Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

THỨC TRẠNG CÔNG TÁC PHỤC VỤ BẠN ĐỌC KHIẾM THỊ TẠI THƯ VIỆN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 22 trang )

THỨC TRẠNG CÔNG TÁC PHỤC VỤ BẠN ĐỌC KHIẾM THỊ
TẠI THƯ VIỆN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Hiện nay, công tác phục vụ bạn đọc khiếm thị tại TVHN2 đang được triển khai
tại Hội Người Mù Hà Nội cơ sở 2 (HộiNgười Mù tỉnh Hà Tây cũ). Vì vậy nội dung
thực trạng tập trung vào công tác phụcvụ bạn đọc khiếm thị tại TVHN.
2.1. Thực trạng vốn tài liệu phục vụ bạn đọc khiếm thị tại Thư viện Hà Nội
2.1.1. Đặc điểm của người khiếm thị tại Việt Nam nói chung và Hà Nội nói
riêng
Theo Vụ Thư viện (Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du lịch): cộng đồng NKT ở
nước ta chiếm tỷ lệ khoảng trên 1% dân số. Theo thống kê của Bộ Lao động -
Thương binh xã hội và Viện Mắt Trung ương: hiện nay Việt Nam có trên 5,1
triệu người tàn tật và trẻ mồ côi, trong đó có trên 900.000 NKT, bao gồm
khoảng 600.000 người mù (trên thực tế con số này còn cao hơn). Nhưng chỉ
40.000 NKT đăng ký là thành viên của Hội Người Mù và có thể nhận được các
hỗ trợ. Hầu hết NKT lớn tuổi sống với gia đình, hoặc đăng ký là thành viên Hội
Người Mù tại địa phương, trong khi đó nhiều em khiếm thị được sống tập trung
tại các mái ấm tình thương, hoặc các trường đặc biệt dành cho trẻ em khiếm thị.
Các mái ấm thường nhận tiền hoặc vật phẩm tài trợ từ các tổ chức hoặc cá nhân
từ thiện để giúp họ có điều kiện sống, học tập và làm việc cùng nhau.
Tại Hà Nội, số lượng NKT là trên 10.000 người. Phần lớn họ sinh sống
cùng với gia đình, song gặp rất nhiêu khó khăn trong đi lại vì ở Việt Nam chưa
có cơ sở hạ tầng và thiết kế giao thông đặc biệt dành cho người khuyết tật để họ
có thể ra ngoài mà không cần đến sự giúp đỡ của người nhà. Vì vậy, NKT khó
hòa nhập vào cộng đồng, phát huy năng lực, đóng góp cho xã hội.
Mức sống của NKT còn rất thấp. Những NKT có khả năng sống &
trang trải chi phí sinh hoạt tự lập là khoảng 50%. Số hộ nghèo có NKT
trên toàn quốc là 29%, ở Hà Nội là 10 - 15%. Cuộc sống của NKT gặp
rất nhiều khó khăn, không có việc làm ổn địnhk hoặc thu nhập thấp.
Nghề ngjiệp chủ yếu của họ là làm kinh tế gia đình bằng chăn nuôi,
trồng trọt là chủ yếu (60%); Xoa bóp: 100 người; Làm thủ công (tăm
chổi, đan lát); cho thuê nhà v..v Với chức năng chăm sóc đời sống vật


