Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG MẠNG LƯỚI CÁC CÔNG TRÌNH CẤP ĐIỆN - SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP ĐIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.77 KB, 26 trang )

QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG MẠNG LƯỚI CÁC CÔNG TRÌNH
CẤP ĐIỆN - SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP ĐIỆN
I. CHẤT LƯỢNG MẠNG LƯỚI CÁC CÔNG TRÌNH CẤP ĐIỆN, VAI TRÒ
CỦA NÓ TRONG XÂY LẮP CÁC CÔNG TRINH CẤP ĐIỆN VÀ SẢN
XUẤT KINH DOANH.
1. Các quan niệm về mạng lưỡi và chất lượng mạng lưới.
Chất lượng là một phạm trù phức tạp biến động theo sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, nhận thức và mong muốn của con người. Hiện
có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng, sản phẩm mỗi quan niệm
đó đều có căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau và như vậy chúng có
những đóng góp nhất định vào việc thúc đẩy khoa học quản lý chất
lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.
2. Các loại chất lượng mạng lưới
Qua sự phân tích nghiên cứu, các chuyên gia đã đưa ra 6 loai chất
lượng mạng lưới như sau:
- Chất lượng thiết kế: chất lượng thiết kế là chất lượng thể hiện
những thuộc tính chỉ tiêu của sản phẩm được phác thảo trên cơ sở
nghiên cứu thị trường được định ra để sản xuất, chất lượng thiết kế
được thể hiện trong các bản vẽ, bản thiết kế, trên các yêu cầu cụ thể về
phương diện vật liệu chế tạo,những yêu cầu về gia công, sản xuất chế
tạo, yêu cầu về bảo quản, yêu cầu về thử nghiệm và những yêu cầu
hướng dẫn sử dụng. Chất lượng thiết kế còn gọi là chất lượng chính
sách nhằm đáp ứng đơn thuần về lý thuyết đối với nhu cầu thị trường,
còn thực tế có đạt được điều đó hay không thì nó còn chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố.
Yêu cầu đặt ra đối với những người đặt ra chất lượng thiết kế phải
rất thận trọng bởi đó là những bước đầu tiên quyết định tới cả quá
trình sản xuất sản phẩm, thậm trí nó còn ảnh hưởng cả tới quá trình
đầu tư công nghệ.
Chất lượng chuẩn là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó


được phê duyệt trong quá trìng quản lý chất lượng và người quản lý
chính là các cơ quan quản lý về mặt chất lượng sản phẩm mới có
quyền phê chuẩn và sau khi phê chuẩn rồi thì chất lượng này trở thành
pháp lệnh, văn bản pháp quy.
Chất lượng thực tế là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
sản phẩm và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất trong quá trình sử
dụng sản phẩm. Chất lượng là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất
lượng chuẩn và chất lượng thực tế của sản phẩm.
Chất lượng cho phép là do các cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm,
quan quản lý thị trường, trong hợp đồng quốc tế, hợp đồng giữa đôi
bên quy định.
- Chất lượng tối ưu:
Chất lượng tối ưu của sản phẩm biểu thị khả toàn năng toàn diện
nhu cầu thị trường điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp
nhất.
Chất lượng tối ưu của sản phẩm nói nên mối quan hệ giữa chất lượng
sản phẩm và chi phí.
- Chất lượng toàn phần:
Chất lượng toàn phần là mức chất lượng thể hiện mức tương quan
giữa hiệu quả có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng
chi phí để sản xuất và sử dụng sản phẩm đó.
3. Một số điều rút ra từ khái niệm :
a. Chất lượng mạng lưới các công trình là tổng hợp kỹ thuật và kinh tế. Chất
lượng là khả năng đáp ứng các yêu cầu. Vì vậy một công trình muốn đáp
ứng được những yêu cầu sử dụng thì phải có những tính chất về chức năng
phù hợp . do đó, không thể tạo ra công trình chất lượng cao bằng khả
năng kỹ thuật non kém. Chỉ có công nghệ cao, thiết bị tiên tiến, công nhân
giỏi, nguyên liệu tốt, mới làm ra công trình có tính năng sử dụng cao, mới
có khả năng đòi hỏi của người sử dụng. Đó là nội dung kỹ thuật của chất
lượng mạng lưới các công trình. Nâng cao chất lượng là cải tiến kỹ thuật,

