Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do hội họp ở Việt Nam hiện nay: Luận văn ThS. Luật: 603801

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.42 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC QUÝ

HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN Tù DO HéI HäP
ë VIÖT NAM HIÖN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN NGỌC QUÝ

HOµN THIÖN PH¸P LUËT VÒ QUYÒN Tù DO HéI HäP
ë VIÖT NAM HIÖN NAY
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp - Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐĂNG MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Ngọc Quý


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO HỘI HỌP .................. 7
1.1. Khái quát về quyền tự do hội họp ...................................................... 7
1.2. Pháp luật về quyền tự do hội họp trên thế giới ................................ 22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC THI QUYỀN....... 47
TỰ DO HỘI HỌP Ở VIỆT NAM ................................................................ 47
2.1. Khung pháp luật hiện hành về quyền tự do hội họp ........................ 47
2.2. Thực trạng thực thi quyền tự do hội họp ......................................... 61
2.3. Xây dựng các dự thảo Luật về quyền tự do hội họp ........................ 69
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

QUYỀN TỰ DO HỘI HỌP .......................................................................... 82
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do hội họp ................ 82
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự do hội họp .................. 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 92


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

GRTTCC

Gây rối trật tự công cộng

ICCPR

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966

ILO

Tổ chức lao động quốc tế

TAND

Tòa án nhân dân

UDHR


Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948


MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hội họp được xem là một sự thể hiện công khai ý chí của cá nhân có
thể là sự ủng hộ hoặc phản kháng đối với một chủ trương, chính sách, sự kiện
hay một quyết định nào đó. Chủ trương, chính sách, sự kiện, quyết định đó
không chỉ là của nội bộ quốc gia mà còn có thể là của quốc gia khác. Đã có
nhiều văn kiện quốc tế công nhận Quyền hội họp là một quyền cơ bản của con
người; tại nhiều quốc gia trên thế giới cũng đã có những quy định về quyền
Hội họp hòa bình của công dân trên phương diện là một quyền cơ bản của con
người; ở Việt Nam, Quyền hội họp hòa bình được quy định tại Điều 25 Hiến
pháp 2013: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định”. Trước đó, quyền biểu tình cũng được quy định tại Điều 25
Hiến pháp năm 1959; Điều 67 Hiến pháp năm 1980; Điều 69 Hiến pháp năm
1992. Tuy đã có nhưng quy định về quyền biểu tình ngay từ những bản Hiến
pháp đầu tiên đến bây giờ nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa xây dựng
được một bộ luật trực tiếp để bảo vệ quyền Biểu tình của con người tại Việt
Nam. Hiện nay, chỉ có một số điều khoản nhỏ tại một số Nghị định
38/2005/NĐ-CP ngày 18/3/2005 của Chính phủ quy định về một số biện pháp
bảo đảm trật tự công cộng để giải tán các cuộc “tập trung đông người ở nơi
công cộng”, Thông tư 09/2005/TT-BCA để hướng dẫn thi hành một số điều
của Nghị định 38/2005/NĐ-CP. Tuy nhiên, các quy định này không điều
chỉnh trực tiếp quyền Hội họp của con người và các quy định này cũng chỉ
đơn thuần hướng đến giới hạn Quyền mà chưa có các quy định để bảo vệ
quyền Hội hợp hòa bình. Do không có những quy định rõ ràng về quyền Hội
họp nên vẫn còn nhiều khó khăn trong việc thực hiện quyền Hội họp của


1


người dân. Hiện nay, để đưa quyền hội họp hòa bình được quy định trong
hiến pháp ra với đời sống thực tiễn, Quốc hội đã lên chương trình xây dựng
các luật chuyên ngành để quy định cụ thể hơn các quy phạm chứa đựng trong
Quyền Hội họp hòa bình. Cụ thể như: “Luật về Hội – Đã có dự thảo trình
Quốc Hội”, “Luật Biểu tình – Đang xây dựng dự thảo”.
Trên thực tế, Quyền hội họp đã được người dân nước ta tiếp thu và thực
hiện quyền một ngay từ thời kỳ kháng chiến chống Pháp cũng như kháng
chiến chống Mỹ. Ngay như, cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945 cũng có thể
xem như một cuộc Hội họp hòa bình đòi quyền độc lập của dân tộc của người
dân Việt Nam. Hiện nay, ở nước ta để thể hiện thái độ trước các chính sách
của nhà nước hay các vấn đề của đất nước cũng như quốc tế như: Các cuộc
mít tinh phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ với Iraq năm 2004; Các cuộc tuần
hành của người dân tại Hà Nội yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền trên
Biển của Việt Nam sau sự kiện Trung Quốc đưa trái phép dàn khoan HD 981
vào vùng biển Việt Nam; Hay gần đây có một số cuộc tuần hành phản đối
việc Trung quốc cải tạo trái phép các đảo chiếm được tại quần đảo Trường Sa
của Việt Nam… Tuy nhiên, vì chưa có những quy định rõ ràng về quyền hội
họp của người dân nên một số hình thức hội họp hòa bình thường bị hạn chế.
Trong tình hình hiện nay khi nhận thức cũng như tiếng nói của người dân
ngày càng có ý nghĩa quan trọng, thì việc tôn trọng và thúc đẩy thực thi quyền
hội họp hòa bình ở Việt Nam là cần thiết và cấp bách.
Do tình hình lý luận cũng như thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, nên
quyền Hội họp của người dân còn bị hạn chế; trước tình hình đó nhằm góp
phần nâng cao nhận thức về đảm bảo quyền biểu tình ở Việt Nam thì việc
nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do hội họp ở Việt Nam
hiện nay” là hết sức cần thiết.


