TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHẤP NGHIÊN CỨU
2.1 Tổng quan tài liệu
2.1.1 Cơ sở lý luận
2.1.1.1 Khái quát chung về DNTM và hoạt động kinh doanh thương mại
• Khái quát chung về DNTM
Khái niệm về DNTM
Doanh nghiệp thương mại ra đời là do sự phân công lao động xã hội và
chuyên môn hoá trong sản xuất. Đó là hình thức tổ chức lao động của những người
chuyên mua và đưa hàng hoá ra thị trường để bán, tìm kiếm lợi nhuận. Những
người đó được gọi là thương nhân. Hình thức tổ chức đó được hợp thành phù hợp
với quy định của pháp luật thì được gọi là doanh nghiệp thương mại.
Ngày nay, hoạt động thương mại nếu hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm tất cả
các hoạt động nhằm mục đích sinh lời. Tuy nhiên, trong phạm vi chương trình, hoạt
động thương mại bao gồm ba nhóm chính là mua bán hàng hoá, dịch vụ thương
mại và xúc tiến thương mại. Trong đó mua bán hàng hoá là hoạt động chủ yếu, dịch
vụ thương mại và xúc tiến thương mại thường là để hỗ trợ cho mua bán hàng hoá.
Vậy doanh nghiệp thương mại là một loại hình doanh nghiệp (phân theo lĩnh
vực ngành nghề kinh doanh) chuyên kinh doanh mua bán hàng hoá và thực hiện
các dịch vụ thương mại.
Trong thực tế một doanh nghiệp thương mại ngoài hoạt động mua bán
hàng hoá còn có các hoạt động khác như cung ứng dịch vụ, hàng hóa hữu hình
nhưng hoạt động thương mại vẫn là chủ yếu.
1
1
DNTM có các đặc điểm của doanh nghiệp nói chung và chịu sự chi phối
điều chỉnh bởi pháp luật. Nó khác với hộ kinh doanh cũng như cá nhân kinh doanh
thương mại trên thị trường ở chỗ nó là một tổ chức độc lập có phân công lao động
rõ ràng, được quản lý bằng một bộ máy chính thức còn hộ hay cá nhân kinh doanh
thì không có tư cách pháp nhân, không thoả mãn định nghĩa của pháp luật về doanh
nghiệp.
• Chức năng, nhiệm vụ của DNTM
Chức năng của DNTM
Với tư cách là một tế bào của nền kinh tế DNTM cũng có chức năng chung
nhất là tạo ra của cải, dịch vụ để cung cấp cho nhu cầu của xã hội mà trong tự nhiên
không có hoặc thiếu hụt. Của cải và dịch vụ mà doanh nghiệp thương mại tạo ra
chính là đưa hàng hoá dịch vụ đến với khách hàng và người tiêu dùng một cách
nhanh chóng và hoàn hảo. Nói cách khác chức năng chính của DNTM là tổ chức
lưu thông hàng hoá thông qua trao đổi mua bán.
Từ chức năng chung này để tổ chức một quá trình kinh doanh có hiệu quả
DNTM phải tổ chức thực hiện các chức năng cụ thể khác nhau đó là:
- Chức năng về chuyên môn kỹ thuật: đó là việc tổ chức lưu thông hàng hoá
và tiếp tục qúa trình sản xuất trong lĩnh vực lưu thông. Cụ thể là tổ chức quá trình
vận động của hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng và thực hiện một số chức
năng mang tính chất sản xuất như chọn lọc, phân loại, chỉnh lý bảo quản hàng hoá
và các dịch vụ bổ xung khác, làm cho hàng hoá có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng của xã hội.
- Chức năng thương mại: chức năng này được thực hiện ở hoạt động mua và
bán các hàng hoá và các dịch vụ bổ sung khác làm cho hàng hoá có thể sẵn sàng
thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
2
2
- Chức năng quản trị: chức năng này được thực hiện thông qua các chức
năng cụ thể hơn là dự báo, lập kế hoạch, tổ chức, điều phối, lãnh đạo và kiểm tra.
Đó là các hoạt động của những nhà quản trị trong doanh nghiệp để đảm bảo mục
tiêu, nhiệm vụ được thực hiện và trở thành hiện thực.
- Chức năng tài chính: đó là việc huy động, phân phối, sử dụng và quản lý
vốn trong quá trình hoạt động kinh doanh và làm tăng giá trị cho doanh nghiệp.
- Các chức năng của DNTM gắn bó với nhau một cách chặt chẽ, nếu một
chức năng nào đó không được thực hiện tốt, bị xuy yếu sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Nhiệm vụ của DNTM
Nhiệm vụ của doanh nghiệp thương mại là số cụ thể hoá các chức năng
thành những mục tiêu phải đạt được, những việc phải làm trong những thời kỳ nhất
định với điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Ba yếu tố chính quy định nhiệm vụ của DNTM là các chức năng của nó, giai
đoạn phát triển của nó và đặc điểm kinh tế xã hội cụ thể.
