Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đã tạo nên
động lực thu hút mạnh mẽ đầu tư từ nhiều nguồn cho xây dựng. Vì thế thị
trường xây dựng và xây lắp nước ta trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Nhiều kỹ
thuật, công nghệ tiên tiến mang tính đột phá đã được mang vào Việt Nam tạo
một bước tiến khá xa về tốc độ xây lắp, về quy mô công trình, về chất lượng, về
tổ chức trong xây dựng, tạo một diện mạo mới của một đất nước đang phát triển
vững chắc tiến vào những năm đầu của thiên niên kỷ thứ 3. Song chính thời
điểm này cũng bộc lộ sự hẫng hụt về trình độ sơ hở về quản lý, buông lỏng về
kiểm soát trong lĩnh vực chất lượng mạng lưới các công trình cấp điện. Nhằm
đảm bảo sự phát triển bền vững, thúc đẩy sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, quản lý chất lượng mạng lưới công trình đòi hỏi những chuyển biến mới,
vững chắc nhưng cũng thực sự khẩn trương.
Chúng ta đều có thể hiểu rằng, chất lượng mạng lưới không là điều xảy
ra trong chốc lát. Sự theo đuổi chất lượng là một cuộc hành trình bền bỉ đòi hỏi
sự đổi mới tự hoàn thiện nâng cao trình độ và phương pháp quản lý để theo kịp
tiến độ và tập quán quốc tế. Công trình cấp điện với vốn đầu tư lớn không cho
phép phế phẩm đã đặt ra một đòi hỏi đặc biệt cấp thiết với công tác quản lý chất
lượng mạng lưới công trình.
Trong những năm qua như một số công ty xây lắp điện trong cả nước,
Công ty TNHH một thành viên xây lắp điện IV đã từng bước đổi mới và hoàn
thiện công tác quản lý chất lượng mạng lưới các công trình cấp điện.Tuy vậy,
công tác này vẫn còn ở thế bị động trong ngành và còn nhiều tồn tại.
Với những kiến thức đã học được và tích luỹ trong nhà trường kết
hợp với những tài liệu đọc thêm, xuất phát từ thực trạng của Công ty,
được tiếp xúc trong thời gian đi thực tế em mạnh dạn chọn đề tài :
“ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG MẠNG LƯỚI CÁC CÔNG TRÌNH CẤP ĐIỆN Ở CÔNG TY
CẤP ĐIỆN ” với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Em xin trân thành cảm ơn sự
giúp đỡ của thầy hướng dẫn: Tiến sỹ Nguyễn Tiến Dũng và cùng các
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
1
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
anh chị trong Công ty đã tận tình hướng dẫn và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
2
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
CHƯƠNG I: QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG MẠNG LƯỚI CÁC
CÔNG TRÌNH CẤP ĐIỆN - SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP ĐIỆN
I. CHẤT LƯỢNG MẠNG LƯỚI CÁC CÔNG TRÌNH CẤP ĐIỆN, VAI TRÒ
CỦA NÓ TRONG XÂY LẮP CÁC CÔNG TRINH CẤP ĐIỆN VÀ SẢN
XUẤT KINH DOANH.
1. Các quan niệm về mạng lưỡi và chất lượng mạng lưới.
Chất lượng là một phạm trù phức tạp biến động theo sự phát triển
của khoa học kỹ thuật, nhận thức và mong muốn của con người. Hiện
có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng, sản phẩm mỗi quan niệm
đó đều có căn cứ khoa học và thực tiễn khác nhau và như vậy chúng có
những đóng góp nhất định vào việc thúc đẩy khoa học quản lý chất
lượng không ngừng phát triển và hoàn thiện.
2. Các loại chất lượng mạng lưới
Qua sự phân tích nghiên cứu, các chuyên gia đã đưa ra 6 loai chất
lượng mạng lưới như sau:
- Chất lượng thiết kế: chất lượng thiết kế là chất lượng thể hiện
những thuộc tính chỉ tiêu của sản phẩm được phác thảo trên cơ sở
nghiên cứu thị trường được định ra để sản xuất, chất lượng thiết kế
được thể hiện trong các bản vẽ, bản thiết kế, trên các yêu cầu cụ thể về
phương diện vật liệu chế tạo,những yêu cầu về gia công, sản xuất chế
tạo, yêu cầu về bảo quản, yêu cầu về thử nghiệm và những yêu cầu
hướng dẫn sử dụng. Chất lượng thiết kế còn gọi là chất lượng chính
sách nhằm đáp ứng đơn thuần về lý thuyết đối với nhu cầu thị trường,
còn thực tế có đạt được điều đó hay không thì nó còn chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
3
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Yêu cầu đặt ra đối với những người đặt ra chất lượng thiết kế phải
rất thận trọng bởi đó là những bước đầu tiên quyết định tới cả quá
trình sản xuất sản phẩm, thậm trí nó còn ảnh hưởng cả tới quá trình
đầu tư công nghệ.
Chất lượng chuẩn là loại chất lượng mà thuộc tính và chỉ tiêu của nó
được phê duyệt trong quá trìng quản lý chất lượng và người quản lý
chính là các cơ quan quản lý về mặt chất lượng sản phẩm mới có
quyền phê chuẩn và sau khi phê chuẩn rồi thì chất lượng này trở thành
pháp lệnh, văn bản pháp quy.
Chất lượng thực tế là mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
sản phẩm và nó được thể hiện sau quá trình sản xuất trong quá trình
sử dụng sản phẩm. Chất lượng là mức độ cho phép về độ lệch giữa chất
lượng chuẩn và chất lượng thực tế của sản phẩm.
Chất lượng cho phép là do các cơ quan quản lý chất lượng sản
phẩm, quan quản lý thị trường, trong hợp đồng quốc tế, hợp đồng
giữa đôi bên quy định.
- Chất lượng tối ưu:
Chất lượng tối ưu của sản phẩm biểu thị khả toàn năng toàn diện
nhu cầu thị trường điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp
nhất.
Chất lượng tối ưu của sản phẩm nói nên mối quan hệ giữa chất lượng
sản phẩm và chi phí.
- Chất lượng toàn phần:
Chất lượng toàn phần là mức chất lượng thể hiện mức tương quan
giữa hiệu quả có ích cho sử dụng sản phẩm có chất lượng cao và tổng
chi phí để sản xuất và sử dụng sản phẩm đó.
3. Một số điều rút ra từ khái niệm :
a.Chất lượng mạng lưới các công trình là tổng hợp kỹ thuật và kinh tế.