chất và tinh thần cho hội viên và người mù trong cả nước, Hội Người
mù Việt Nam (thành lập ngày 17/04/1969) đã tổ chức các lớp dạy chữ,
dạy nghề, thành lập nhiều cơ sở sản xuất. Chương trình vay vốn từ quỹ
quốc gia phát triển việc làm đã tạo điều kiện cho hàng chục nghìn hội
viên có việc làm và thu nhập ổn định hơn, góp phần xóa đói giảm
nghèo.
Phần lớn NKT có trình độ văn hóa thấp so với mặt bằng xã hội,
nhất là khu vực nông thôn. Vấn đề giáo dục, đào tạo, dạy nghề cho NKT
là khâu quan trọng nhất để tạo điều kiện cho họ hòa nhập với cộng
đồng. Hàng vạn Hội viên Hội Người mù đã được Hội tổ chức học chữ
Braille để nâng cao trình độ, hòa nhập xã hội. Cho đến nay đã có hàng
ngàn thanh thiếu niên mù trong cả nước được học tập hòa nhập tại các
trường phổ thông công lập hoặc trường phổ thông đặc biệt. Hơn 100
sinh viên mù đã và đang theo học tại các trường Đại học, Cao đẳng.
Trình độ văn hóa, giáo dục của NKT tại Hà Nội ngày càng cao cùng với
điều kiện & nhu cầu học tập của họ. Trong đó: Tốt nghiệp phổ thông: 25
- 30%; Khoảng 40 người có trình độ đại học.
2.1.2. Nhu cầu tin và tình hình tiếp cận thông tin của người khiếm thị
Cùng với sự phát triển về đời sống vật chất, tinh thần, nhu cầu
được đọc sách nói riêng cũng như hưởng thụ sản phẩm văn hóa nói
chung của NKT ngày càng cao, phong phú và đa dạng. Sách báo chữ
Braille, băng cassette, đĩa CD đã trở thành những ấn phẩm không thể
thiếu giúp NKT nâng cao kiến thức, nâng cao chất lượng sống mọi mặt.
Nhờ được trang bị kiến thức về tin học, rất đông cán bộ, hội viên người
mù đã sử dụng thành thạo vi tính, truy cập mạng Internet, khai thác
được thông tin, sách báo truyền tải trên mạng. Tuy nhiên do mất đi giác
quan quan trọng nhất nên NKT bị hạn chế nhiều trong việc tiếp cận các
phương tiện thông tin, các kiến thức được truyền tải qua sách báo bình
thường. Theo khảo sát thực tế, đa phần người khiếm thị tiếp nhận văn
hóa qua: Nghe đài, nghe Tivi…; đọc sách, báo chữ nổi; tham gia các

sinh hoạt văn hóa chủ yếu tại Thành hội và do Thành Hội Người Mù tổ
chức. Để đáp ứng nhu cầu văn hóa, họ phải tự thân tìm đến, tiếp cận
với các nguồn tin, nguồn kiến thức hoặc thông qua các hoạt động văn
hóa: câu lạc bộ văn nghệ, tủ sách của Thành hội & các quận hội. Nhưng
nhìn chung, nhiệm vụ trọng tâm của Thành hội & quân hội vẫn là tập
trung giải quyết vấn đề đời sống cho hội viên. Vì vậy, điều kiện tiếp nhận
văn hóa của NKT chưa đáp ứng được nhu cầu văn hóa của họ, NKT rất
cần những phương tiện truyền tải phù hợp (sách báo chữ Braille; máy
phóng chữ nét to; đĩa, máy đọc đĩa CD; băng, đài cassette…) Việc nâng
cao chất lượng bồi dưỡng giáo dục, phổ biến kiến thức và văn hóa cho
NKT đòi hỏi sự chung tay giúp đỡ của toàn xã hội.
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, NKT là nhóm người thiếu điều
kiện truy cập thông tin cần thiết cho việc học tập và đời sống của họ. Họ
có nhu cầu đọc sách và thông tin như người bình thường; họ cũng có
nhu cầu học suốt đời, nhu cầu giải trí cũng như đóng góp cho xã hội.
Tuy nhiên, hầu như mọi điều kiện tiếp thu thông tin - văn hóa - giải trí
v...v đều không thuận lợi cho họ, tài liệu và các dịch vụ trong thư viện
cũng như vậy. Cho đến nay, người ta cũng chưa thể xác định nhu cầu
đọc sách của NKT ở mức nào là phù hợp. Một trong các nguyên nhân là
chi phí chuyển đổi các ấn phẩm in sang định dạng khác còn quá cao,
bất chấp sự tiến bộ của khoa học và công nghệ. Một rào cản khác là
bản quyền tác giả trong chia sẻ nguồn tin cũng gây rất nhiều khó khăn
cho việc thỏa mãn nhu cầu tin của NKT.
2.1.3. Tình hình đáp ứng nhu cầu tin cho người khiếm thị tại Việt Nam nói
chung và tại Hà Nội nói riêng
* Tại Việt Nam
Theo thống kê của Bộ Lao động và Thương binh xã hội, có hơn 900.000
người (chiếm 1,2% dân số) có khuyết tật về mắt, bao gồm 600.000 người mù
hoàn toàn.
Những năm gần đây, ở Việt Nam, các hoạt động phục vụ cho NKT trong