Các DNTM khác nhau có những nhiệm vụ cụ thể không hoàn toàn giống
nhau. Tuy nhiên, có thể chia ra những nhiệm vụ chung phổ biến là:
- Nghiên cứu nhu cầu thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, tổ chức mặt
hàng kinh doanh.
- Xây dựng cơ sở vật chất để hoạt động kinh doanh.
- Khai thác nguồn hàng.
- Dự trữ bảo quản hàng hoá và tổ chức bán hàng.
- Quản lý các nguồn lực và quá trình hoạt động kinh doanh.
- Tạo công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động.
- Bảo vệ môi trường và tham gia các hoạt động xã hội.
- Thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, đặc biệt là nghĩa vụ thuế.
3
3
• Khái quát chung về hoạt động kinh doanh thương mại
Khái niệm hoạt động kinh doanh thương mại
Thương mại theo nghĩa hẹp là thực hiện chức năng lưu thông hàng hoá, đưa
hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng. Từ đó tại điều 5 luật thương mại năm
1997 của nước ta đưa ra khái niệm: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một
hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân bao gồm việc mua bán hàng hoá,
cung cấp dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích
lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.”
Hoạt động kinh doanh thương mại là hoạt động kinh doanh mua bán hàng
hoá nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận. Là hoạt động không trực tiếp tạo ra của cải vật
chất nhưng nó phục vụ cho quá trình sản xuất và tiếp tục quá trình sản xuất trong
khâu lưu thông.
Vai trò của hoạt động kinh doanh thương mại
Hoạt động thương mại là yếu tố tích cực để phát triển nền kinh tế hàng hoá
thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, phá vỡ nền kinh tế tự cung tự cấp tổ
chức lại sản xuất, hình thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất theo hướng sản
xuất hàng hóa lớn.
Kích thích sự phát triển lực lượng sản xuất, đưa nhanh tiến bộ hoạt động
khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kích thích sản xuất các mặt hàng mới, đổi mới công
nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành
sản phẩm.
Hoạt động thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cân đối
cung cầu hàng hoá trên thị trường.
Trong nền kinh tế tập trung, việc tiêu thụ đầu ra của sản phẩm hàng hoá theo
định hướng của chính phủ chỉ đạo khiến cho các nhà kinh doanh phải tính toán cân
nhắc xem nên sản xuất kinh doanh mặt hàng nào có lợi hơn không tuân theo bản
4
4
chất quy luật kinh tế khách quan như quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…
Ngày nay nền kinh tế thị trường đã đưa chu kỳ kinh tế trở lại hoạt động theo đúng
quy luật khách quan vốn có. Chính vì vậy đã tạo điều kiện quan trọng trong việc
thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá. Việc tiến hành tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là tiền đề
cân đối giữa sản phẩm và tiêu dùng, giữa sản xuất và lưu thông, đảm bảo sự cân đối
giữa các ngành, các lĩnh vực trong toàn bộ nền kình tế. Tiêu thụ ảnh hưởng mạnh
mẽ tới quan hệ cung cầu trên thị trường. Đối với doanh nghiệp thương mại thực
hiện tốt khâu tiêu thụ hàng hoá là biện pháp tốt thúc đẩy sản xuất phát triển tạo điều
kiện mở rộng quy mô sản xuất các doanh nghiệp thương mại đóng vai trò trung
gian giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhu cầu thị hiếu của thị trường, việc tiêu
thụ hàng hoá còn giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
2.1.1.2 Những vấn đề chung về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
• Hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
Hàng hoá trong DNTM
Hàng hoá là một vật phẩm lao động có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của
con người và đi vào tiêu dùng hoặc sản xuất thông qua trao đổi mua bán trên thị
trường.
Hàng hoá trong các doanh nghiệp thương mại là các hàng hóa cá nhân, các
DNTM mua hàng hoá vào để bán ra thị trường có đầy đủ đặc tính vật lý và hoá học
có thể quan sát được trong một thể thống nhất vừa mang giá trị vừa mang giá trị sử
dụng. Sản phẩm có thể mang ra thị trường trao đổi được.
Hàng hoá là những vật thể có công dụng cụ thể nên nó được biểu thị trên hai
mặt giá trị và số lượng. Số lượng của hàng hoá được xác định bằng đơn vị đo lường
phù hợp với tính chất vật lý hoá học của nó như mét, lít, kg… Qua hàng hoá ta có
thể biết được đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp thương mại. Chất lượng của
5
5
hàng hoá nói lên giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá, được xác định bằng tỷ lệ %
tốt, xấu hoặc giá trị phẩm cấp của hàng hoá.