Chất lượng là khả năng đáp ứng các yêu cầu. Vì vậy một công trình muốn
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
4
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
đáp ứng được những yêu cầu sử dụng thì phải có những tính chất về chức
năng phù hợp . do đó, không thể tạo ra công trình chất lượng cao bằng
khả năng kỹ thuật non kém. Chỉ có công nghệ cao, thiết bị tiên tiến, công
nhân giỏi, nguyên liệu tốt, mới làm ra công trình có tính năng sử dụng cao,
mới có khả năng đòi hỏi của người sử dụng. Đó là nội dung kỹ thuật của
chất lượng mạng lưới các công trình. Nâng cao chất lượng là cải tiến kỹ
thuật, đổi mới công nghệ. v.v ...
Nhưng chất lượng mạng lưới các công trình không chỉ là vấn đề kỹ
thuật. Nó còn là vấn đề kinh tế. Mặt kinh tế của chất lượng mạng lưới
các công trình thể hiện ở chỗ, sự thoả mãn của người sử dụng các công
trình không phải chỉ bằng những tính chất về chức năng của công
trình, mà còn bằng chi phí người ta phải bỏ ra để có công trình và sử
dụng nó. Sự đòi hỏi của người sử dụng bị các chi phí này giới hạn nặng,
vì vậy mới có sự thoả mãn.
b. Chất lượng sản phẩm chỉ được xác định theo mục đích sử dụng, đối
với điều kiện sử dụng cụ thể. Nghĩa là không có sản phẩm chất lượng cho
mọi người. Sản phẩm chỉ có chất lượng với một đối tượng tiêu dùng, được
sử dụng vào một mục đích, với những điều kiện sử dụng nhất định. Chất
lượng là sự đáp ứng các yêu cầu. Đối tượng sử dụng khác nhau sẽ có các
yêu cầu khác nhau. Yêu cầu của người tiêu dùng là đa dạng. Do vậy muốn
tạo ra sản phẩm có chất lượng phải phân nhỏ thị trường, phân đối tượng
tiêu dùng thành nhiêu loại và làm nhiều loại sản phẩm khác nhau cho từng
đối tượng. Do đó, đa dạng hoá sản phẩm là con đường tất yếu để nâng cao
chất lượng.
c.Chất lượng có tính tương đối. Sự tương đối thể hiện trên cả hai mặt
không gian và thời gian. Một loại hàng hoá có thể có chất lượng ở thị
trường này, nhưng không có chất lượng ở thị trường khác. Ngay tại một
thị trường mỗi loại sản phẩm chỉ có chất lượng với một đối tượng tiêu
dùng.một loại sản phẩm có chất lượng hôm nay, ngày mai có thể không
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
5
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
còn chất lượng nữa. Bởi vì, nhu cầu của người tiêu dùng có thể đã thay đổi
hoạc có những sản phẩm khác phù hợp hơn xuất hiện. Do vậy, muốn duy
trì được chất lượng tất yếu phải đổi mới sản phẩm.
Như vậy,đa dạng hoá và thường xuyên đổi mới sản phẩm là con
đường tất yếu của nâg cao chất lượng.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng mạng lưới các công trình:
Chất lượng mạng lưới các công trình ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố
khác nhau nhưng nói chung người ta chia thành hai nhóm nhân tố ảnh
hưởng chủ yếu đó là nhóm nhân tố bên ngoài và nhóm nhân tố bên
trong.
a. Nhóm nhân tố bên ngoài:
+Nhu cầu thị trường:
Nhu cầu thị trường là xuất phát của quá trình quản lý chất lượng tạo
lực kéo, định hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm, cơ
cấu, tính chất, đặc điểm và xu hướng vận động của nhu cầu tác động
trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Từ đó phải đòi hỏi phải tiến hành
nghiêm túc, thận trọng công tác điều tra nghiên cứu nhu cầu thị
trường, phân tích môi trường kinh tế hã hội, xác định chính xác nhận
thức của khách hàng, thói quen, phong tục tập quán văn hoá, nối sống,
mục đích sử dụng và khả năng thanh toán...
+Trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ:
Tiến bộ khoa học công nghệ có tác dụng như lực đẩy nâng cao chất
lượng mạng lưới các công trình thông qua viêc tạo khả năng to lớn
đưa chất lượng công trình không ngừng tăng lên. Tiến bộ khoa học
công nghệ đã tạo ra và đưa vào sản xuất những công nghệ mới có các
chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cao hơn. Khoa học kỹ thuật cho phép chúng ta
tạo ra và tìm ra những nguyên liệu mới, nguyên liệu tôt hơn, rẻ hơn,
nhờ có tiến bộ khoa học kỹ thuật mà ta có thể mà ta có thể tạo ra các
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
6
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản lý tiên tiến góp phần nâng
cao chất lượng,giảm chi phí.
+Cơ chế quản lý:
Khả năng cải tiến nâng cao chất lượng mạng lưới các công trình của
doanh nghiệp phụ thuộc chặt chẽ vào cơ chế quản lý của mỗi nước bởi
lẽ:
Cơ chế quản lý của nhà nước có tạo ra được tính độc lập tự chủ, sáng
tạo trong mỗi doanh nghiệp hay không?
Cơ chế quẩn lý của nhà nước có tạo ra và hình thành lên một môi
trường thuân lợi cho các doanh nghiệp huy động công nghệ mới, tiếp
thu ứng dụng những phương pháp quản lý chất lượng hiện đại hay
không?
Cơ chế quản lý tạo ra sự cạnh tranh, xoá bỏ sức ỳ tấm lý ỷ lại
không nhừng phát huy sáng kiến cải thiện hoàn thiện chất lượng các
công trình.
b. Nhóm nhân tố bên trong:
Các nhân tố bên trong có ảnh hưởng tới chất lượng mạng lưới các
công trình bao gồm các nhân tố sau:
Lực lượng lao động trong doanh nghiệp:
Đây là những nhân tố có ảnh hưởng quyết định tới chất lượng mạng
lưới các công trình. Nó bao gồm trình độ chuyên môn tay nghề kinh
nghiệm, ý thức, trách nhiệm tính kỷ luật tinh thần hiệp tác phối hợp
khả năng thích ứng với sự thay đổi của ngoaị cảnh, khả năng thu nhập
và xử lý thông tin của mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực
tiếp tới chất lượng mạng lưới các công trình.
Khả năng về công nghệ máy móc thiết bị của mỗi doanh nghiệp.
