Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Báo cáo thực tập kiểm soát nội bộ bán hàng và thu tiền Cty Bách Hóa Xanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.38 KB, 55 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA KẾ TOÁN – KIỂM TOÁN
----------

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng và thu tiền
tại Công ty cổ phần thương mại Bách hóa xanh

Giáo viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hải V


Mục Lục
Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm soát nội bộ và kiểm soát nội bộ chu trình bán
hàng và thu tiền tại các doanh nghiệp thương mại.
1.1.
1.2.

Lý luận về kiểm soát nội bộ
Kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng và thu tiền

Chương 2: Thực trạng kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng thu tiền tại công ty cổ
phần thương mại Bách hóa xanh.
2.1. Vài nét về công ty cổ phần thương mại bách hóa xanh.
2.2. Thực trạng kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng thu tiền tại công ty cổ phần
thương mại Bách hóa xanh.
2.3. Đánh giá thực trạng kiểm soát nội bộ tại công ty cổ phần thương mại Bách hóa
xanh.
Chương 3: Giải pháp và kiến nghị để hoàn thị chu trình bán hàng thu tiền tại công
ty cổ phần thương mại bách hóa xanh.


3.1. Định hướng phát triển của công ty.
3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện kiểm soát nội bộ tại công ty cổ phần thương mại
Bách hóa xanh.
3.3. Giải pháp đề ra.


Chương 1: Cơ sở lý luận về kiểm soát nội bộ và kiểm soát nội bộ chu trình bán
hàng và thu tiền tại các doanh nghiệp thương mại.
1.1. Lý luận về kiểm soát nội bộ
1.1.1. Tầm quan trọng và sự cần thiết khách quan về việc thiết lập kiểm soát nội
bộ.
Trong nền kinh tế phát triển hiện nay, mỗi công ty đều có một hướng đi riêng cho
mình. Các bộ phận trong một công ty được phân rõ ràng nhưng vãn kết cấu với
nhau chặt chẽ. Các bộ phận của công ty phối hợp nhịp nhàng hoàn thiện các chiến
lược đã được đề ra từ trước. Nhưng không phải công ty nào cũng hoàn thành tốt
việc này và cũng không hẳn là chiến lược nào cũng phối hợp hoàn thành xuất sắc
cả. Một hệ thống kiểm soát của một công ty giống như một khung xương của một
con người. Khung xương có chắc thì người mới vững chãi. Một công ty có đội ngũ
nhân viên giỏi nhưng làm sao tránh được những gian dối, không minh bạch trong
công tác sản quất, quản lý nội bộ công ty. Đó chính là nguyên nhân cần thiết phải
thiết lập bộ phận kiểm soát nội bộ.
1.1.2. Mục tiêu của kiểm soát nội bộ.
Tính hữu hiệu và hiệu quả kinh doanh;
Công ty sử dụng hệ thống kiểm soát nội bộ để đạt hiệu quả và hiệu suất trong sản
xuất kinh doanh nhất như: sử dụng hữu hiệu các tài sản và các nguồn lực của công
ty, giảm thiểu các rủi ro có thể xảy đến với công ty. Hệ thống kiểm soát nội bộ đảm
bảo vận hành và sự phối hợp làm việc của toàn bộ nhân viên trong công ty để đạt
được mục tiêu của doanh nghiệp với hiệu năng tốt nhất. Các bộ phận và nhân viên
phối hợp nhất quán trong công việc với nhau. Bên cạnh đó còn giảm thiểu các chi
phí không đáng có đối với doanh nghiệp.



Sự trung thực và tính đáng tin cậy của Báo cáo tài chính (BCTC);
Bộ phận tài chính kế toán tổng hợp và xử lý thông tin, đây chính là tiền đề để hình
hình thành các hệ thống thông tin, phục vụ cho quá trình ra quyết định của các nhà
quản lý. Các thông tin này phải được cung cấp kịp thời mà những người cần sử
dụng nó đang cần như ban giám đốc, hội đồng quản trị hoặc các cơ quan quản lý.
Phải mang tính đúng đắn, cập nhật chính xác và đạt độ tin cậy về thực trạng hoạt
động của công ty. Ngoài ra nó phải phản ánh đầy đủ và khách quan và nhất quán
các nội dung chủ yếu của mọi hoạt động kinh tế, tài chính.
Sự tuân thủ luật và quy định hiện hành.
Báo cáo tài chính và các báo cáo quản lý khác được trình bày hợp lý và dựa trên
các chính sách đã được xác định rõ ràng, các yêu cầu của nhà quản lý, các chính
sách và quy trình nghiệp vụ của doanh nghiệp, các luật và quy định của nhà nước.
1.1.3. Khái niệm các bộ phận cấu thành nên kiểm soát nội bộ.
1.1.3.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát bao gồm toàn bộ nhân tố bên trong đơn vị và bên ngoài đơn
vị có tính môi trường tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ liệu của các
loai hình kiểm soát nội bộ.
Các nhân tố thuộc môi trường kiểm soát chung trong doanh nghiệp chủ yếu liên
quan tới quan điểm, thái độ và nhận thức cũng như hành động của các nhà quản lý
trong doanh nghiệp. Trên thực tế, tính hiệu quả của hoạt động kiểm tra kiểm soát
trong các hoạt động của một tổ chức phụ thuộc chủ yếu vào các nhà quản lý của
doanh nghiệp đó. Nếu các nhà quản lý cho rằng công tác kiểm tra kiểm soát là
quan trọng và không thể thiếu được đối với mọi hoạt động của đơn vị thì mỗi thành
viên của đơn vj thường có nhận thức đúng đắn về hoạt động kiểm tra kiểm soát và


tuân thủ mọi quy định cũng như các chế độ đề ra. Ngược lại nếu hoạt động kiểm
tra kiểm soát bị coi nhẹ từ phía nhà quản lý thì chắc chắn các quy chế về kiểm soát

nội bộ sẽ không được vận hành một cách có hiệu quả bởi các thành viên của đơn
vị.
Chính vì điều đó, môi trường kiểm soát của một công ty thường được đánh giá
mang tính chủ quan theo quan điểm riêng của các nhà quản lý. Kiểm toán nội bộ
nên có sự chủ động trong việc đánh giá được tính hiệu quả của môi trường kiểm
soát trong việc giảm rủi ro của việc trình bày sai lệch thông tin kế toán.
Các yếu tố nên xem xét khi đánh giá môi trường kiểm soát:
-

Triết lý quản trị và phong cách điều hành hoạt động.