Hàng hoá có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp
thương mại nói riêng và trong toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Đối với doanh nghiệp thương mại: Việc mua hàng hoá vào và bán hàng hoá
ra giúp cho các doanh nghiệp tồn tại, phát triển và thực hiện được mục tiêu đề ra.
Đối với toàn bộ nền kinh tế khối lượng hàng hoá lưu thông phản ánh mức độ
phát triển của nền kinh tế. Một đất nước phát triển thì hàng hóa phải đa dạng về
mẫu mã phong phú về chủng loại, chất lượng cao và ngược lại.
• Tiêu thụ hàng hoá trong doanh nghiệp
Khái niệm về tiêu thụ hàng hoá trong doanh nghiệp
Tiêu thụ là một khâu quan trọng trong quá trình SXKD, là yếu tố quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Tiêu thụ chính là quá trình chuyển
hoá quyền sở hữu và quyền sử dụng hàng hoá tiền tệ giữa các chủ thể tham gia mua
bán trao đổi hàng hoá trên thị trường.
Trong nền kinh tế trị trường, khi sản xuất đã phát triển thì vấn đề tiêu thụ sản
phẩm hàng hoá rất quan trọng. Vì có tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá thì mới có
vốn để tiến hành tái sản xuất mở rộng, tăng tốc độ luân chuyển vốn nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn. Qua tiêu thụ tính chất hữu ích của sản phẩm hàng hoá được xác
định hoàn toàn. Sản phẩm tiêu thụ được chứng tỏ năng lực kinh doanh của doanh
nghiệp, thể hiện kết quả nghiên cứu thị trường.
Sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp được người tiêu dùng chấp nhận điều
đó cho thấy sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ xét về mặt khối lượng, giá trị sử
dụng, chất lượng giá cả phù hợp với nhu cầu thị hiếu của thị trường.
Sau quá trình tiêu thụ doanh nghiệp không những thu hồi được tổng chi phí
có liên quan đến quá trình sản xuất ra sản phẩm mà tiêu thụ hàng hoá còn thể hiện
6
6
được giá trị lao động thặng dư, đây là nguồn để mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng
cao đời sống của cán bộ công nhân viên.
Để thực hiện được khâu tiêu thụ đòi hỏi đồng thời phải có sự tham gia của
các yếu tố sau:
Một là: các chủ thể kinh doanh bao gồm cả người mua và người bán.
Hai là: đối tượng là sản phẩm hàng hoá và dịch vụ.
Ba là: thị trường tiêu thụ nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán.
Trong doanh nghiệp tiêu thụ hàng hoá là một khâu quan trọng nhất trong quá
trình hoạt động kinh doanh. Đó là quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá, là giai
đoạn đưa hàng hoá từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực tiêu dùng có thể thể hiện
quá trình tiêu thụ hàng hoá của các doanh nghiệp thương mại theo sơ đồ sau:
Thu mua hàng hoá
Tiêu thụ hàng hoá
Giá trị hàng hoá được thực hiện
Sơ đồ 2.1: Quá trình tiêu thụ hàng hoá trong doanh nghiệp thương mại
Tổ chức tốt và có hiệu quả việc tiêu thụ hàng hoá sẽ có tác dụng mạnh mẽ và
quyết định sự thành công của doanh nghiệp, tiêu thụ hàng hoá là khâu trung gian, là
cầu lối giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ hàng hóa sẽ có tác dụng mạnh mẽ
và quyết định sự thành công của doanh nghiệp, tiêu thụ hàng hóa là khâu trung
gian, là cầu lối giữa người người sản xuất và người tiêu dùng.
- Những nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp
7
7
Chất lượng sản phẩm hàng hóa và uy tín trên thị trường như là cốt lõi của
chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng là một
trong những tiêu chí hàng đầu quyết định khối lượng hàng hóa tiêu thụ được và
khẳng định vị thế của sản phẩm trên thị trường. Bởi vậy doanh nghiệp phải thường
xuyên cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm, không ngừng đáp ứng nhu cầu thị
hiếu cảu người tiêu dùng.
Hoạt động thu mua hàng hóa có đảm bảo cung cấp kịp thời cho hoạt động
tiêu thụ về số lượng, chất lượng và thời gian hay không ? Nếu việc cung ứng không
đáp ứng được theo kế hoạch sẽ không những làm ảnh hưởng đến kết quả tiêu thụ
sản phẩm hàng hóa mà còn ảnh hưởng đến uy tín của doanh đối với khách hàng.
Giá bán sản phẩm hàng hóa cũng là nhân tố ảnh hưởng chính đến số lượng
sản phẩm hàng hóa tiêu thụ. Giá bán sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp trên thị
trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vị trí của sản phẩm hàng hóa trên thị trường
đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống và quan hệ cung cầu trên thị trường. Song
đòi hỏi các nhà quản lý phải hết sức linh hoạt và năng động.