đổi mới công nghệ. v.v ...
Nhưng chất lượng mạng lưới các công trình không chỉ là vấn đề kỹ
thuật. Nó còn là vấn đề kinh tế. Mặt kinh tế của chất lượng mạng lưới
các công trình thể hiện ở chỗ, sự thoả mãn của người sử dụng các công
trình không phải chỉ bằng những tính chất về chức năng của công
trình, mà còn bằng chi phí người ta phải bỏ ra để có công trình và sử
dụng nó. Sự đòi hỏi của người sử dụng bị các chi phí này giới hạn nặng,
vì vậy mới có sự thoả mãn.
b. Chất lượng sản phẩm chỉ được xác định theo mục đích sử dụng, đối với
điều kiện sử dụng cụ thể. Nghĩa là không có sản phẩm chất lượng cho mọi
người. Sản phẩm chỉ có chất lượng với một đối tượng tiêu dùng, được sử
dụng vào một mục đích, với những điều kiện sử dụng nhất định. Chất
lượng là sự đáp ứng các yêu cầu. Đối tượng sử dụng khác nhau sẽ có các
yêu cầu khác nhau. Yêu cầu của người tiêu dùng là đa dạng. Do vậy muốn
tạo ra sản phẩm có chất lượng phải phân nhỏ thị trường, phân đối tượng
tiêu dùng thành nhiêu loại và làm nhiều loại sản phẩm khác nhau cho từng
đối tượng. Do đó, đa dạng hoá sản phẩm là con đường tất yếu để nâng cao
chất lượng.
c. Chất lượng có tính tương đối. Sự tương đối thể hiện trên cả hai mặt không
gian và thời gian. Một loại hàng hoá có thể có chất lượng ở thị trường này,
nhưng không có chất lượng ở thị trường khác. Ngay tại một thị trường mỗi
loại sản phẩm chỉ có chất lượng với một đối tượng tiêu dùng.một loại sản
phẩm có chất lượng hôm nay, ngày mai có thể không còn chất lượng nữa.
Bởi vì, nhu cầu của người tiêu dùng có thể đã thay đổi hoạc có những sản
phẩm khác phù hợp hơn xuất hiện. Do vậy, muốn duy trì được chất lượng
tất yếu phải đổi mới sản phẩm.
Như vậy,đa dạng hoá và thường xuyên đổi mới sản phẩm là con
đường tất yếu của nâg cao chất lượng.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng mạng lưới các công trình:
Chất lượng mạng lưới các công trình ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố

khác nhau nhưng nói chung người ta chia thành hai nhóm nhân tố ảnh
hưởng chủ yếu đó là nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm nhân tố bên
trong.
a. Nhóm nhân tố bên ngoài:
+Nhu cầu thị trường:
Nhu cầu thị trường là xuất phát của quá trình quản lý chất lượng tạo
lực kéo, định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm, cơ
cấu, tính chất, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động
trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Từ đó phải đòi hỏi phải tiến hành
nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị
trường, phân tích môi trường kinh tế hã hội, xác định chính xác nhận
thức của khách hàng, thói quen, phong tục tập quán văn hoá, nối sống,
mục đích sử dụng và khả năng thanh toán...
+Trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ:
Tiến bộ khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy nâng cao chất
lượng mạng lưới các công trình thông qua viêc tạo khả năng to lớn đưa
chất lượng công trình không ngừng tăng lên. Tiến bộ khoa học công
nghệ đã tạo ra và đưa vào sản xuất những công nghệ mới có các chỉ tiêu
kinh tế kỹ thuật cao hơn. Khoa học kỹ thuật cho phép chúng ta tạo ra
và tìm ra những nguyên liệu mới, nguyên liệu tôt hơn, rẻ hơn, nhờ có
tiến bộ khoa học kỹ thuật mà ta có thể mà ta có thể tạo ra các phương
pháp và phương tiện kỹ thuật quản lý tiên tiến góp phần nâng cao chất
lượng,giảm chi phí.
+Cơ chế quản lý:
Khả năng cải tiến nâng cao chất lượng mạng lưới các công trình của
doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý của mỗi nước bởi
lẽ:
Cơ chế quản lý của nhà nước có tạo ra được tính độc lập tự chủ, sáng
tạo trong mỗi doanh nghiệp hay không?
Cơ chế quẩn lý của nhà nước có tạo ra và hình thành lên một môi