-

Cơ cấu tổ chức.

-

Các chính sách về thông lệ và nhân sự.

-

Phân công quyền hạn và trách nhiệm.

-

Cam kết về năng lực thực hiện.

-

Sự than gia của ban quản trị.


-

Tính chính trực và các giá trị đạo đức.
Các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài tuy không thuộc sự kiểm soát của các nhà
quản lý nhưng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, phong cách điều hành của các nhà
quản lý cũng như sự thiết kế và vận hành các quy chế, thủ tục kiểm soát nội bộ
1.1.3.2. Quy trình đánh giá rủi ro.
Đánh giá rủi ro là xác định, phân tích và quản lý những rủi ro ảnh hưởng tới khả
năng của công ty hoàn thành những mục tiêu hoạt động chủ yếu. Khi một loại rủi
ro được xác định, đây chính là cơ sử để ban quản trị sẽ xem xét các dấu hiệu, sự
tồn tại của chúng và tìm cách điều khiển và quản lý chúng. Các nhà quản lý có thể
xây dựng các kế hoạch, chương trình hoặc để xuất các công việc cụ thể để xác định


các loại rủi ro cụ thể hoặc ban quản trị có thể chấp nhận rủi ro vì yếu tố chi phí
nằm trong mức có thể hoặc có những xem xét khác để cải thiện theo chiều hướng
bớt xấu đi.
Một chu trình đánh giá rủi ro phù hợp với hoàn cảnh, bản chất, quy mô và mức độ
phức tạp của đơn vị có thể giúp kiểm soát nội bộ phát hiện các rủi ro có sai sót
trọng yếu. Kiểm soát nội bộ phải sử dụng các xét đoán chuyên môn để xác định
quy trình đánh giá rủi ro của công ty có phù hợp hay không.
Cần thiết lập các quy trình để:
-

Xác định rủi ro kinh doanh liên quan đến việc lập và trình bày báo cáo tài chính.

-

Ước tính mức độ của rủi ro.


-

Đánh giá khả năng xảy ra của rủi ro.

-

Quyết định các hành động thích hợp đối với các rủi ro đó.

-

Đề ra các biện pháp để đối phó với rủi ro: tăng cường kiểm soát, mua bảo hiểm,
tăng tốc độ thu hồi vốn, không làm gì hết...
1.1.3.3. Hoạt động kiểm soát.
Những hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục tạo nên sự đảm bảo đối
với các chính sách, đường lối của ban quản trị được thực hiện đúng đắn và đúng
thời gian. Thông thường, hoạt động kiểm soát có thể liên quan tới một cuộc kiểm
toán báo cáo của một công ty gắn liền với việc thực hiện đánh giá hoạt động, quá
trình xử lý thông tin, kiểm soát vật chất và việc phân chia trách nhiệm. Một hoạt
động kiểm soát tồn tại thường để thực hiện một mục tiêu cụ thể. Một hoạt động
kiểm soát tồn tại thường để thực hiện một mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên không thể có
một hoạt động kiểm soát nào có thể ngăn chặn và phát hiện được tất cả những sai
phạm, có thể xảy ra bởi vì những hạn chế vốn có của các hoạt động và của cả hệ
thống này. Kiểm soát nội bộ phải xem xét toàn bộ những hoạt động và xác định


xem những hoạt động kiểm soát có hoạt động hiệu quả đối với việc thực hiện các
mục tiêu kiểm soát tổng thể hay không.
1.1.3.4. Thông tin và truyền thông.
Hệ thống thông tin của một công ty bao gồm: máy móc thiết bị, phần mềm, nhân

sự và dữ liệu. Hệ thống thông tin liên quan đến mục tiêu lập và trình bày báo cáo
tài chính, gồm hệ thống báo cáo tài chính trong đó các ghi chép để xác định, ghi
nhận các giao dịch có hiệu lực một cách kịp thời, đúng kỳ và có giá trị.
Khả năng đưa ra những quyết định phù hợp trong quản trị và trong kiểm soát các
hoạt động của thực thể pháp lý và để chuẩn bị các báo cáo hoàn chỉnh phụ thuộc
vào hiệu lực của hệ thống thông tin bao gồm cả hệ thống kế toán. Một hệ thống
thông tin kế toán hiệu lực phải:
-

Nhận diện và ghi chép các nghiệp vu phát sinh.

-

Phân loại chính xác các nghiệp vụ cho mục đích lập báo cáo tài chính.

-

Đo lường giá phí và giá trị tài sản phù hợp với giả thiết kế toán được chấp nhận.

-

Ghi chép các nghiệp vụ đúng kỳ.

-

Trình bày các kết quả của các nghiệp vụ song song với báo cáo một cách chính xác
trong báo cáo tài chính.
Hoạt động truyền thông liên quan tới việc cung cấp sự hiểu biết về vai trò và trách
nhiệm. Kiểm toán nội bộ nên xem xét cả hai dòng thông tin chính thống và thông
tin không chính thống để đánh giá yếu tố kiểm soát.

1.1.3.5. Giám sát kiểm soát.
Giám sát kiểm soát là đánh giá hiệu quả của hoạt động kiểm soát nội bộ. Thủ tục
giám sát hoạt động được xây dựng từng trong chính những hoạt động đang thực
hiện bình thường của công ty, bao gồm các báo cáo quản trị định kì và hoạt động


giám sát cấp cao. Kiểm toán nội bộ thường được xem là một yếu tố kiểm soát quản
lý có hiệu quả cao. Giám sát đang dần trở thành yếu tổ kiểm soát then chốt trong
việc xác định rủi ro vì vậy nó càng được quan tâm nhiều hơn trong các cam kết
kiểm toán. Nếu ban quản trị phát triển một hệ thống kiểm soát tốt để xem xét một
cách có hiệu quả những rủi ro, sau đó thiết lập một hệ thống giám sát có hiệu quả
nhằm đảm bảo hệ thống kiểm soát đang hoạt động đúng thì kiểm toán nội bộ nên
tập trung vào đánh giá rủi ro và tính hiệu lực của hệ thống giám sát. Một vài hoạt
động giám sát được thiết lập và thực hiện giám sát từ bên ngoài đơn vị, sẽ có ảnh
hưởng khác nhau tới hoạt động và kết quả của đơn vị. Hoạt động giám sát thường
bắt đầu từ những báo cáo, sau đó áp dụng ở tất cả các cấp của đơn vị.