Công nghệ là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ tới chất
lượng sản phẩm trong mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào trình độ hiện
đại cơ cấu, tính đồng bộ, tình hình bảo dưỡng, duy trì khả năng làm
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
7
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
việc của máy móc thiết bị công nghệ, đặc biệt là những doanh nghiệp tự
động hoá cao, dây truyền có tính chất sản xuất linh hoạt.
Vật tư nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu
của doanh nghiệp.
Chủng loại cơ cấu tính đồng bộ chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng
trực tiếp tới chất lượng sản phẩm bởi lẽ vật tư nguyên liệu phải có chất
lượng cao, và việc cung ứng nguyên liệu cũng phải đảm bảo cung cấp
đầy đủ đồng bộ, kịp thời và đúng yêu cầu về chủng lọi và chất lượng
nguyên vật liệu.
Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất doanh nghiệp.
Trình độ quản lý nói chung và trình độ quản lý chất lượng nói riêng là
một trong những nhân tố cơ bản góp phần đẩy mạnh tốc độ cải tiến
hoàn thiện chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
Theo đánh giá của các chuyên gia về quản lý chất lượng sản phẩm
thì trong thực tế có tới 80% những vấn đề chất lượng là do quản lý gây
ra. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu bộ máy quản
lý, khả năng xác định mục tiêu chính sách, chất lượng và chủ đạo tổ
chức thực hiện chương trình kế hoạch chất lượng.
5. Ý nghĩa của việc nâng cao chất lượng mạng lưới công trình .
Việc nâng cao chất lượng mạng lưới sản phẩm có ý nghĩa to lớn đối
với cả người sản xuất và người tiêu dùng.
+Đối với người sản xuất:
Trong nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam bây giờ và nền kinh tế thị trường đang phát triển trên thế giới thì
bất cứ một loại sản phẩm nào cũng có thể được sản xuất và cung cấp
bởi nhiều nhà sản xuất khác nhau, nó tạo ra sự canh tranh mạnh mẽ
giữa các nhà sản xuất. Trong cạnh tranh họ có thể dùng nhiều yếu tố
sản phẩm của mình để làm vũ khí cạnh tranh, mà trong vũ khí cạnh
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
8
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
tranh hiệu quả nhất thường được sử dụng nhất là giá cả và chất lượng
sản phẩm. Xã hội càng phát triển đời sống xã hội càng nâng cao thì yếu
tố chất lượng sản phẩm có xu hướng quyết định hơn yếu tố giá cả trong
cạnh tranh. Do vậy mà việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ giúp cho
doanh nhiệp có khả năngcạnh tranh cao hơn trên thị trường.
Nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ atọ uy tín, danh tiếng, cơ hội tồn
tại và phát triển lâu dài cho doanh nghiệp.
Việc nâng cao chất lượng sản phẩm tạo cơ hội cho doanh nghiệp hội
nhập buôn bán làm ăn với các nước, giữ uy tín quốc gia.
Nâng cao chất lượng tức là cùng một khối lượng nguyên liệu chúng
có thể sản xuất ra một giá trị sủ dụng cao hơn, do đó mà doanh nghiệp
có thể tiết kiệm được sức người sức của.
+Đối với người tiêu dùng:
việc nâng cao chất lượng sản phẩm là ngày càng thoả mãn nhu cầu cao
về tiêu dùng, nhu cầu về số lượng, chủng loại, phẩm chất của sản
phẩm.
Người tiêu dùng có thể tiết kiệm được sức người sức của thông qua
việc tiêu dùng, sử dụng có chất lượng cao.
Tạo dựng được lòng tin, độ tin cậy của người tiêu dùng đối với sản
phẩm hàng hoá, giải quyết được vấn đề an toàn trong quá trình sử
dụng, tiêu dùng sản phẩm.
Ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm còn làm tăng khả năng
cạnh tranh về kinh tế của đất nước, góp phần làm khẳng định sản
phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới và trong khu vực.
Như vậy việc nâng cao chất lượng sản phẩm là một biện pháp hữu hiệu
kết hợp các loại lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng, xã hội và
người lao động.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
9
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
II. QUẢN LÝ MẠNG LƯỚI.
1. Thực chất của quản lý chất lượng mạng lưới.
Các quan niệm về quản lý mạng lưới được phát triển và hoàn thiện
liên tục thể hiện ngày càng đầy đủ hơn về bản chất tổng hợp, phức tạp
của vấn đề chất lượng phản ánh sự thích ứng với điều kiện và môi
trường kinh doanh mới.
Vào những năm đầu của thế kỷ này chỉ có khái niệm là kiểm tra chất
lượng sản phẩm và được thực hiện ở quá trình sản xuất. Cho đến
những năm 50 thì bắt đầu xuất hiện khái niệm quản lý chất lượng
mạng lưới lúc này nội dung và phạm vi quản lý, chức năng quản lý
mạng lưới được mở rộng hơn nhưng nó tập trung chủ yếu vào giai
đoạn sản xuất sản phẩm.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa kinh tế, chính trị của
chất lượng hàng hoá, nhất là hàng hoá xuất nhập khẩu, nhà nước ta đã
sớm quan tâm đến quản lý mạng lưới các công trình. Từ những năm
đầu của thập niên 60, nhà nước đã ban hành những văn bản tạo cơ sở
pháp lý cho công tác quản lý chất lượng hàng hoá và tổ chức các cơ
quan quản lý và các cơ quan nghiên cứu về lĩnh vực này.
Hiện có nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý chất lượng mạng
lưới, dưới đây là một số định nghĩa :
Trong các tiêu chuẩn công nghiệp Nhật có định nghĩa về quản lý
chất luộng như sau “ Hệ thống các phương pháp sản xuất tạo điều kiện
sản xuất tiết kiệm sản xuất những hàng hoá có chất lượng thoả mãn
yêu cầu của người tiêu dùng . Quản lý chất lượng hiện đại dựa trên
việc sử dụng những phương pháp thống kê và thường được gọi là kiểm
tra thống kê chất lượng “.
Quản lý mạng lưới là hệ thống các hoạt động, các biện pháp và
quy định hành chính, kinh tế, kỹ thuật, tổ chức ... dựa trên những
thành tựu về khoa học kỹ thuật nhằm sử dụng tối ưu các chức năng
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
10
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
trong doanh nghiệp để đảm bảo duy trì và không ngừng nâng cao chất
lượng ( thiết kế, sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng ) nhằm thoả mãn yêu
cầu của xã hội với chi phí thấp nhất .