trường thuân lợi cho các doanh nghiệp huy động công nghệ mới, tiếp
thu ứng dụng những phương pháp quản lý chất lượng hiện đại hay
không?
Cơ chế quản lý tạo ra sự cạnh tranh, xoá bỏ sức ỳ tấm lý ỷ lại
không nhừng phát huy sáng kiến cải thiện hoàn thiện chất lượng các
công trình.
b. Nhóm nhân tố bên trong:
Các nhân tố bên trong có ảnh hưởng tới chất lượng mạng lưới các
công trình bao gồm các nhân tố sau:
Lực lượng lao động trong doanh nghiệp:
Đây là những nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng mạng
lưới các công trình. Nó bao gồm trình độ chuyên môn tay nghề kinh
nghiệm, ý thức, trách nhiệm tính kỷ luật tinh thần hiệp tác phối hợp
khả năng thích ứng với sự thay đổi của ngoaị cảnh, khả năng thu nhập
và xử lý thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực
tiếp tới chất lượng mạng lưới các công trình.
Khả năng về công nghệ máy móc thiết bị của mỗi doanh nghiệp.
Công nghệ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ tới chất
lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ hiện
đại cơ cấu, tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm
việc của máy móc thiết bị công nghệ, đặc biệt là những doanh nghiệp tự
động hoá cao, dây truyền có tính chất sản xuất linh hoạt.
Vật tư nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu
của doanh nghiệp.
Chủng loại cơ cấu tính đồng bộ chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng
trực tiếp tới chất lượng sản phẩm bởi lẽ vật tư nguyên liệu phải có chất
lượng cao, và việc cung ứng nguyên liệu cũng phải đảm bảo cung cấp
đầy đủ đồng bộ, kịp thời và đúng yêu cầu về chủng lọi và chất lượng
nguyên vật liệu.
Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất doanh nghiệp.

Trình độ quản lý nói chung và trình độ quản lý chất lượng nói riêng là
một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy mạnh tốc độ cải tiến
hoàn thiện chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Theo đánh giá của các chuyên gia về quản lý chất lượng sản phẩm thì
trong thực tế có tới 80% những vấn đề chất lượng là do quản lý gây ra.
Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu bộ máy quản lý,
khả năng xác định mục tiêu chính sách, chất lượng và chủ đạo tổ chức
thực hiện chương trình kế hoạch chất lượng.
5. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng mạng lưới công trình .
Việc nâng cao chất lượng mạng lưới sản phẩm có ý nghĩa to lớn đối
với cả người sản xuất và người tiêu dùng.
+Đối với người sản xuất:
Trong nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
bây giờ và nền kinh tế thị trường đang phát triển trên thế giới thì bất
cứ một loại sản phẩm nào cũng có thể được sản xuất và cung cấp bởi
nhiều nhà sản xuất khác nhau, nó tạo ra sự canh tranh mạnh mẽ giữa
các nhà sản xuất. Trong cạnh tranh họ có thể dùng nhiều yếu tố sản
phẩm của mình để làm vũ khí cạnh tranh, mà trong vũ khí cạnh tranh
hiệu quả nhất thường được sử dụng nhất là giá cả và chất lượng sản
phẩm. Xã hội càng phát triển đời sống xã hội càng nâng cao thì yếu tố
chất lượng sản phẩm có xu hướng quyết định hơn yếu tố giá cả trong
cạnh tranh. Do vậy mà việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ giúp cho
doanh nhiệp có khả năngcạnh tranh cao hơn trên thị trường.
Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ atọ uy tín, danh tiếng, cơ hội tồn
tại và phát triển lâu dài cho doanh nghiệp.
Việc nâng cao chất lượng sản phẩm tạo cơ hội cho doanh nghiệp hội
nhập buôn bán làm ăn với các nước, giữ uy tín quốc gia.
Nâng cao chất lượng tức là cùng một khối lượng nguyên liệu chúng
có thể sản xuất ra một giá trị sủ dụng cao hơn, do đó mà doanh nghiệp