1.2. Kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng và thu tiền.
1.2.1. Đặc điểm chu trình bán hàng thu tiền.
Trong các doanh nghiệp thương mại, các chu kỳ kinh doanh diễn ra liên tục, chu
kỳ này nối tiếp chu kỳ kia, chu kỳ sau là kết quả của chu kỳ trước. Sau giai đoạn
mua hàng hóa về nhập kho thì đến giai đoạn chuyển giao hàng hóa đến tay người
tiêu dùng và được người tiêu dùng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán, quá trình
bán hàng thu tiền là một quá trình xuất hiện xuyên suốt trong tất cả các chu kỳ kinh
doanh. Chu trình bán hàng thường là chu trình cuối cùng để kết thúc một chu kỳ
kinh doanh, sau khi tiến hành chu trình này kết thúc doanh nghiệp sẽ chuyển sang
một giai đoạn kinh doanh khác. Chúng ta có nhiều hình thức tiêu thụ sản phẩm
khác nhau, tùy thuộc vào từng doanh nghiệp mà áp dụng các cách thức tiêu thụ này
vào.
1.2.1.1. Đặc điểm bán buôn hàng hóa.



Hàng bán theo phương thức này thường là với khối lượng lớn và nhiều hình thức
thanh toán. Do đó muốn quản lý tốt thì phải lập chứng từ cho từng lần bán. Chứng
từ kế toán sử dụng là hoá đơn GTGT hoặc phiếu xuất kho do doanh nghiệp lập,
chứng từ này được lập thành 3 liên: 1 liên giao cho người nhận hàng, 2 liên chuyển
cho phòng kế toán để làm thủ tục thanh toán.
a, Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hàng.
Căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã kí kết hoặc theo đơn đặt hàng, doanh nghiệp xuất
kho hàng hóa bằng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài chuyển giao
hàng hóa cho bên mua ở địa điểm đã thỏa thuận trước. Hàng hóa chuyển bán vẫn
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, chỉ khi nào hàng hóa được bên mua kiểm
nhận hoặc chấp nhận thanh toán thì số hàng chuyển giao mới được coi là tiêu thụ.
Doanh nghiệp bên bán mất quyền sở hữu về hàng hóa. Chi phí vận chuyển do
doanh nghiệp bán hàng chịu hoặc bên mua chịu là do thỏa thuận trước giữa hai
bên.
b, Bán buôn vận chuyển thẳng.
Là phương thức bán buôn mà sau khi doanh nghiệp mua hàng, nhận hàng mua
không đưa về nhập kho mà chuyển thẳng gửi bán hoặc bàn giao trực tiếp cho bên
mua. Bán buôn vận chuyển thẳng bao gồm hai hình thức:
-

Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức giao hàng trực tiếp ( hình thức giao
hàng tay ba): Doanh nghiệp sau khi mua hàng, hàng không về nhập kho của doanh
nghiệp mà giao trực tiếp cho đại diện bên mua tại kho người bán. Sau khi giao
nhận, đại diện bên mua ký nhận, thanh toán hoặc chấp nhận nợ, hàng hóa được xác
nhận là tiêu thụ.

-


Bán buôn vận chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng: Doanh nghiệp sau khi
nhạn hàng mua, dùng phương tiện vận tải của mình hoặc thuê ngoài vận chuyển


hàng đến giao cho bên mua tại địa điểm đã thỏa thuận trước. Hàng hóa chuyển bán
vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Khi nhận được tiền thanh toán của bên
mua hoặc giấy báo của bên mua đã nhận hàng và chấp nhận thanh toán thì hàng
hóa chuyển di mới xác định là tiêu thụ.
1.2.1.2. Đặc điểm bán lẻ hàng hóa.
Theo hình thức này, hàng hoá được bán trực tiếp cho người tiêu dùng, bán lẻ là giai
đoạn cuối cùng của quá trình vận động của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
dùng. Đối tượng của bán lẻ là mọi cá nhân trong và ngoài nước muốn có một giá
trị sử dụng nào đó không phân biệt giai cấp, quốc tịch.
Đặc trưng của phương thức bán lẻ là kết thúc nghiệp vụ bán hàng thì sản phẩm rời
khỏi lĩnh vực lưu thông đi vào lĩnh vực tiêu dùng giá trị sử dụng của sản phẩm
được thực hiện. Hàng bán lẻ thường có khối lượng nhỏ, và thanh toán ngay và
thường bằng tiền mặt nên thường ít lập chứng từ cho từng lần bán. Bán lẻ được
chia làm 2 hình thức:
a, Bán lẻ thu tiền trực tiếp.
Là hình thức bán lẻ mà nhân viên bán hàng trực tiếp thu tiền của khách và giao
hàng luôn cho khách hàng, cuối mỗi ca bán hàng, nhân viên bán hàng tiến hành
kiểm kê hàng hóa tồn quầy, xác định lượng hàng bán trong ca, xác định doanh thu
của ca bán hàng, lập báo cáo bán hàng và ộp tiền cho thủ quỹ.
-

Bán lẻ tự phục vụ: là phương thức bán lẻ lấy mà khách hàng tự chọn lấy hàng,
mang đến bàn tính tiền và thanh toán tiền hàng cho nhân viên thu ngân. Nhân viên
thu tiền kiểm hàng, tính tiền, lập hóa đơn bán hàng và thu tiền của khách hàng.

-


Bán trả góp: ở phương thức này, khách hàng được trả tiền bán hàng thành nhiều lần
trong một thời gian nhất định và khách hàng phải trả cho doanh nghiệp một số tiền
lớn hơn giá bán trả tiền ngay một lần, phần chênh lệch chính là phần lãi trả góp.