Như vậy so với các quan niệm về quản lý chất lượng mạng lưới
trước đay thì quan niệm về quản lý chất lượng mạng lưới hiện nay có
những khác biệt cần chú ý:
Về tính chất : Quản lý chất lượng hiện nay coi chất lượng là vấn
đề kinh doanh ( tổng hợp kinh tế - kỹ thuật, xã hội ) là bộ phận không
thể tách rời trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chứ
chất lượng không đơn thuần là vấ đề công nghệ như xưa .
Phạm vi quản lý : Ta thấy phạm vi quản lý chất lượng hiện nay
rất rộng, liên quan tới tất cả các khâu, các quá trình hoạt động tạo ra
sản phẩm.
Cấp quản lý: Quản lý chất lượng hiện nay được thể hiện ở mọi
cấp, ở các công ty, phân xưởng, phòng, ban và người lao động với quản
lý chất lượng chứ không còn bó hẹp thực hiện ở cấp phân xưởng trong
khâu sản xuất trước đây.
Mục tiêu: Mục tiêu quản lý chất lượng hiện nay là kết hợp giữa
mục tiêu dài hạn và mục tiêu ngắn hạn nhầm thoả mãn nhu cầu của
khách hàng ở mức cao nhất chứ không chỉ dừng lại ở mục tiêu ngắn
hạn như trước đây là đạt mức lợi nhuận cao nhất.
Sản phẩm: Với quản lý chất lượng hiện nay, sản phẩm được biểu
hiện là tất cả đầu ra của mọi quá trình, không kể đó là quá trình sản
xuất, hay quá trình quản lý và như vậy ngay cả những chứng từ, báo
cáo, hợp đồng, đơn đặt hàng,... đều là sản phẩm và được quản lý về
chất lượng để sản phẩm ở công đoạn cuối cùng đạt chất lượng cao. Và
các sản phẩm được quản lý chất lượng là tất cả ( sản phẩm thực hiện
bên trong và bên ngoài) chứ không chỉ dừng lại ở việc quản lý chất
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
11
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
lượng sản phẩm với những sản phẩm cuối cùng bán ra ngoài xí nghiệp
như trước.
Khách hàng: Với quản lý chất lượng mới hiện nay thì khách
hàng được hiểu là những người có liên quan trực tiếp đến sử dụng sản
phẩm của xí nghiệp kể cả khách hàng bên trong và khách hàng bên
ngoài chứ không chỉ là những khách hàng bên ngoài.
Chức năng: Chức năng của quản lý chất lượng hiện nay bao gồm
hoạch đọnh chất lượng, kiểm soát chất lượng, cải tiến và hoàn thiện
chất lượng chứ không chỉ có một chức năng kiểm tra, kiểm soát chất
lượng sản phẩm như trước kia.
Đánh giá chất lượng: Trong quản lý chất lượng mạng lưới hiện
nay, muốn đánh giá mức mạng lưới thì dùng nhiều chỉ tiêu căn cứ khác
nhau, chú trọng nhất là sự phản ứng của khách hàng, chứ không chỉ
căn cứ vào những chỉ tiêu thiết kế như xưa.
2. Nội dung cơ bản của quản lý chất lượng mạng lưới.
a. Hoạch định chất lượng:
Hoạch định chất lượng là hoạt động xác định mục tiêu và phương
tiện nguồn lực và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu chất lượng sản
phẩm.
Hoạch định chất lượng cho phép:
định hướng phát triển chung cho toàn xí nghiệp theo một hướng
thống nhất. Khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực
dài hạn nhằm góp phần giảm chi phí cho chất lượng.
Tạo điều kiện thuận lợi cho xí nghiệp mở rộng thị trường nâng cao
sự cạnh tranh đặc biệt là thị trường thế giới ...
Nội dung chủ yếu của hoạch định xây dựng bao gồm:
- Xác định mục tiêu chất lượng tổng quát và chính xác chất lượng.
- Xác định khách hàng.
- Xác định nhu cầu và đặc điểm nhu cầu của khách hàng.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
12
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Phát triển các đặc điểm sản phẩm thoả mãn nhu cầu khách hàng.
- Từ đó phát triển các quá trình có khả năng tạo ra những đặc điểm
của sản phẩm.
- Chuyển giao các kết quả của hoạch định cho bộ phận tác nghiệp.
Khi hoạch định chất lượng thì doanh nghiệp cần phải trả lời
những câu hỏi sau:
Thứ nhất: ai là khách hàng và họ đang mong đợi cái gì khi mua
sản phẩm?
Thứ hai: Liệu những cái mà xí nghiệp đưa ra có đúng với cái mà
khách hàng đang mong đợi hay không? Và nó còn tiếp tục là cái họ
mong đợi nữa hay không?
Thứ ba: họ phải trả bao cho sản phẩm?
Thư tư: họ cần mua bao nhiêu và bao giờ có?
b. Kiểm soát chất lượng:
Kiểm soát chất lượng là quá trình điều khiển các hoạt động tác
nghiệp thông qua những kỹ thuật, phương tiện, phương pháp và hoạt
động nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm theo đúng những yêu cầu đã
đặt ra.
Nhiệm vụ chủ yếu của kiểm soát chất lượng là:
Tổ chức các hoạt động nhằm tạo ra các sản phẩm có chất lượng như
yêu cầu.
Đánh giá việc thực hiện chất lượng trong thực tế của doanh nghiệp
so sánh chất lượng thực tế với kế hoạch để phát hiện ra những sai lệch.
Tiến hành những hoạt động cần thiết nhằm khắc phục những sai lệch
để đảm bảo thực hiện đúng những yêu cầu.
c. Cải tiến và hoàn thiên chất lượng.
Cải tiến và hoàn thiện chất lượng là những hoạt động nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm hơn trước để làm giảm khoảng cách giữa mức
mong muốn của khách hàng với mức chất lượng thực tế của sản phẩm
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
13
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
và từ đó đưa khả năng thoả mãn nhu cầu của sản phẩm lên mức cao
nhất.
Cải tiến và hoàn thiện chất lượng đựơc thực thực hiện theo các hướng
sau:
Tiến hành phát triển, đa dạng hoá các sản phẩm của xí nghiệp nhằm
đáp ứng một cách đa dạng các loại nhu cầu của thị trường về sản
phẩm.
Tiến hành thay đổi các quá trình nhằm áp dụng các các quá trình công
nghệ mới nhằm cải thiện và nâng cao các chỉ tiêu chất lượng, các
khuyết tật để thực hiện được các công việc trên thì ta phải tiến hành
các nội dung:
Cần thiết lập cơ sở hạ tầng cần thiết để đảm bảo hoàn thiện chất lượng
sản phẩm.
