Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Magiê và vai trò phòng chống bệnh tật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.9 KB, 5 trang )

Magiê và vai trò phòng chống bệnh tật

Gần đây, nhiều người có xu hướng bổ sung magnesium (magiê) bằng thuốc
hay các thực phẩm chức năng. Tuy nhiên, tác dụng của magiê như thế nào và việc
bổ sung ra sao là điều cần lưu ý.

Những thực phẩm giàu magiê.
Vai trò của magiê trong cơ thể
Các nhà khoa học Mỹ, Hà Lan đều có nhận xét chung là ăn đầy đủ calci và
magnesium thì giảm nguy cơ tăng áp lực động mạch. Gần đây, một công trình
nghiên cứu của Thụy Điển cho biết: Người dùng nước uống có chứa đầy đủ
magnesium có nguy cơ nhồi máu cơ tim giảm 35%, nguy cơ tử vong do nhồi máu
cơ tim giảm 20% so với người uống nước không có magiê.
Magnesium giúp điều hoà các hoạt động thần kinh và hệ cơ. Thiếu nó sẽ bị
đau đầu, co cứng cơ, rối loạn các hoạt động cơ. Vì lý do này từ rất lâu người ta đã
dùng magnesium chữa chứng đau đầu, an thần, chống các stress. Gần đây, một
nghiên cứu của các nhà khoa học Đức cho hay dùng magnesium (với liều
600mg/ngày) làm giảm hẳn tần suất bệnh đau nửa đầu. Tương tự, cũng từ rất lâu
người ta dùng magnesium (dưới dạng sulfat) chống tiền sản giật, từ đó ngăn ngừa
đẻ non, giảm tỷ lệ tử vong trong sinh đẻ. Ngày nay, magnesium còn được dùng
chống đau bụng kinh, điều hoà kinh nguyệt, chống táo bón.
Sự có mặt của magnesium cần thiết cho sự biến dưỡng của calci, phospho,
natri, kali (và một số vitamin nhóm B). Vì lẽ này mà magnesium giúp cho hệ
xương, răng khoẻ mạnh và ngăn không cho calci lắng đọng thành sỏi thận, sỏi mật,
gai cột sống. Magnesium góp phần quan trong việc chuyển hoá glucid, lipid thành
năng lượng. Do đó giúp chống mệt mỏi, suy nhược.
Dùng magiê như thế nào?
Cuộc sống ngày càng sung túc và lao động cật lực, người ta nạp vào cơ thể
nhiều thức ăn giàu năng lượng lipid, protid, glucid nên càng cần nhiều hơn
magnesium trong vai trò là chất biến dưỡng. Việc dùng nhiều rượu bia làm giảm
vai trò này, đẩy magnesium ra khỏi cơ thể sớm làm tăng thêm sự thiếu hụt nó. Nhu


cầu magnesium mỗi ngày của nam là 300mg, của nữ là 350mg.
Sự rối loạn điện giải do mất cân bằng magiê (magnesium), kali, natri,
calci tác động xấu đến hoạt động tim mạch, gây nên các bệnh tăng huyết áp, loạn
nhịp tim, nhồi máu cơ tim. Thông qua việc điều chỉnh lại rối loạn điện giải mà
chữa các bệnh trên là một liệu pháp có thể áp dụng chung cho mọi người bệnh.
Magnesium tham gia vào các chuyển hoá protid, lipid, glucid, điều tiết các chức
năng hoạt động của cơ tim, đảm bảo cho cơ tim co bóp bình thường. Magnesium
đối kháng với calci làm giãn mạch máu. Do làm giãn mạch trong đó có động mạch
vành mà magnesium được dùng trong bệnh đau thắt ngực, một hậu quả của xơ vữa
động mạch với biến cố cuối cùng là nhồi máu cơ tim, đột qụy.
Những đối tượng sau đây được khuyến cáo bổ sung: người nghiện rượu bia;
người hoạt động cần nhiều năng lượng (vận động viên, làm việc chân tay nặng);
người đang dùng viên ngừa thai chứa estrogen; người bị bệnh đái tháo đường týp
II, tăng huyết áp; người lớn tuổi (trong đó có người mãn kinh) bị bệnh tim mạch.
Những người có bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, tim mạch khi dùng thức ăn
giàu magnesium hay thuốc chứa magnesium cần tham khảo ý kiến thầy thuốc.
Khi dùng magnesium cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Calci, phospho làm giảm hấp thu magnesium tại ruột non vì thế không
được dùng kết hợp. Khi vừa thiếu calci vừa thiếu magnesium (chẳng hạn như
người mãn kinh) thì phải bù magnesium trước, bù calci sau.
- Magnesium và vitamin B6 cùng tham gia vào các enzym chuyển hoá nên
thường phối hợp với nhau. Khi dùng các sản phẩm phối hợp này cần lưu ý không
dùng đồng thời với thuốc chữa Parkinson levodopa vì vitamin B6 ức chế thuốc
này.
- Magnesium và kali đều có tác dụng trên tim và thường được phối hợp với
nhau. Khi dùng sản phẩm phối hợp này cần có ý kiến thầy thuốc, tuân thủ liều
lượng vì quá liều, hai thành phần của thuốc đều gây nguy hiểm.
Trong thời gian dùng magnesium, nếu cần thiết phải dùng tetracylin thì
phải dùng cách xa hai thuốc này trong khoảng thời gian ít nhất là 3 giờ để tránh
các tương tác bất lợi.

Người già dùng nhiều magnesium sẽ làm tăng magnesium máu, nếu không
điều trị tích cực sẽ gây buồn nôn, nôn ói thậm chí dẫn đến tử vong. FDA cảnh báo
rằng: Do không có các bệnh án đầy đủ về việc người già dùng các loại thuốc chứa
nhiều magnesium (như thuốc kháng acid, thuốc ngủ, thuốc giảm đau...), nên các
chuyên gia y tế ít nghĩ đến ngộ độc magnesium ở người già. Để tránh sự ngộ độc
này, các chuyên gia y tế cần khuyên người già cần cẩn thận khi dùng các thuốc
chứa nhiều magnesium, đảm bảo cho việc dùng thuốc khỏi vượt quá mức cần
thiết.
Magnesium trong thức ăn thực vật cao hơn động vật, trong lương thực và
đậu cao hơn rau, trong rau lá xanh đậm cao hơn rau lá nhạt màu. Tính trong 100g
thức ăn thì lượng magnesium (tính bằng mg) lần lượt là: nhân quả bàng: 600; hạt
vừng đen: 347; lạc nhân: 306; đậu nành: 279; hạt vừng trắng: 220; đậu xanh: 200;
đậu trắng: 145; rau ngót: 129; gạo lức: 112; rau dền cơm: 105. Thay đổi các loại
thức ăn một cách khôn ngoan sẽ có đủ lượng magnesium cần thiết: một đĩa rau xà
lách (lá nhạt) chỉ cho 4mg nhưng nếu thay bằng rau diếp (lá xanh đậm) thì có 8mg.
Chỉ ăn một vốc nhỏ hạt điều có 50-80mg trong khi để có được số magnesium
tương đương cần ăn 80g gạo lức. Ngay cả người thiếu magnesium thì nếu ăn đủ
thức ăn cũng đảm bảo ít nhất 50% nhu cầu và chỉ cần bổ sung bằng thuốc 50%
nhu cầu còn lại.

×