and contribute to the improvement in History
teaching quality in high school.
Keywords: history teaching methods, competencies, students' competencies development,
general educational curriculum, high school.

303



×