Xác định những nhu cầu đặc trưng về hoàn thiện chất lượng, từ đó đề
ra các dự án hoàn thiện. Thành lập những tổ công tác có đầy đủ khả
năng để thực hiện thành công dự án cải thiện chất lượng đã đề ra.
Tiến hành cung cấp nguồn lực cần thiết (tài chính,kỹ thuật lao động)
cùng với việc động viên khuyến khích quá trình thực hiện dự án hoàn
thiện chất lượng.
Tất cả các hoạt động này đều có liên quan chặt chẽ với nhau, được thực
hiện kế tiếp nhau nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
3. Các yêu cầu cơ bản của quản lý chất lượng mạng lưới:
Chất lượng phải thực sự trở thành mục tiêu hàng đầu có vai trò
trung tâm trong hoạt động của các doanh nghiệp.
Luôn có sự quyết tâm, nhất quán trong phương hướng chiến
lược và phương châm hành động trong ban giám đốc, hành động vì
mục tiêu chất lượng.
Hiểu biết đầy đủ chính xác nhu cầu hiện tại và phương hướng
hoạt động của nhu cầu trong tương lai.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
14
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Theo dõi nắm bắt kịp thời những diễn biến nhu cầu thị hiếu thị
trường để có những phương hướng và biện pháp kịp thời.
Đánh giá được những nhận thức của khách hàng về chất lượng
sản phẩm mà doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh đã đạt được để
từ đó có các chiến lược cạnh tranh thích hợp.
Khi có các vấn đề nảy sinh thì cần có sự tập trung xem xét về bản
thân hệ thống và quá trình, phát hiện ra các nguyên nhân và tìm cách
giải quyết các nguyên nhân đó.
Phải xoá bỏ mọi sự ngăn cách tạo điều kiện tốt nhất cho sự phù
hợp các phòng ban, bộ phận nhằm hoàn thiện chất lượng của toàn hệ
thống.
Khuyến khích tạo điều kiện hoàn thành các tổ chức quản trị chất
lượng (câu lạc bộ chất lượng,nhom chất lượng...) tiến hành đào tạo và
trang bị những kiến thức và phương tiện đo lường đánh giá chất lượng
cho công nhân. Động viên nâng cao lòng tự trọng, tự hào về chất lượng
công việc của mình thực hiện.
Cần thiết tạo mối quan hệ mật thiết và lâu dài với nhà cung cấp.
Cần xác định phát hiện các vấn đề quan trọng nhất, tập trung ưu
tiên nhất cho các vấn đề đó.
Quản lý chất lượng mạng lưới phải thực hiện bằng hành động,
văn bản hoá các hoạt động liên quan đến chất lượng.
III. TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG MẠNG LƯỚI CÁC CÔNG
TRÌNH XÂY LẮP ĐIỆN LÀ MỘT BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ VÀ TĂNG CƯỜNG SỨC CẠNH TRANH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆPXÂY LẮP HIỆN NAY.
1. Tình hình phát triển của ngành xây lắp và vai trò của nó trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
a. Tình hình phát triển hiện nay của ngành xây lắp điện.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
15
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Trong những năm gần đây công việc xây lắp điện của nước ta đã
phát triển một cách nhanh chóng,có thể nói cả nước là một đại công
trường ở đâu cũng có xây lắp điện, ở đâu cũng có những công trình
mới mọc lên.
Cùng với công cuộc tăng cường xây lắp đó thì ngành xây lắp điện
cũng không ngừng phát triển đi lên. Có thể nói đây là thời kỳ sôi động
nhất từ trước đến nay của ngành xây lắp điện Việt Nam và nó vẫn tiếp
tục sôi động trong thời gian tiếp theo với chiến lược “ khẩn trương tạo
nền tảng kỹ thuật cho sự phát triển của những năm đầu thế kỷ XXI và
xây dựng hạ tầng vững chắc cho chủ nghĩa xã hội của Việt Nam”.
Sự sôi động và phát triển của ngành xây lắp điện hiện nay có thể được
phản ánh thông qua các chỉ tiêu sau:
- Chỉ tiêu tăng trưởng: trong năm 2001 toàn ngành xây dựng đã
đạt mức tăng trưởng là 155% (so với 100% kế hoạch đặt ra). Trong đó
ngành công nghiệp vật liệu đạt mức tăng trưởng là 117,1 % toàn ngành
nộp ngân sách nhà nước đạt mức 110% tăng 10 % so với kế hoạch.
Trong năm 2001 toàn ngành đã đạt 5 triệu m
2
diện tích xây dựng
và tạo nhà ở, trong đó thành phố Hồ Chí Minh là 1.7 triệu m
2
, thủ đô
Hà nội là 0.7 triệu m
2
còn lại là các tỉnh khác.
Về quy hoạch, kiến trúc.
Các đô thị, nông thôn trong cả nước đã từng bước xây dựng và
phát triển theo quy hoạch, khắp các địa phương từ Bắc vào Nam bộ
mặt kiến trúc đang khởi sắc và thay da đổi thịt từng ngày nhiều khu
công nghiệp khu dan cư mới được hình thành, phát triển trên quy
hoạch tổng thể và chi tiết do ngành xây dựng thiết kế và quản lý, cụ thể
đã xét duyệt quy hoạch xây dựng đô thị 40 quy hoạch chung trong đó
có 30 quy hoạch được duyệt chỉ trong năm 1999, hình thành 6 khu chế
xuất, 10 khu công nghiệp tâp chung tại 8 địa phương với diện tích là
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
16
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
3800 ha. Theo kế hoạch từ năm 2001 ÷ 2005 Hà Nội sẽ xây dựng thêm 3
÷ 3.5 triệu m
2
nhà. Cụ thể như các khu chung cư : Trung Yên, làng
Quốc Tế Thăng Long, Trung Hoà, Nhân Chính, Định Công, Linh Đàm,
Đại Kim ... đang được hoàn chỉnh. Hà Nội đã có 14 khu đô thị mới
được xây dựng sẽ khởi công vào đầu năm 2002 và hoàn thành vào năm
2005, trong đó 7 khu đô thị mới đang chuẩn bị đầu tư gồm: Mễ Trì Hạ,
Mễ Đình 1,Mễ Đình 2,Nam Đường, Trần Duy Hưng, Thành phố giao
lưu, Thạch cầu,Thạch Bàn và Tây Nam ... Quãng 50 dự án khu đô thị
mới trên tổng diện tích gần 2000 ha và đặc biệt ngành thể dục thể thao
đầu tư xây dựng sân vận động quốc gia ...