Kết cấu sản phẩm hàng hóa đưa ra tiêu thụ là tỷ trọng về mặt hàng chiếm
trong tổng giá trị hàng hóa đưa ra thị trường. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, các
doanh nghiệp thường đưa ra thị trường nhiều loại sản phẩm hàng hóa khác nhau để
đáp ứng các cung bậc nhu cầu cao thấp khác nhau.
Tổ chức quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa bao gồm các yếu tố: tăng
cường quản cáo, điều tra nhu cầu thị trường, thăm dò và phát triển thị trường, thay
đổi mẫu mã, tăng cường khuyến mại, phương thức thanh toán, phương thức bán
hàng thay đổi cho phù hợp.
- Các nhân tố khách quan
Sản phẩm hàng hóa tiêu thụ được tức là đã đáp ứng được yêu cầu khách
hàng. Nếu một sự thay đổi về sở thích hay nhu cầu khách hàng sẽ ảnh hưởng đến
8
8
lượng tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trên thị trường. Khách hàng tác động đến quá
trình tiêu thụ hàng hóa dưới góc độ:
Nhu cầu tự nhiên hay mong muốn
Mức thu nhập
Phong tục tập quán, thói quen của ngưởi tiêu dùng.
• Hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính là hoạt động mà bất kỳ doanh nghiệp nào dù sản xuất hay
kinh doanh đều phải có. Nó liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng, bán hàng
trả chậm, hoạt động đầu tư trái phiếu, tín phiếu, các khoản triết khấu thanh toán khi
mua và bán hàng hay các hoạt động có liên quan đến thanh lý và thu hồi vôn góp
liên doanh đầu tư vào công ty liên kết, các khoản chênh lệch ngoại tệ, chuyển
nhượng tài chính và các hoạt động tài chính khác.
• Hoạt động khác
Bên cạnh hoạt động tài chính là sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính,
doanh nghiệp còn tồn tại một số hoạt động không dự tính trước được gọi chung là
hoạt động khác. Hoạt động khác trong doanh nghiệp bao gồm các hoạt động liên
quan đến thanh lý nhượng bán TSCĐ, các khoản chênh lệch do đánh giá lại vật tư
hàng hóa, hàng hóa, TSCĐ, các hoạt động bán hoặc cho thuê tài sản, các khoản bồi
thường vi phạm hợp đồng hay các khoản nêu trên mà doanh nghiệp không lường
trước được .
Như vậy hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm hoạt động
tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, hoạt động tài chính và hoạt động khác. Kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp là tổng hợp kết quả các hoạt động trên.
2.1.1.3 Cơ sở lý luận về đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh
• Khái niệm về hoạt động kinh doanh
9
9
Kinh doanh theo nghĩa rộng được hiểu là một thuật ngữ chung chỉ tất cả các
hoạt động sản xuất ra hàng hóa hay dịch vụ đáp ứng được nhu cầu xã hội.
Theo luật định, hoạt động kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Hoạt động kinh doanh theo đúng nghĩa là hoạt động kiếm lời, hoạt động sinh
lời của các doanh nhân. Đó là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hộ cá
thể, trang trại, các loại hình công ty… Do đó, người làm kinh doanh đòi hỏi phải
biết cân nhắc và lựa chonj phương án tối ưu sao cho chi phí thấp nhất mà mang lại
hiệu quả cao nhất.
Như vậy hoạt động kinh doanh bao gồm các hoạt động đầu tư, hoạt động sản
xuất, hoạt động thương mại và các hoạt động cung cấp dịch vụ.
• Khái niệm về kết quả kinh doanh
Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là kết quả tổng hợp một quá
trình từ khi mua hàng đến khi hàng hóa được người tiêu dùng chấp nhận (đối với
doanh nghiệp thương mại) hoặc thu mua nguyên vật liệu (đầu vào) đến quá trình
sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (đối với doanh nghiệp sản xuất). Đó là kết quả tài
chính cuối cùng của doanh nghiệp.
Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là tổng kết quả các khâu mua hàng, gia
công chế biến, đóng gói và tiêu thụ. Do đó KQKD chịu tác động của rất nhiều yếu
tố như giá bán, giá vốn, chi phí bán hàng, chi phí quản lý, kết cấu mặt hàng tiêu
thụ.Ngoài ra doanh nghiệp còn các hoạt động khác như các hoạt động tài chính và
nhiều hoạt động khác nữa. Bởi vậy kết quả hoạt động kinh doanh là sự thể hiện
tổng hợp mợi hoạt động của doanh nghiệp và thường được xác định theo từng kỳ
nhất định. Kết quả kinh doanh có thể là kết quả ban đầu hoặc kết quả cuối cùng nên
khi đánh giá phải xem xét qua từng thời kỳ kinh doanh, KQKD trong từng giai
10
10