Các mặt hàng kinh doanh mà các doanh nghiệp thường hay áp dụng phương thức
này là: laptop. điện thoại, nhà ở, ô tô, xe máy,...
b, Bán lẻ thu tiền tập trung.
Trong phương thức này, nghiệp vụ thu tiền của người mua và nghiệp vụ giao hàng
cho người mua tác rời nhau. Mỗi quầy hàng có một nhân viên thu tiền làm nhiệm
vụ thu tiền cho khách, viết hóa đơn hoặc tích kê cho khách hàng, khách hàng sau
khi nhận được tích kê hay hóa đơn sẽ cầm tích kê hay hóa đơn đó để đến quầy
hàng do nhân viên bán hàng giao. Hình thức bán hàng này thường được áp dụng
đối với những mặt hàng có giá trị lớn., cần có sự bảo quản chặt chẽ và thận trọng.
Các doanh nghiệp thương mại thường áp dụng hình thức bán hàng này thường là
các doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc, kim khí quý, đá quý,...
1.2.1.3. Phương thức tiêu thụ khác.
Ngoài những phương thức đã kể trên thì còn những phương thức khác như hàng
đổi hàng giữa các doanh nghiệp,tiêu thụ nội bộ. Tiêu thụ nội bộ là việc mua bán
sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ giữa các đơn vị chính với các đơn vị trực
thuộc hay giữa các đơn vị trực thuộc với nhau trong cùng một công ty, tập đoàn,
liên hiệp các xí nghiệp... Ngoài ra, coi là tiêu thụ nội bộ còn bao gồm các khoản
sản phẩm, hàng hoá dịch vụ xuất biếu, tặng, xuất trả lương, thưởng, xuất dùng cho
hoạt động sản xuất kết quả tiêu thụ hàng hoá.
1.2.2. Đặc điểm chu trình thu tiền.
Khai giao hàng cho bên mua và nhận được chấp thuận thanh toán, doanh nghiệp có
thể nhận được tiền theo nhiều hình thức khác nhau tùy vào sự tín nhiệm thỏa thuận
giữa hai bên lựa chọn các phương thức thanh toán cho phù hợp. Hiện nay các
doanh nghiệp có thể áp dụng hai phương thức thanh toán sau:



-

Bán hàng thu tiền trực tiếp: là phương thức thanh toán sau khi nhận được hàng
mua khách hàng sẽ thanh toán trực tiếp luôn cho doanh nghiệp, có thể bằng tiền
mặt, tiền tạm ứng, chuyển khoản, hàng đổi hàng,...

-

Bán hàng ghi nợ: là phương thức thanh toán khi khách hàng nhận được hàng rồi
mà vẫn chưa thanh toán tiền hàng ngay cho doanh nghiệp. Việc thanh toán trả
chậm có thể theo điều kiện tín dụng ưu đãi theo thỏa thuận.

1.2.2. Quy trình bán hàng thu tiền ảnh hưởng tới kiểm soát nội bộ.
1.2.2.1. Nhận và xử lý đơn đặt hàng của người mua.
Bộ phận bán hàng hoặc dịch vụ khách hàng nhận yêu cầu từ khách hàng, kiểm tra
thông tin về hàng yêu cầu, lập lệnh bán hàng, chuyển bộ phận tín dụng chấp nhận
bán chịu. Sau dó bộ phận này trả lời đặt hàng mua của khách hàng.
Chứng từ ghi nhận hoạt động này gồm đơn đặt hàng và lệnh bán hàng.
-

Đơn đặt hàng là đơn do người mua gửi đến để xác định về nhu cầu chủng loại, số
lượng hàng, thời gian, địa điểm giao hàng, điều kiện thanh toán.

-

Lệnh bán hàng là chứng từ nội bộ do bộ phận bán hàng lập, cho phép các bộ phận
liên quan thực hiện việc xuất kho, giao hàng cho khách. Nếu bán chịu, lệnh bán
hàng sẽ được chuyển sang bộ phận tín dụng để xét duyệt. Sau khi được chấp thuận,

một liên sẽ được gửi cho bộ phận đóng gói hàng để làm căn cứ đóng gói hàng, một
liên sẽ được chuyển cho khách hàng để xác nhận đơn đặt hàng đã được xác nhận,
một liên sẽ đưa đến bộ phận kế toán, một liên đưa cho bộ phận lập hóa đơn để
thông báo về lệnh bán hàng.


Điều này phụ thuộc rất lớn vào chính sách bán hàng tín dụng của công ty và sự
hiểu biết của chúng ta về khách hàng đó. Khi chuyển lên cấp trên một bản đơn đặt
hàng để xét duyệt có nên chấp nhận đơn đặt hàng này không, cấp trên sẽ đưa ra
quyết định dựa vào thông tin do kế toán công nợ cung cấp, dựa vào chính sách bán
hàng của công ty, xem xét khả năng của công ty có thể đáp ứng được yêu cầu về
hàng hóa hoặc dịch vụ của khách hàng không cũng như tình hình của công ty hiện
nay có cho phép bán chịu hay không. Từ đó sẽ ra quyết định có chấp nhận bán chịu
hay không. Xét duyệt nghiệp vụ bán hàng là công việc kiểm soát nội bộ thường
thấy và tập trung vào ba điểm chủ yếu sau:
- Việc bán chịu phải được phê chuẩn đúng đắn trước khi quá trình tiêu thụ xảy ra.
- Hàng bán chỉ được gửi đi sau khi duyệt với đầy đủ chứng cứ (tài khoản, con dấu
chữ ký của bên mua).
- Giá bán phải được duyệt bao gồm cả phí vận chuyển, giảm giá, bớt giá và điều
kiện thanh toán.
• Phân chia trách nhiệm: Phân chia trách nhiệm là công việc quan trọng trong kiểm
soát nội bộ để ngăn ngừa gian lận và sai sót. Trong thực tế, chu trình bán hàng có
nhiều nhân viên tham gia như: nhân viên nhận đơn đặt hàng, người xét duyệt, nhân
viên bán hàng, nhân viên kho hàng, kế toán công nợ. Do vậy mỗi doanh nghiệp
thường có một cơ cấu kiểm soát nội bộ riêng về nghiệp vụ này. Tuy nhiên, để có
một hệ thống kiểm soát nội bộ chuẩn và hữu hiệu về các khoản thu và nghiệp vụ
bán hàng thì đòi hỏi phải tách biệt các chức năng và phân nhiệm cho những cá
nhân hay bộ phận khác nhau phụ trách. Khi mức độ phân nhiệm càng cao, càng
hiệu quả thì các sai phạm càng dễ bị phát hiện thông qua sự kiểm tra tương hỗ giữa
các phần hành hay khi đối chiếu tài liệu giữa các bộ phận khác nhau, do đó sẽ giảm