có thể tiết kiệm được sức người sức của.
+Đối với người tiêu dùng:
việc nâng cao chất lượng sản phẩm là ngày càng thoả mãn nhu cầu cao
về tiêu dùng, nhu cầu về số lượng, chủng loại, phẩm chất của sản phẩm.
Người tiêu dùng có thể tiết kiệm được sức người sức của thông qua
việc tiêu dùng, sử dụng có chất lượng cao.
Tạo dựng được lòng tin, độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản
phẩm hàng hoá, giải quyết được vấn đề an toàn trong quá trình sử
dụng, tiêu dùng sản phẩm.
Ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm còn làm tăng khả năng
cạnh tranh về kinh tế của đất nước, góp phần làm khẳng định sản
phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới và trong khu vực.
Như vậy việc nâng cao chất lượng sản phẩm là một biện pháp hữu hiệu
kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng, xã hội và
người lao động.
II. QUẢN LÝ MẠNG LƯỚI.
1. Thực chất của quản lý chất lượng mạng lưới.
Các quan niệm về quản lý mạng lưới được phát triển và hoàn thiện
liên tục thể hiện ngày càng đầy đủ hơn về bản chất tổng hợp, phức tạp
của vấn đề chất lượng phản ánh sự thích ứng với điều kiện và môi
trường kinh doanh mới.
Vào những năm đầu của thế kỷ này chỉ có khái niệm là kiểm tra chất
lượng sản phẩm và được thực hiện ở quá trình sản xuất. Cho đến
những năm 50 thì bắt đầu xuất hiện khái niệm quản lý chất lượng
mạng lưới lúc này nội dung và phạm vi quản lý, chức năng quản lý
mạng lưới được mở rộng hơn nhưng nó tập trung chủ yếu vào giai đoạn
sản xuất sản phẩm.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa kinh tế, chính trị của
chất lượng hàng hoá, nhất là hàng hoá xuất nhập khẩu, nhà nước ta đã
sớm quan tâm đến quản lý mạng lưới các công trình. Từ những năm

đầu của thập niên 60, nhà nước đã ban hành những văn bản tạo cơ sở
pháp lý cho công tác quản lý chất lượng hàng hoá và tổ chức các cơ
quan quản lý và các cơ quan nghiên cứu về lĩnh vực này.
Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý chất lượng mạng
lưới, dưới đây là một số định nghĩa :
Trong các tiêu chuẩn công nghiệp Nhật có định nghĩa về quản lý
chất luộng như sau “ Hệ thống các phương pháp sản xuất tạo điều kiện
sản xuất tiết kiệm sản xuất những hàng hoá có chất lượng thoả mãn yêu
cầu của người tiêu dùng . Quản lý chất lượng hiện đại dựa trên việc sử
dụng những phương pháp thống kê và thường được gọi là kiểm tra
thống kê chất lượng “.
Quản lý mạng lưới là hệ thống các hoạt động, các biện pháp và
quy định hành chính, kinh tế, kỹ thuật, tổ chức ... dựa trên những
thành tựu về khoa học kỹ thuật nhằm sử dụng tối ưu các chức năng
trong doanh nghiệp để đảm bảo duy trì và không ngừng nâng cao chất
lượng ( thiết kế, sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng ) nhằm thoả mãn yêu
cầu của xã hội với chi phí thấp nhất .
Như vậy so với các quan niệm về quản lý chất lượng mạng lưới
trước đay thì quan niệm về quản lý chất lượng mạng lưới hiện nay có
những khác biệt cần chú ý:
Về tính chất : Quản lý chất lượng hiện nay coi chất lượng là vấn
đề kinh doanh ( tổng hợp kinh tế - kỹ thuật, xã hội ) là bộ phận không
thể tách rời trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chứ
chất lượng không đơn thuần là vấ đề công nghệ như xưa .
Phạm vi quản lý : Ta thấy phạm vi quản lý chất lượng hiện nay
rất rộng, liên quan tới tất cả các khâu, các quá trình hoạt động tạo ra
sản phẩm.
Cấp quản lý: Quản lý chất lượng hiện nay được thể hiện ở mọi
cấp, ở các công ty, phân xưởng, phòng, ban và người lao động với quản
lý chất lượng chứ không còn bó hẹp thực hiện ở cấp phân xưởng trong