các thư viện công cộng đã có nhiều thay đổi. Năm 1998, từ nguồn vốn Chương
trình Mục tiêu Quốc gia về văn hoá đã xây dựng thí điểm 2 phòng đọc sách cho
người khiếm thị ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Ở một số thư viện tỉnh, thành
cũng lần lượt xuất hiện các hình thức phục vụ như Hải Phòng, Đà Nẵng, Hà
Tây, Phú Thọ, Quảng Ngãi, Hải Dương, Thanh Hoá... Đến nay đã có hơn một
nửa các thư viện tỉnh, thành phố tổ chức phòng đọc cho NKT. Một số Tỉnh Hội,
Thành Hội Người mù đã có các thông tin nội bộ như
- Hà Nội: tập chí “Tri thức và đời sống” bằng băng cassette ra
hàng tháng.
- Nam Định: báo băng “Đời mới” ra hàng quý.
- Thành phố Hồ Chí Minh: Bản tin chữ Braille ra mỗi năm 1 kỳĐài PT-
TH Hải Phòng phối hợp Thành Hội Người mù Hải Phòng thực hiện
chương trình phát thanh “Vòng tay ánh sáng” vào Chủ nhật
v…v
Hầu hết các cấp Hội đều có thư viện và tủ sách, cung cấp tài liệu
học tập và thông tin quan trọng cho hội viên.
Song vốn tài liệu phục vụ người khiếm thị quá ít. Thư viện KHTH
TP. Hồ Chí Minh có 392 bản sách chữ nổi, 8 loại báo- tạp chí với 448
bản, 493 băng casette, 620 đĩa CD. Phòng đọc ở các thư viện tỉnh,
thành phố khác cũng có bình quân từ 100-300 bản sách chữ nổi, 80 -
140 đĩa CD, băng cassette. Ở một số thư viện tỉnh miền núi, phòng đọc
càng nghèo nàn hơn. Vốn tài liệu phục vụ ở các thư viện tỉnh, thành
phố chủ yếu được cung cấp từ Hội Người mù Việt Nam, Vụ Thư viện,
Thư viện KHTH TP. Hồ Chí Minh, Hội Người mù TP. Hà Nội. Ngân sách
của các thư viện tỉnh, thành phố bổ sung vốn tài liệu phục vụ còn rất ít.
Ngoài Thư viện KHTH TP. Hồ Chí Minh và Thư viện Hà Nội có kinh phí
bổ sung vài chục triệu đồng/ năm, phần lớn chỉ có 2-3 triệu đồng và vẫn
còn một số thư viện tỉnh không bổ sung tài liệu phục vụ . Lý do chính là
không có nguồn tài liệu để mua hoặc lượng bạn đọc khiếm thị đến thư
viện ít, khai thác vốn tài liệu không nhiều... Đó là những khó khăn lớn và