thiểu được các hành vi gian lận đồng thời các thủ tục kiểm soát được thiết lập càng


trở nên có hiệu quả. Chu trình bán hàng có thể được phân chia như sau: - Xét duyệt
bán chịu.
- Lập lệnh bán hàng .
- Xuất kho.
- Gửi hàng đi.
- Lập và kiểm tra hóa đơn.
- Theo dõi thanh toán.
- Xét duyệt hàng bán bị trả lại, hay giảm giá.
- Cho phép xóa sổ các khoản nợ không thu hồi được.
Ví dụ: Chức năng bán hàng và chức năng duyệt bán chịu cần phân cách để ngăn
chặn những tiêu cực phát sinh trong khâu bán hàng và khả năng thất thu trong khâu
thanh toán.
1.2.2.2. Xét duyệt bán chịu.
Sau khi quyết định bán, căn cứ vào đơn đặt hàng và các nguồn thông tin khác
nhau, bộ phận tín dụng cần đánh giá khả năng thanh toán của khách hàng và quyết
định bán chịu một phần hoặc toàn bộ lô hàng.
1.2.2.3. Chuyển giao hàng hóa.
Tới ngày giao hàng cho khách, kho hàng tiến hành xuất kho theo như yêu cầu của
lệnh bán hàng. Bộ phận gửi hàng sẽ gửi hàng cho khách hàng theo địa chỉ đã yêu
cầu từ trước. Trước khi tiến hành đóng gửi hàng, bộ phận gửi hàng lập giấy gửi
hàng.
1.2.2.4. Lập hóa đơn và ghi sổ nghiệp vụ bán hàng.


Sau khi hàng được gửi cho khách, giấy gửi hàng được gửi cho bộ phận lập hóa
đơn. Sau khi đã có đầy đủ chứng từ, bộ phận lập hóa đơn tiến hành kiểm tra đối
chiếu các chứng từ liên quan và lập hóa đơn bán hàng. Hóa đơn bán hàng chứng từ

khẳng đình sự chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nghĩa vụ
thanh toán của người mua. Nội dung trên chứng từ này bao gồm tên mặt hàng, đơn
vị tính, số lượng, đơn giá,... Một liên của hóa đơn sẽ được giao cho khách hàng,
một liên được gửi về cho bộ phận kế toán để làm căn cứ ghi sổ.
Trong thực tế có một số công ty muốn tăng uy tín của mình thì thường có xu
hướng khai tăng doanh thu. Do đó các công ty cần phải có một biện pháp kiểm soát
cần thiết để đảm bảo chắc chắn rằng các nghiệp vụ bán hàng đều được ghi sổ đầy
đủ, chính xác. Quá trình ghi sổ doanh thu phải dựa trên những chứng từ có thực
như hóa đơn bán hàng, chứng từ vận chuyển, các đơn đặt hàng đã được phê chuẩn
của khách hàng.Việc ghi sổ các nghiệp vụ bán hàng phải được thực hiện theo
nguyên tắc cập nhật, càng gần ngày phát sinh càng tốt để ngăn ngừa bỏ sót các
nghiệp vụ và phải được ghi đúng vào các sổ thu tiền và cộng dồn chính xác. Ngoài
ra cần phải kiểm soát quá trình lập hóa đơn để giúp hạn chế được khả năng sai sót
trong quá trình lập và vào sổ các chứng từ, hạn chế gian lận cố tình lập hóa đơn
khống hay không vào sổ một nghiệp vụ bán hàng nào đó nhằm biển thủ các khoản
thanh toán của khách hàng.
1.2.2.5. Xử lý và ghi sổ các khoản thu tiền và khoản phải thu khách hàng.
Sau khi nhận được hàng, khách hàng sẽ gửi nhận check thanh toán và giấy báo trả
tiền, bộ phận thư tín sẽ phân loại, lập bảng kê rồi chuyển check sang cho thủ quỹ,
giấy báo và bảng kê sang cho kế toán khoản phải thu. Nếu khách hàng trả bằng tiền
mặt, thủ quỹ tiến hành thu tiền, viết số tiền thu được vào phiếu thu và ghi vào sổ
quỹ tiền mặt. Nếu khách hàng trả bằng tiền gửi ngân hàng thì thủ quỹ chuyển tiền
vào tài khoản của đơn vị. Căn cứ vào giấy báo có của ngân hàng, kế toán ghi vào


sổ chi tiết tiền gửi ngân hàng. Kế toán các khoản phải thu ghi giảm sổ chi tết số
tiền phải thu bằng với số tiền khách hàng đã thanh toán.
1.2.2.6. Xử lý và ghi sổ các khoản giảm trừ doanh thu.
Các khoản giảm trừ doanh thu chính là những khoản phát sinh được điều chỉnh làm
giảm doanh thu hàng bán của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán. Bao gồm: giảm

giá hàng bán, chiết khấu thương mại, hàng bán bị trả lại.
– Chiết khấu thương mại (CKTM): Là khoản mà doanh nghiệp bán giảm giá cho
khách mua hàng hoá, sản phẩm,… với khối lượng lớn.
– Giảm giá hàng bán (GGHB): Là khoản mà doanh nghiệp bán giảm giá cho khách
hàng khi khách hàng mua hàng hoá, thành phẩm nhưng lại kém phẩm chất hay
không đáp ứng đủ điều kiện chất lượng như trong hợp đồng đã ký giữa 2 bên.
– Hàng bán bị trả lại (HBBTL): Là số hàng mà khách hàng trả lại cho doanh
nghiệp khi doanh nghiệp bán hàng hoá, thành phẩm nhưng bị kém phẩm chất,
chủng loại. Hàng hóa bị trả lại khi lượng hàng cung cấp cho khách hàng không đủ
tiêu chuẩn theo yêu cầu, vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp này bộ phận nhận
hàng tiến hành nhận hàng và lập biên bản giao nhận hàng trả lại. Sau đó căn cứ vào
hóa đơn và biên bản giao nhận hàng trả lại lập phiếu nhập kho cho số hàng bị trả
lại. Căn cứ vào bộ chứng từ về lô hàng trả lại kế toán giảm phải thu khách hàng,
tăng hàng bán trả lại, giảm thuế.
Trường hợp khi khách hàng không hài lòng với hàng hóa, người bán thường chấp
nhận sự trả lại hàng hóa hoặc cho hưởng chiết khấu trong giá đã tính. Doanh thu bị
trả lại hay được giảm giá phải được vào sổ chính xác, nhanh chóng và dễ dàng theo
dõi.
• Quản lý việc bán hàng chịu