khâu sản xuất trước đây.
Mục tiêu: Mục tiêu quản lý chất lượng hiện nay là kết hợp giữa
mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn nhầm thoả mãn nhu cầu của
khách hàng ở mức cao nhất chứ không chỉ dừng lại ở mục tiêu ngắn
hạn như trước đây là đạt mức lợi nhuận cao nhất.
Sản phẩm: Với quản lý chất lượng hiện nay, sản phẩm được biểu
hiện là tất cả đầu ra của mọi quá trình, không kể đó là quá trình sản
xuất, hay quá trình quản lý và như vậy ngay cả những chứng từ, báo
cáo, hợp đồng, đơn đặt hàng,... đều là sản phẩm và được quản lý về
chất lượng để sản phẩm ở công đoạn cuối cùng đạt chất lượng cao. Và
các sản phẩm được quản lý chất lượng là tất cả ( sản phẩm thực hiện
bên trong và bên ngoài) chứ không chỉ dừng lại ở việc quản lý chất
lượng sản phẩm với những sản phẩm cuối cùng bán ra ngoài xí nghiệp
như trước.
Khách hàng: Với quản lý chất lượng mới hiện nay thì khách hàng
được hiểu là những người có liên quan trực tiếp đến sử dụng sản phẩm
của xí nghiệp kể cả khách hàng bên trong và khách hàng bên ngoài chứ
không chỉ là những khách hàng bên ngoài.
Chức năng: Chức năng của quản lý chất lượng hiện nay bao gồm
hoạch đọnh chất lượng, kiểm soát chất lượng, cải tiến và hoàn thiện
chất lượng chứ không chỉ có một chức năng kiểm tra, kiểm soát chất
lượng sản phẩm như trước kia.
Đánh giá chất lượng: Trong quản lý chất lượng mạng lưới hiện
nay, muốn đánh giá mức mạng lưới thì dùng nhiều chỉ tiêu căn cứ khác
nhau, chú trọng nhất là sự phản ứng của khách hàng, chứ không chỉ
căn cứ vào những chỉ tiêu thiết kế như xưa.
2. Nội dung cơ bản của quản lý chất lượng mạng lưới.
a. Hoạch định chất lượng:
Hoạch định chất lượng là hoạt động xác định mục tiêu và phương
tiện nguồn lực và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu chất lượng sản

phẩm.
Hoạch định chất lượng cho phép:
định hướng phát triển chung cho toàn xí nghiệp theo một hướng
thống nhất. Khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực
dài hạn nhằm góp phần giảm chi phí cho chất lượng.
Tạo điều kiện thuận lợi cho xí nghiệp mở rộng thị trường nâng cao
sự cạnh tranh đặc biệt là thị trường thế giới ...
Nội dung chủ yếu của hoạch định xây dựng bao gồm:
- Xác định mục tiêu chất lượng tổng quát và chính xác chất lượng.
- Xác định khách hàng.
- Xác định nhu cầu và đặc điểm nhu cầu của khách hàng.

×