Về lĩnh vực vật liệu xây dựng.
Ngành đã có sự chuyển hướng sản xuất và tiêu thụ vật liệu xây dựng
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Nhờ sự đổi mới về cơ chế và dựa vào chiến lược phát triển vật
liệu xây dựng đến năm 2003 do bộ xây dựng chủ trì soạn thảo, trong
năm qua, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, đã có sự đổi mới đầu
tư công nghệ góp phần làm tăng trưởng đáng kể trên nhiều mặt:
Chủng loại mặt hàng, chất lượng mặt hàng, ngành hàng, doanh số và
hiệu quả sản xuất kinh doanh ... Nhịp độ tăng trưởng về sản lượng các
loại vật liệu xây dựng trong 5 năm qua đều đạt mức trên 2 lần so với
giai đoạn (1986-1999) với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm
20%.
Trong lĩnh vực xây lắp, các tổ chức xây lắp quốc doanh thuộc các
bộ, các ngành, các địa phương đã có những chuyển đổi, đổi mới với
phương thức hoạt động, một mặt nhằm hoà nhập với xây dựng có
nhiều thành phần, cùng nhau tham gia, mặt khác tăng khả năng cạnh
tranh với các tổ chức xây lắp quốc tế. Nhiều doanh nghiệp đã tiến
hành sắp xếp lại tổ chức, đổi mới thiết bị công nghệ, đào tạo lại cán bộ
quản lý và nâng cao tay nghề cho công nhân để đáp ứng yêu cầu mọi
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
17
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
mặt của thị trường về chất lượng, mỹ thuật công trình. Tính đến hết
ngày 30/12/2001, tổng số các doanh nghiệp xây dựng có 1.542, trong đó
thuộc Trung ương 516, địa phương 1026 doanh nghiệp. Riêng lĩnh vực
xây lắp có 770 doanh nghiệp (309 thuộc Trung ương, 416 thuộc địa
phương). Nhiều doanh nghiệp xây lắp của Trung Ương và địa phương
có trang thiết bị kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, công nhân viên có trình độ
cao, đủ năng lực xây dựng các công trình có yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật
đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế.
Theo số liệu của tổng cục thống kê giá trị sản lượng thực hiện của
các đơn vị xây lắp của các doanh nghiệp trong năm 2001 đạt 40.000 tỷ
đồng.
Về lĩnh vực phát triển đô thị và quản lý đô thị, nông thôn:
Ngành xây dựng đã chủ động tạo ra nhiều đổi mới, đáp ứng yêu
cầu trên cả hai mặt. Những yêu cầu cấp bách trước mắt và phát triển
dài hạn thông qua việc xây dựng hàng loạt các văn bản pháp quy nhằm
từng bước đưa công tác quản lý đô thị vào trật tự kỷ cương, nề nếp và
hoạt động thực tế góp phần thay đổi bộ mặt kiến trúc đô thị, nông
thôn. Các công ty thuộc ngành xây dựng như: xây dựng và phát triển
đô thị, nhà ở khu công nghiệp, cấp thoát nước, chiếu sáng, vệ sinh môi
trường đô thị và nông thôn... Trong một khoảng thời gian chưa dài
nhưng đã dần dần tiếp cận với quỹ đạo của cơ chế quản lý đô thị đã có
những chuyển biến căn bản góp phần làm cho các độ thị trong cả nước
ngày càng sạch đẹp hơn, văn minh, lịch sự hơn, cơ sở kỹ thuật hạ tầng
được cải thiện một bước rõ rệt.
Quan hệ kinh tế đối ngoại.
Quan hệ kinh tế đối ngoại của ngànhđược mở rộng, đa dạng,
phong phú hơn, nhiều liên doanh ra đời trong hầu hết các lĩnh vực
thuộc chức năng quản lý của ngành như: Quy hoạch, thiết kế, sản xuất
vật liệu xây dựng, xây lắp bảo tồn, tôn tạo lại các di tích lịch sử, văn
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
18
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
hoá, khu phố cổ phát triển đô thị và nông thôn, cấp thoát nước, khoa
học kỹ thuật, đào tạo ... đã mang lại kết quả bước đầu đáng khích lệ và
ngành xây dựng càng chứng tỏ sự đúng đắn của chính sách mở theo
đường nối đổi mới của đảng và nhà nước ta đã lựa chon. Trong năm
1999-2001 toàn ngành có 67 dự án liên doanh với nước ngoài với tổng
số vốn đầu tư là 3 triệu USD.
b. Vai trò của ngành xây dựng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
đất nước.
- Xây dựng cơ bản có thể coi là 1 ngành sản xuất vật chất, ngành
duy nhất tạo ra cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ cho sản xuất, đời sống y
tế, quốc phòng, giáo dục và các công trình dân dụng khác.
- Trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước,
hoạt động xây dựng cơ bản góp phần to lớn vào việc tạo ra cơ sở hạ tầng
cho các ngành khác. Cơ sở hạ tầng của các ngành đầy đủ nó phản ánh
trình độ phát triển và hiện đại của ngành đó. Mặt khác xây dựng còn là
ngành tạo ra khả năng xoá bỏ khoảng cách khác biệt giữa thành thị và
nông thôn, nâng cao trình độ văn hoá và đời sống dân cư, cải tạo bộ mặt
đất nước.
- Hoạt động xây dựng cơ bản được thực hiện ở các giai đoạn
khác nhau (như thiết kế, thi công ... ), ứng với các giai đoạn này là các bbộ
phận, các đơn vị. Các bộ phận, các đơn vị đó cũng được xem là các đơn vị
sản xuất trực tiếp như các doanh nghiệp khác và nó cũng tạo ra sự tích luỹ
cho nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức nộp ngân sách ( thuế các
loại ...)
- Theo điều 1- điều lệ xây dựng cơ bản số 232/cp ngày
6/6/1981 công tác quản lý xây dựng cơ bản phải thực hiện đúng đường lối
xây dựng và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước
nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực (vốn, tài nguyên, lao động,
đất đai ...) đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái để xây dựng thành công
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
19
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
cơ sở vật chất kỹ thuật của Chủ nghĩa xã hội. Chủ trương đầu tư và kế
hoạch đầu tư xây dựng cơ bản phải đảm bảo nhịp độ phát triển nền kinh tế
một cách cân đối nhịp nhàng, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý trong từng
giai đoạn, nâng cao hiệu quả kinh tế -xã hội, góp phần tăng sản phẩm xã
hội, tăng thu nhập quốc dân và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.