- Quản lý các khoản phải thu: Trong giai đoạn này có những vấn đề chủ yếu cần
quan tâm sau:
+ Kiểm soát độc lập tài khoản ghi khoản phải thu: Việc ghi chép các khoản phải
thu được ghi bằng tay hay được nhập bằng máy tính. Các bản ghi chép phải bí mật
đặt biệt với những người bên ngoài và những người tiếp xúc trực tiếp với khách
hàng và tiền nhằm đảm bảo các khoản phải thu không bị ghi trội bằng cách ghi số
dư nợ không có thực hay không xóa những khoản nợ khó đòi.
+ Vào sổ và kiểm soát ngay: Các chi phí mới phát sinh, các khoản nợ phát sinh
trong quá trình thu tiền phải được ghi sổ hàng ngày làm cơ sở cho việc ghi nhận

các thông tin mới nhất phục vụ cho mục tiêu hoạt động của công ty.
+ Cuối kỳ cần lập ra bảng cân đối giữa doanh thu với các khoản đã thu tiền và các
khoản còn phải thu để kiểm soát công việc bán hàng và thu tiền. Do các cân đối
này có liên quan đến người mua nên cần gửi đến người mua để thông báo đồng
thời xác nhận quan hệ mua bán đã phát sinh trong tháng.
- Xử lý các khoản phải thu:
+ Thu tiền: Khi thu được tiền từ khách hàng thì nợ sẽ được xóa. Kiểm tra kiểm soát
phải được thực hiện cho cả việc thanh toán các khoản phải thu và các trách nhiệm
về tiền. Đồng thời cũng phải đảm bảo các khoản khấu trừ phải được tính toán đầy
đủ.
+ Sự điều chỉnh và khấu trừ: Khi khách hàng được giảm trừ một khoản tiền hoặc
một khoản tín dụng do mua hàng với số lượng lớn thì phải dựa vào sự giảm trừ
theo quy định, việc kiểm tra kiểm soát phải đảm bảo làm đúng theo quy định đó
dựa trên đánh giá của người có chức năng trong giới hạn quyền hạn của mình.
1.2.2.7. Lập dự phòng các khoản nợ phải thu khó đòi và hàng tồn kho.


Dự phòng phải thu khó đòi thể hiện phần giá trị dự kiến bị tổn thất do các khoản
không được khách hàng thanh toán phát sinh đối ới số dư khác khoản phải thu tại
thời điểm lập bảng cân đối kế toán. Tăng hoặc giảm số dư dự phòng được phản ánh
vào chi phí quản lý doanh nghiệp trong kì. Dự phòng gồm có dự phòng chung và
dự phòng cu thể. Dự phòng chung trích chung theo tất cả khách hàng, dự phòng cụ
thể trích riêng cho từng khách hàng cụ thể của doanh nghiệp trong trường hợp
khách hàng gặp khó khăn trong việc thanh toán, có nguy cơ phá sản, giải thể,, bị
bắt hay bị chết,...
Đối với dự phòng phải thu khó đòi, kiểm toán nội bộ phải căn cứ vào bảng phân
tích tuổi nợ để tính toán số dự phòng cần lập. Việc tính toán này được kế toán
trưởng kiểm tra và được giám đốc phê duyệt.
Đối với dự phòng giảm giá hàng tồn kho, thủ kho sẽ chuẩn bị báo cáo về tình hình
hàng tồn kho, đồng thời có thể tham khảo thêm ý kiến của các bộ phận khác như

bộ phận bán hàng, phòng kinh doanh, hay những người có kinh nghiệm đánh giá
hàng hóa và giá cả hàng hóa trên thị trường để làm căn cứ cho việc trích lập dự
phòng. Kế toán viên tiến hành trích lập dự phòng, chuyển cho kế toán trưởng kiểm
tra và trình giám đốc phê duyệt.
1.2.2.8. Xóa sổ các khoản phải thu không thu hồi được.
Trường hợp doanh nghiệp không thu được nợ thì căn cứ vào bảng phân tích nợ
phải thu theo thời hạn nợ, giám đốc ký duyệt xóa nợ phải thu. Kế toán ghi nhận
nghiệp vụ xóa nợ cho khách hàng.
Xóa sổ các khoản nợ khó đòi: Nếu một vài khách hàng không thể trả được nợ do
nhiều nguyên nhân khác nhau, mặc dù công ty đã có nhiều cố gắng trong việc đòi
nợ thì không còn biện pháp nào hơn là xóa nợ. Để bù lại các khoản mất mát đó,
công ty phải lập dự phòng và việc xóa nợ phải được phép của những người có


trách nhiệm trong công ty. Mặc dù, các khoản nợ đã được xóa nhưng vẫn kiểm
soát, theo dõi xem có thể thu được nợ hay không.
Trên thực tế, tiền là phương tiện giao dịch nhanh nhất và theo quan điểm về rủi ro
thì nó là một mặt hàng dễ gặp rủi ro nhất. Vì vậy càng dễ gặp rủi ro thì càng phải
bảo vệ và kiểm soát.
• Quản lý và cất trữ tiền mặt: Tiền là đối tượng dễ gặp phải rủi ro như cháy, trộm
cắp hay bị thất thoát khác Để tránh những rủi ro trên thì cần có những phương tiện
để bảo vệ tiền như:
- Tùy vào số lượng tiền hiện có và những rủi ro có thể bị gặp phải mà công ty sử
dụng loại hình bảo vệ cần thiết như sử dụng tủ, két sắt, các thiết bị tinh vi chống
trộm
- Giữ tiền ở mức tối thiểu vì càng giữ nhiều tiền ở một nơi thì càng dễ gặp rủi ro,
mất mát đồng thời giữ lượng tiền lớn hơn mức cần thiết có nghĩa là làm mất mát
một khoản thu tiềm năng do đồng tiền nhàn rỗi. Do đó, giữ tiền ở mức tối thiểu là
quan trọng cho lợi ích của công ty.
* Tóm lại, xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng và thu tiền hữu

hiệu sẽ giúp cho hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao. Muốn vậy
các nhà quản lý phải đề ra các chính sách, thủ tục thích hợp với doanh nghiệp mình
đồng thời đề ra các biện pháp nhằm kiểm soát các nhân viên để họ thực hiện các
chính sách, thủ tục đó một cách tốt nhất. Điều này sẽ phát huy hết tác dụng của hệ
thống kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng và thu tiền từ đó giúp cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty ngày càng phát triển.
1.2.3. Các hạn chế vốn có của kiểm soát nội bộ với chu trình bán hàng thu tiền.
Về môi trường kiểm soát:


Cơ cấu tổ chức của công ty chưa có bộ phận kiếm toán nội bộ, hệ thống các quy
chế kiểm soát của công ty chưa thực sự hữu hiệu. Các kế hoạch của công ty có xây
dựng nhưng dựa trên tình hình kinh doanh của năm trước mà xây dựng dẫn đến
việc lập kế hoạch sẽ không được chính xác. Mặ khác công ty chưa xây dựng các
biện pháp cụ thể để thực hiện kế hoạch đề ra. Không có quy định về xử phạt thích
hợp khi nhân viên vi phạm quy trình kiểm soát.
Về công tác kế toán:
Hệ thống thông tin chưa được tổ chức khoa học, chưa đáp ứng được ueei cầu kiểm
soát. Kế toán sẽ chỉ theo dõi chứng từ hạch toán và kiểm tra số liệu sau khi nghiệp
vụ bán hàng đã hoàn thành. Do đó hay xảy ra sai sót như công nợ khách hàng quá
cao. Quy trình luân chuyển chứng từ và đối chiếu công nợ giữa khách hàng và các
cửa hàng kinh doanh với phòng kế toán còn chậm.
Về thủ tục kiểm soát:
Các thủ tục kiểm soát chưa toàn diện, chặt chẽ, phần lớn đi sâu vào mảng kế toan,
phầ kiểm soát chưa được quy định đầy đủ rõ ràng. Việc tiếp nhận đơn đặt hàng của
khách hàng chưa thống nhất. Công tác thẩm định khách hàng chưa được thực hiện
đầy đủ các bước trước khi ký hợp đồng.
Công tác ghi nhận doanh thu bán hàng chưa được thường xuyên, không đảm bảo
nguyên tắc kịp thời. Việc theo dõi đối chiếu các khoản thu với các chứng từ bán
hàng chưa được thường xuyên liên tục. Công tác đối chiếu công nợ chưa được tiến

hành liên tục thường xuyên. Tình trạng cửa hàng bán hàng thu tiền nhưng không
nộp ngay về công ty mà chiếm dụng tiền. Tình hình công nợ khách hàng quá cao,
cuối năm phải lập một khảo tiền trích lập dự phòng lớn để cho những công nợ quá
hạn, ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả kinh doanh của công ty mà vẫn chưa có biện
pháp để kiểm soát.


Chương 2: Thực trạng kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng thu tiền tại công ty cổ
phần thương mại Bách hóa xanh.
2.1. Vài nét về công ty cổ phần thương mại bách hóa xanh.

2.1.1. Giới thiệu chung về công ty cổ phần thương mại Bách hóa xanh.
Tên gọi: CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI BÁCH HÓA XANH.
Tên tiếng Anh: BACH HOA XANH TRADING JOINT STOCK COMPANY.
Địa chỉ: 128 Trần Quang Khải, Phường Tân Định, Quận 1, TP Hồ Chí Minh.
Mã số thuế: 0310471746 ( đăng ký ngày 23/11/2010)
Người đại diện pháp luật: Đặng Minh Lượm
Ngày hoạt động: 01/12/2010
Giấy phép kinh doanh: 0310471746
2.1.2. Quá trình hình thành phát triển.
a, Lịch sử hình thành Thegioididong.com
Quá trình hình thành: Công ty TNHH Thế Giới Di Động (Mobile World Co. Ltd)
hay còn tên gọi khác là MWG, thành lập vào tháng 03/2004 bởi 5 thành viên đồng


sáng lập là Trần Lê Quân, Nguyễn Đức Tài, Đinh Anh Huân, Điêu Chính Hải Triều
và Trần Huy Thanh Tùng. Lĩnh vực hoạt động chính của công ty bao gồm: mua
bán sửa chữa các thiết bị liên quan đến điện thoại di động, thiết bị kỹ thuật số và
các lĩnh vực liên quan đến thương mại điện tử.
Bằng trải nghiệm về thị trường điện thoại di động từ đầu những năm 1990, cùng

với việc nghiên cứu kỹ tập quán mua hàng của khách hàng Việt Nam,
thegioididong.com đã xây dựng một phương thức kinh doanh chưa từng có ở Việt
Nam trước đây. Công ty đã xây dựng được một phong cách tư vấn bán hàng đặc
biệt nhờ vào một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp và trang web
www.thegioididong.com hỗ trợ như là một cẩm nang về điện thoại di động và một
kênh thương mại điện tử hàng đầu tại Việt Nam.
b, Lịch sử hình thành Bách hóa xanh
Chuỗi siêu thị Bách hóa xanh là chuỗi siêu thị mini chuyên bán thực phẩm tươi
sống và các nhu yếu phẩm thuộc công ty cổ phần đầu tư thế giới di động. Công ty
được thành lập từ năm 2010, nhưng chưa được đầu tư mạnh mẽ như thế giới di
động và điện máy xanh.
Vào cuối nắm 2016 CTCP Đầu tư Thế giới di động (TGDĐ) công bố thông tin sẽ
triển khai hệ thống các cửa hàng bán lẻ thực phẩm mang tên Bách hóa Xanh. Đây
sẽ là hướng đi chiến lược từ năm 2017 của công ty khi doanh số điện máy và điện
thoại di động được dự báo sẽ chững lại do thị trường dần bão hòa.
TGDĐ là đơn vị đang đứng đầu thị phần sản lượng bán hàng trong mảng thiết bị di
động. Theo số liệu của TGDĐ cung cấp, đơn vị này đang giữ 30% thị trường điện
thoại di động chính hãng, gần gấp 3 lần đối thủ thứ 2 là FPT. Với gần 500 cửa hàng
có mặt tại 63/63 tỉnh thành trên cả nước, TGDĐ có khả năng tiếp tục giữ vị trí dẫn
đầu trong vài năm sắp tới.