khó khắc phục.
Hiện nay, ở Việt Nam không có thư viện đặc biệt dành riêng cho NKT,
các nhà xuất bản ở Việt nam không quan tâm đến loại tài liệu này. Hầu hết
thông tin cho NKT là sách chữ nổi được được Hội Người Mù sản xuất. Bởi vậy,
có sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn lực thông tin cho NKT. Mặc dù không có
một thống kê chính thức về tài liệu chuyển dạng cho NKT ở Việt Nam, nhưng
có thể nhận thấy rõ là tài liệu cho NKT hiện không được quan tâm đúng mức.
Kế đến là các dạng tài liệu khác như sách nói dạng băng cassette. Có một
số tổ chức như hệ thống các trường phổ thông đặc biệt ở Việt Nam – Trường
Nguyễn Đình Chiểu sản xuất sách chữ nổi cho học sinh Tiểu học và Trung học.
Các tổ chức từ thiện khác sản xuất sách nói dạng analog như Hội Phụ nữ Từ
thiện TP. Hồ Chí Minh, và Trung tâm Vì Người Mù Sao mai (sản xuất sách nói
DAISY và tập huấn tin học cho NKT). Gần đây, sách nói kỹ thuật số định dạng
DAISY được sản xuất bởi dự án do quỹ FORCE tài trợ.
Hiện tại, các thư viện tỉnh, thành phố tổ chức phục vụ chủ yếu là tại chỗ
và cho mượn về nhà. Một số thư viện phối hợp với Hội Người mù mang sách,
báo, thiết bị đến phục vụ tại hội, chi hội, các trường dạy nghề, mái ấm tình
thương... Với tinh thần “Sách đi tìm người”, Thư viện KHTH TP. Hồ Chí Minh,
Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bắc Giang, Cao Bằng, Quảng Ngãi... đã luân
chuyển tài liệu xuống các cơ sở . Thư viện KHTH TP. Hồ Chí Minh từ năm
2008 đã bắt đầu phục vụ bằng xe thư viện lưu động. Hình thức này rất được
hoan nghênh bởi đã đáp ứng nhu cầu đọc và giải trí của ở những vùng xa xôi,
giúp họ tiếp cận với những phương tiện hiện đại mới.
Vào thập niên 90, cùng với sự phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin
(CNTT) vào các lĩnh vực xã hội ở Việt Nam. Đặc biệt là do nhu cầu của bộ phận
NKT, các trường chuyên biệt cho NKT và các tổ chức từ thiện cho người mù,
một số nhóm hỗ trợ về CNTT đã bắt đầu thiết kế và thực hiện các phần mềm
chuyên dụng để NKT dễ dàng tiếp cận với máy tính. Trong thời điểm này, các
thư viện Việt Nam vẫn chưa có dịch vụ cho NKT. Nhận thấy sự cần thiết của
dịch vụ này trong việc hỗ trợ NKT tiếp cận với nguồn lực thông tin phong phú