2. Đặc điểm của ngành xây dựng cơ bản và yêu cầu về chất lượng sản
phẩm xây dựng.
a. Đặc điểm của ngành xây dựng.
Hoạt động của ngành xây dựng là những hoạt động nhằm tạo ra
những tài sản cố định (đó là những trương trình sử dụng lâu dài trong
toàn bộ nền kinh tế quốc dân) thông qua các hình thức như: xây dựng
mới, cải tạo mở rộng, sửa chữa lớn khôi phục. Thông thường một
chương trình xây dựng cơ bản từ lúc bắt đầu thiết kế, chuẩn bị và bước
vào xây dựng cho đến khi hoàn tất bàn giao và bảo hành trong sử dụng
chương trình đòi hỏi phải thực hiện rất nhiều giai đoạn và công việc
khác nhau. Nhưng để thực hiện một cách có hiệu quả cao thì đòi hỏi
các công việc đó phải được sắp xếp theo trình tự hợp lý và khoa học.
Theo điều lệ quản lý xây dựng cơ bản, trình độ xây dựng một công
trình được chia ra làm 3 giai đoạn chính sau:
- Giai đoạn chuẩn bị đầu tư;
- Giai đoạn chuẩn bị xây dựng ;
- Giai đoạn thi công xây lắp công trình;
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư: Đây là giai đoạn triển khai những ý đồ
đầu tư, tiến hành thu thập những tài liệu về kinh tế, kỹ thuật ... có liên
quan đến thành lập những dự án đầu tư, thiết lập luận chứng kinh tế
kỹ thuật và tiến hành kiểm tra, phê chuẩn các dự án và các luận chứng
đó.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
20
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Giai đoạn chuẩn bị đầu tư kết thúc khi dự án hoặc luận chứng được
phê chuẩn và được ghi vào kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản cho các
kỳ tương ứng.
Giai đoạn chuẩn bị xây dựng : là giai đoạn kể từ khi luận chứng
hoặc dự án được phê chuẩn và được ghi vào kế hoạch đầu tư đến khi
thực hiện được những công việc chủ yếu đủ đảm bảo tiến hành khởi
công xây dựng công trình.
Giai đoạn xây lắp công trình: là giai đoạn tiến hành thi công trên
hiện trường để tạo ra những kiến trúc và kết cấu công trình treo thiết
kế và tiến hành lắp đặt các thiết bị công nghệ (nếu có) vào công trình.
Giai đoạn này kết thúc khi công trình đã hoàn thiện và tiến hành bàn
giao công trình.
Đặc điểm về sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản.
- Sản phẩm của ngành xây dựng cơ bản là những công trình hình
thành cố định và mang tính ổn định gắn với một không gian và một địa
điểm nhất định.
- Sản phẩm xây dựng rất đa dạng về hình thức, mẫu mã, cấu trúc phức
tạp, có những phần nằm sâu dưới lòng đất, có phần thì vươn cao trên
không trung.
- Sản phẩm của xây dựng thường có quy mô và kích thức rất lớn, chu
kỳ sản xuất thường dài gây khó khăn cho việc sử dụng vốn kinh doanh.
- Vốn đầu tư để sản xuất sản phẩm thì lớn, rủi ro nhiều, phải xuất vốn
thành nhiều đợt khác nhau, thời gian thu hồi chậm.
- Trong quá trình tạo ra sản phẩm thì chịu tác động mạnh của các yếu
tố về điều kiện tự nhiên.
- Sản phẩm xây dựng được xem là sản phẩm tổng hợp, thể hiện đầy đủ
các ý nghĩa về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, văn hoá, phong
tục tập quán.... của một dân tộc, một thời kỳ lịch sử.
Đặc điểm sản xuất của ngành xây dựng.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
21
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Từ đặc điểm sản xuất của ngành xây dựng đã được nêu trên, mà
hoạt động sản xuất của ngành xây dựng cũng mang một số đặc trưng
sau đây.
+ Loại hình sản xuất trong xây dựng là sản xuất đơn chiếc, tuy
nhiên tiêu chuẩn sản xuất sản phẩm không ổn định, cũng không lặp đi
lặp lại theo chu kỳ nhất định.
+ Các yếu tố của quá trình sản xuất trong ngành xây dựng thường đa
dạng phức tạp, cồng kềnh, mà lại không ổn định, thường xuyên phải di
động, chính vì vậy mà nó gây khó khăn cho việc ổn định sản xuất gây tốn
ổn định trong đời sống, sinh hoạt và các nhu cầu khác của con người. Do
kém chi phí và thời gian cho việc di chuyển lực lượng sản xuất, gây ra sự
mất ổn định trong đời sống sinh hoạt và cc nhu cầu khác của con người. Do
đó mà việc quản lý sử dụng lao động cũng gặp nhiều khó khăn từ khâu
tuyển chọn đến sử dụng, đào tạo bồi dưỡng. Việc quản lý sử dụng công cụ
lao động nguyên vật liệu cũng khó đạt được hiệu quả cao.
+ Do sản phẩm xây dựng có quy mô lớn, cấu tạo phức tạp, do đó
mà trong sản xuất cũng có sự hợp tác phức tạp của các ngành các bộ
phận tham gia chế tạo lên sản phẩm cuối cùng. Do đó trong quá trình
quản lý làm sao điều hoà, phối hợp các khâu, các bộ phận.
+ Do sản phẩm của các ngành xây dựng nằm ngoài trời nó phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như địa lý, tự nhiên do đó mà sản xuất cũng
nhịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố đó.
+ Sản phẩm xây dựng có quy mô lớn, thời gian thi công lâu dài, vốn
đầu tư thường rất lớn. Trong quá trình còn đang thi công xây dựng thì
toàn bộ vốn đầu tư vào công trònh chưa có khả năng sinh lời cho nền
kinh tế quốc dân, đây chính là giai đoạn ứ đọng vốn, do đó mà với các
công trình có quy mô tương đương nhau, nhưng trong những thời gian
và không gian khác nhau mà lợi nhuận cũng thu được khác nhau.
b. Các yêu cầu chất lượng sản phẩm xây dựng.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
22
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
Sản phẩm của ngành xây dựng là những sản phẩm đặc biệt, nó chẳng
những được tiêu dùng trong sản xuất (các công trình công nghiệp, cơ
sở hạ tầng ...) mà nó còn là những sản phẩm thiết yếu phục vụ cho tiêu
dùng của các thành viên trong xã hội ( nhà ở, các công trình văn hoá xã
hội, công trình công cộng...).