Theo TGDĐ, chuỗi cửa hàng Điện máy Xanh hiện cũng đang vào guồng khi đơn vị
này đã mở 43 cửa hàng trong hơn 1 năm triển khai ở 25/63 tỉnh thành. Tuy là lính
mới, Điện máy Xanh hiện chiếm 5,5% thị trường điện máy chính hãng trên toàn
quốc, chỉ sau Nguyễn Kim (12%) và Điện máy Chợ Lớn (7,5%).
Dù kết quả kinh doanh cũng như các số liệu liên quan cho thấy TGDĐ đang đi
đúng hướng, nhưng “át chủ bài” trong chiến lược tăng trưởng những năm tới của
TGDĐ sẽ từ bán lẻ thực phẩm mới mang tên Bách hóa Xanh.
Hoạt động kinh doanh chính:

-

Bán lẻ thực phẩm.

-

Bán buôn thực phẩm sạch.
Bảng số liệu doanh thu của công ty qua các năm các kỳ:

Năm 2015
Doanh

Năm 2016

Năm 2017

thu 34,577,057,474 50,096,275,037 63,341,926,714

thuần
Giá vốn hàng 29396,019,335

39,423,139,586 51,422,847,461

bán
Lợi

nhuận 54,391,652

3,461,213,500


3,064,259,096

2,768,970,800

2,451,407,277

thuần từ bán
hàng
Lợi nhuận sau 43,513,322
thuế

Năm 2018


c, Đặc điểm kinh doanh.
Hệ thống siêu thị Bách hóa xanh cung cấp các loại thực phẩm đa dạng, từ các loại
đồ uống như bia, nước ngọt, sữa bột, sữa tươi, gia vị nấu ăn, thực phẩm ăn liền,
thực phẩm đóng hộp, bánh kẹo, snack, dầu gội đầu, dầu xả, sửa tắm bột giặt, nước
giặt nước xả, các loại thực phẩm tươi sống, hoa quả tươi, phục vụ đầy đủ nhu yếu
phẩm thực phẩm hằng ngày của người dân.
Nói về hoạt động của chuỗi này, thực phẩm tươi sống được gửi tới mỗi cửa hàng
vào lúc 6 - 7h. Trong tương lai, việc giao hàng sẽ diễn ra 2 lần/ngày, vào buổi sáng
và buổi chiều. Hàng hóa trong siêu thị phần lớn của các thương hiệu quốc tế như
Procter & Gamble, Unilever. Vinamilk là thương hiệu Việt lớn duy nhất trong Bách
Hóa Xanh. Ngoài ra, Bách Hóa Xanh có bán nước mắm, mắm tôm và các thực
phẩm truyền thống khác.
Tương tự Alfamart, Thế Giới Di Động lựa chọn phân khúc siêu thị mini để vừa
tránh được cạnh tranh với siêu thị lớn và cửa hàng tiện lợi đã ngày càng chật chội,
vừa phù hợp với năng lực phủ sóng sâu rộng, đến từng ngõ ngách của Thế Giới Di
Động.

Hướng đi của chuỗi Bách Hóa Xanh sẽ không tạo ra sự khác biệt của sản phẩm mà
sẽ chỉ là "chợ truyền thống với dịch vụ tốt hơn". Sau quá trình thử nghiệm thành
công, từ năm 2018 Thế Giới Di Động sẽ bắt đầu mở ồ ạt cả ngàn cửa hàng để
thống trị thị trường bán lẻ như Alfamart đã làm ở Indonesia.
Theo đánh giá của Rồng Việt, thị trường Việt Nam có đặc điểm rất tương đồng với
thị trường Indonesia: mật độ dân số và tỷ lệ đô thị hóa cao, nền kinh tế đang bùng
nổ, thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình thấp và tầng lớp trung lưu
đông.


Tuy nhiên mức độ bao phủ cửa hàng theo mô hình nhỏ và hiện đại ở Việt Nam còn
rất thấp so với các nước trong khu vực do hiện tại 75-80% người dân vẫn mua thực
phẩm tại các chợ truyền thống và cửa hàng nhỏ lẻ. Dự báo đến năm 2020, kênh
bán lẻ hiện đại sẽ chiếm 45% (theo Bộ Công Thương), như vậy dư địa phát triển
của Bách Hóa Xanh là rất lớn. Vấn đề đặt ra là liệu mô hình Bách Hóa Xanh có thể
vận hành tốt ở quy mô lớn sau khi kết thúc giai đoạn thử nghiệm.
d, Mạng lưới tiêu thụ.
Dễ dàng nhận thấy, các cửa hàng điện thoại được MWG đặt tại những con phố
thương mại sầm uất nhưng siêu thị lại có mặt ở những con phố nhỏ, cạnh khu vực
dân cư. Hiện, Bách Hóa Xanh mới chỉ ở 3 quận tại TP Hồ Chí Minh. Chi khoảng
80.000 USD cho mỗi cửa hàng, ban quản trị của Bách hóa xanh đánh giá kinh
doanh bách hóa nhiều rủi ro nhưng chủ yếu là cần quản lý chất lượng. Ví dụ nếu
hôm nay có cam tươi, khách hàng sẽ đến mua nhưng nếu ngày mai cam kém,
khách sẽ bỏ đi. Vì vậy MWG phải rất thận trọng trong việc đảm bảo chất lượng
của thực phẩm tươi sống.
Trong tương lai, MWG cũng cho biết sẽ cân nhắc vay dài hạn để tài trợ vốn cho
mảng kinh doanh Bách Hóa Xanh. Bởi các nhà quản trị kỳ vọng, kinh doanh siêu
thị sẽ là động lực chính đem lại lợi nhuận cho MWG, mặc dù hiện tại mảng điện
thoại góp khoảng 50%, sau đó tới mảng tiêu dùng.
e, Phương thức bán hàng và phương thức thanh toán.

Phương thức bán hàng chủ yếu của Bách hóa xanh là tự phục vụ, khàng hàng đến
chọn thực phẩm và nhu yếu phẩm mình cần rồi thanh toán tại quầy. Ngoài ra còn
có đặt hàng qua điện thoại đối với một số khách hàng mua sỉ hàng với số lượng
lớn.


×