và đa dạng, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã
đầu tư thí điểm cho 02 phòng đọc cho NKT tại TVHN và TVKHTH thông qua
“Chương trình Quốc gia Mục tiêu về Văn hóa”. Đây chính là hoạt động khởi
xướng đầu tiên về dịch vụ cho NKT tại Hệ thống Thư viện công cộng tại Việt
Nam.
TVKHTH là thư viện công cộng đầu tiên đã ứng dụng CNTT vào các
dịch vụ nhằm nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm cho NKT. Hơn 8 năm
qua, nhờ sự hỗ trợ của Quỹ FORCE (Hà Lan), các dịch vụ cho NKT ở
TVKHTH phát triển rất nhanh. Thêm vào đó, sự hợp tác chặt chẽ giữa Vụ Thư
Viện (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) và Quỹ FORCE, dịch vụ cho NKT đã
được mở rộng đến 64 thư viện công cộng trong cả nước. Trong đó, TVHN liên
kết với Hội Người Mù Việt Nam là đơn vị duy nhất của Thủ đô trong lĩnh vực
phục vụ thông tin cho NKT.
Từ năm 2003, Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh (viết tắt là
TVKHTH) đã trở thành thư viện công cộng đầu tiên sản xuất sách nói theo định
dạng DAISY này, với 02 studio sản xuất và phân phối sản phẩm cho toàn Hệ
thống Thư viện Công cộng Việt Nam và các tổ chức khác. Hơn thế nữa,
TVKHTH bắt đầu sản xuất các loại tài liệu khác như hình minh họa nổi, sách
minh họa nổi. Đến cuối năm 2008, thêm 01 studio sản xuất sách nói được thành
lập tại TVHN cũng do Quỹ FORCE tài trợ nhằm tăng cường số lượng sách nói
cho cả Việt Nam.
Tại Việt Nam, các Dự án cung cấp thông tin cho NKT ứng dụng CNTT
đang được quan tâm & đầu tư . Có thể đơn cử như Dự án “Thư Viện Sách Nói
Kỹ Thuật Số Cho Người Khiếm Thị” (Digital Talking BookProjects) - Chủ
nhiệm dự án: PGS. TS: Đặng Hoài Phúc
Dự án “Xây dựng thư viện sách nói kỹ thuật số và trình đọc màn hình
tiếng Việt dành cho người khiếm thị” với tổng kinh phí 59.535 USD đã được
triển khai từ năm 2005. Đây là một dự án phát triển công cụ trợ giúp và nguồn
tài liệu tương thích nhằm giúp NKT tiếp cận với tin học một cách hiệu quả và
nhanh nhất; tạo một nguồn tài liệu phong phú nhằm phục vụ cho các học sinh,

sinh viên khiếm thị. Dự án được chia thành hai phần chính:
Phần 1: Xây Dựng Thư Viện Sách Nói Kỹ Thuật Số. Trong phần này dự
án sẽ tiến hành chuyển tòan bộ các bộ sách giáo khoa sang sách nói kỹ thuật số
theo chuẩn DAISY Với lọai sách này, NKT có thể vừa đọc được văn bản bằng
chữ nổi hoặc nghe sách đọc, tăng hoặc giảm tốc độ đọc, chuyển đổi giữa các
trang nhanh hơn, tìm nội dung dễ hơn, đánh dấu hoặc ghi chú trực tiếp trên sách
dựa trên thông tin riêng của từng người... So với lọai sách nói hiện nay, chỉ đơn
giản được đọc và thu trên băng cassette nên các tính năng nêu trên hoàn toàn
không được hỗ trợ. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn cho NKT trong việc đọc
sách và tìm tài liệu. Hơn thế nữa, với lọai sách nói kỹ thuật số sẽ giúp cập nhật
một bộ sách mới nhanh hơn nhiều lần.
Phần 2: Dự án phát triển bộ đọc tiếng Việt theo chuẩn Sapi với giọng đọc
mới. Giọng đọc hiện nay còn thiếu và không hỗ trợ nhiều từ trong tiếng Việt.
Bên cạnh đó, dự án cũng sẽ tích hợp bộ đọc vào các trình đọc màn hình phổ
biến hiện nay bao gồm Jaws, NVDA, đặc biệt là NVDA, một trình đọc màn
hình mã nguồn mở.
Được sự cho phép và hỗ trợ đầu sách của Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Dự án
đã chuyển toàn bộ nội dung sách giáo khoa sang dạng sách nói kĩ thuật số dành
cho NKT theo chuẩn DAISY, với tổng số 85 đầu sách từ lớp 1 đến lớp 12. Đây
là dự án tập trung chủ yếu vào vấn đề giáo dục cho NKT nhằm đem lại cho
NKT nguồn tài liệu học tập phong phú giúp họ sớm hòa nhập cuộc sống cộng
đồng.
* Tại Hà Nội,
Thư viện dành cho NKT tại TVHN ra đời năm 1998 đã trở thành sự kiện
văn hóa đối với những NKT, góp phần đáng kể vào việc cải thiện đời sống văn
hóa - giáo dục cho NKT, đặc biệt là lớp trẻ. Đầu tháng 12/2006, Thư viện âm

×