Với những đặc điểm khác với sản phẩm thông thường khác nên các sản
phẩm của ngành xây dựng có một yêu cầu về đặc thù chất lượng sản
phẩm. Những yêu cầu về chất lượng sản phẩm của ngành xây dựng
được thể hiện ở các chi tiết chất lượng dưới đây:
- Chỉ tiêu bảo đảm an toàn.
Bất cứ một người nào khi mua là tiêu dùng một sản phẩm nào đó thì
họ cũng luôn mong muốn sao cho sản phẩm đó thoả mãn nhu cầu của
họ ở mức cao nhất với một chi phí thấp nhất, và như vậy chỉ tiêu đảm
bảo an toàn của sản phẩm sẽ cho phép họ đạt được mong muốn ở mức
nào. Mặt khác đối với những sản phẩm của ngành xây dựng có thể là
các công trình xây dựng, do đặc điểm của những sản phẩm này là phức
tạp, lượng vốn đầu tư lớn, thời gian đầu tư lâu dài, thời gian thu hồi
vốn lâu, giá thành sản phẩm cao, do đó đối với người tiêu dùng những
loại sản phẩm này thì họ luôn luôn đạt chỉ tiêu đảm bảo chất lượng
hàng đầu.
- Chỉ tiêu đảm bảo phải được hiểu theo những nội dung sau:
An toàn trong thi công xây lắp:
Trong quá trìng thi công xây lắp cần đảm bảo thi công trong điều
kiện bình thường, không có bất cớ sự đe doạ nào về tình trạng và tài
sản trong quá trình sản xuất.
An toàn trong quá trình sử dụng.
Các công trình xây dựng cơ bản là loại sản phẩm phục vụ tiêu
dùng trong khoảng thời gian tương đối dài. Mức độ tối thiểu về thời
gian sử dụng cũng từ 20 ÷ 30 năm đối với các công trình nhà ở và 15
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
23
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
năm đối với các công trình công nghiệp. Trong suất quá trình tồn tại
của sản phẩm thì nó luôn phải chịu tác động huỷ hoại của môi trường
tự nhiên: mưa, nắng, bão, lạnh ... với điều kiện khí hậu nhiết đới gió
mùa như nước ta, đặc điểm của nắng lắm mưa nhiều, độ ẩm cao thì
mức độ huỷ hoại của môi trường tự nhiên tương đối lớn, do đó mà mức
độ xuống cấp của các công trình xẩy ra rất nhanh chóng, đòi hỏi phải
bỏ ra chi phí để bảo dưỡng duy trì.
Như vậy để bảo an toàn trong quá trình sử dụng thì nhiệm vụ của công
tác thiết kế và xây lắp luôn phải tìm tòi áp dụng những thành tựu khoa
học kỹ thuật về kinh tế, cấu trúc cũng như áp dụng mọi vật liệu mới,
vật liệu thay thế, để không ngừng tăng cường khả năng chống lại sự
huỷ hoại của môi trường. Ngoài ra trong quá trình thiết kế, thi công
cũng cần phải chú ý tính đến khả năng xảy ra sự cố như động đất, bão
gió, lụt lội, hoả hoạn ... và có những phương hướng và biện pháp hận
chế, khắc phục.
Bảo đảm vệ sinh môi trường sống cho sức khoẻ con người. Như ta đã
biết, công trình xây dựng là nơi bảo vệ con người, che chắn con người,
bảo vệ tài sản của họ làm sao cho con người và tài sản khỏi chịu sự tác
động trực tiếp hay gián tiếp của các hiện tượng tự nhiên, môi trường
xung quanh. Chính vì vậy mà các sản phẩm xây dựng phải làm sao tạo
cho được môi trường trong sạch lành mạnh, có lợi cho sự phát triển
của cơ thể con người và bảo đảm bảo vệ được tài sản riêng đối với công
trình kiến trúc trong đó con người sinh sống thì phải đảm bảo làm sao
cho công trình đó luôn thoáng mát về mùa hè, ấm áp về mùa đông và ít
phải dùng các biện pháp nhân tạo, luôn đảm bảo độ sáng hợp lý cho
sinh hoạt đời sống.
Nói tóm lại: với sản phẩm của ngành xây dựng thì cần thiết phải đảm
bảo an toàn theo các khía cạnh và cuối cùng là phải đảm bảo sao cho
khi sử dụng, người tiêu dung hoàn toàn có cảm giác tuyệt đối yên tâm.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
24
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
- Chỉ tiêu độ tiện dụng phù hợp với khả năng thanh toán của người tiêu
dùng.
Trong quá trình thiết kế thi công, để đạt được mức độ tiện dụng
cao thì yêu cầu đối với các nhà xây dựng phải căn cứ và dựa vào các
mục đích sử dụng khác nhau.
Đối với các công trình nhà ở thì yêu cầu về độ tiện dụng là phải tiên
dụng trong sinh hoạt tạo cho con người có được cảm giác “ muốn gì có
đấy”.
Đối với các công trình phục vụ sản xuất thì độ tiện dụng của nó thể
hiện ở chỗ là sự bố trí các bộ phận của công trình sao cho phù hợp với
quy trình công nghệ, có thể giảm bớt những lãng phí về thời gian, đi
lại, vận chuyển ...
Đối với các công trình phục vụ nghỉ ngơi giải trí thì độ tiện dụng của nó
thể hiện ở chỗ làm sao sự bố trí, sắp xếp các bộ phận được hợp lý, khao
học, sao cho toàn bộ công trình có khả năng tạo ra được một môi
trường, không gian nhỏ có thể kích thích việc hồi phục tâm lý cũng như
thể lực tạo cho sự sảng khoái, thoả mãn cho mọi người. Cùng với
những biện pháp kinh tế đẻ đưa lại cảm giác hư thực cho người tiêu
dùng.
Tuy nhiên mọi cái đều có những lý do khác hạn chế chẳng hạn như khả
năng thanh toán của người tiêu dùng, do đó mà không thể đưa những
sản phẩm có mức độ tiện dụng cao mà lại có mức giá quá cao so với
khả năng thanh toán của người tiêu dùng. Chính vì thế mà các nhà
nghiên cứu, thiết kế phải làm sao cân đối giữa mức độ tiện dụng với
mức chi phí phải bỏ ra để tiêu dùng sản phẩm đó làm sao cho ngày
càng tăng mức độ tiện dụng của các sản phẩm mà luôn phù hợp với
khả năng thanh toán của người tiêu dùng.
- Chỉ tiêu thẩm mỹ.
TrÇn H÷u Kh¸nh Líp: Kinh tÕ ph¸t triÓn 47A_QN
25