2


2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian gần đây nên chỉ có một số ít công trình nghiên cứu
khoa học pháp lý đề cập tới đề tài này như:
- PGS.TS. Vũ Công Giao, "Hội và tự do hiệp hội ở Việt Nam: Lịch sử
phát triển và một số vấn đề đặt ra hiện nay", "Bảo đảm quyền tự do lập hội
theo Hiến pháp 2013 – lý luận và thực tiễn" do PGS.TS. Vũ Công Giao chủ
biên, tr. 11-29.
- Nhóm tác giả Lã Khánh Tùng, Nghiêm Hoa và Vũ Công Giao; "Hội
và tự do hiệp hội - một cách tiếp cận dựa trên quyền", Nhà xuất bản Hồng
Đức xuất bản năm 2015.
- GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, "Mối quan hệ giữa xã hội dân sự và hội và
dự thảo Luật hội ở Việt Nam", "Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp
2013 – lý luận và thực tiễn" do PGS.TS. Vũ Công Giao chủ biên, tr. 30-42.
- ThS.NCS. Nguyễn Anh Đức, "Luật về Hội: Công cụ giới hạn hay
quản lí thực hiện quyền?", "Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp
2013 – lý luận và thực tiễn" do PGS.TS. Vũ Công Giao chủ biên, tr. 104-112
- PGS.TS. Đặng Minh Tuấn – ThS.NCS. Nguyễn Anh Đức, "Quyền tự
do hiệp hội trong công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị 1966 và
sự tương thích trong dự thảo Luật về Hội", "Bảo đảm quyền tự do lập hội
theo Hiến pháp 2013 – lý luận và thực tiễn" do PGS.TS. Vũ Công Giao chủ
biên, tr. 122-135.
- ThS.Lê Thị Thúy Hương – PGS.TS.Vũ Công Giao, "Tự do hiệp hội
trong luật quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và kinh nghiệm cho Việt
Nam.", "Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 – lý luận và thực
tiễn" do PGS.TS. Vũ Công Giao chủ biên, tr.135.157.
- PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh, "Mối quan hệ giữa nhà nước và hiệp

hội ở Cộng hòa Pháp và gợi mở cho việc hoàn thiện dự thảo Luật về Hội ở

3


Việt Nam", "Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 – lý luận và
thực tiễn" do PGS.TS. Vũ Công Giao chủ biên, tr.264-288.
- ThS.NCS. Nguyễn Minh Tâm, "Pháp luật về quyền tự do lập hội ở
Trung Quốc", "Bảo đảm quyền tự do lập hội theo Hiến pháp 2013 – lý luận
và thực tiễn" do PGS.TS. Vũ Công Giao chủ biên, tr.302-311.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi sâu phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận, phân tích thực
trạng Pháp luật cũng như thực thi Quyền tự do hội họp ở Việt Nam trong
góc nhìn tương quan với thế giới. Chỉ ra được những ưu điểm và nhược
điểm của pháp luật cũng như việc thực thi Quyền tự do hội hợp ở Việt Nam
với tiêu chuẩn quốc tế và một số quốc gia tiêu biểu. Lý giải được những ưu
điểm, nhược điểm đó dựa trên tiêu chí về bối cảnh chính trị, lịch sử, kinh tế,
xã hội, quan điểm lập pháp…để có thể đánh giá vấn đề một các khách quan
nhất. Qua đó đưa ra một số biện pháp nhắm hoàn thiện Pháp luật về Quyền
tự do hội họp để từ đó thúc đẩy việc thực thi Quyền tự doi hội họp Một cách
hợp lý, toàn diện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Quyền tự do hội họp được nghiên cứu trong luận văn này bao gồm
quyền hội họp và quyền biểu tình. Cách tiếp cận này phù hợp với pháp luật
quốc tế và các quốc gia trên thế giới.
Về nội dung, với mục tiêu đã nêu trên, trọng tâm của luận văn này sẽ là
những phân tích về vấn đề quyền tự do hội họp ở Việt Nam để đưa ra những
biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do hội họp ở Việt
Nam. Cụ thể, luận văn sẽ góp phần trả lời các câu hỏi sau:

- Quyền tự do hội họp là gì?
- Mối quan hệ của quyền tự do hội họp với các quyền khác?

4


- Pháp luật về quyền tự do hội họp trên thế giới.
- Thực trạng pháp luật về quyền tự do hội họp ở Việt Nam
- Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự do hội họp
Về phạm vi, để phục vụ cho việc phân tích từ tổng quát đến cụ thể nên
phạm vi nghiên cứu không chỉ là pháp luật Việt Nam. Luận văn có sự nghiên
cứu tới pháp luật quốc tế, và một số quốc gia khác như liên bang Nga, Hoa
Kỳ, Pháp.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà
nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Luận văn này là kết quả của một nghiên cứu định tính, được thực hiện
trên cơ sở phân tích các văn bản pháp luật quốc gia, các văn bản pháp luật
quốc tế và những văn bản liên quan khác. Luận văn đã sử dụng các phương
pháp phân tích, phương pháp thống kê, so sánh. Qua đó nhìn nhận, đánh giá
một cách có hệ thống và sâu sắc về những cái được và chưa được về pháp luật
về tự do hội họp.
Do giới hạn về thời gian và nguồn lực của dự án, việc khảo sát thực tế
và phỏng vấn các đối tượng liên quan không có điều kiện thực hiện. Điều đó
có nghĩa là có thể cần có thêm những công trình khác sử dụng phương pháp
phỏng vấn chuyên gia và điều tra xã hội học để bổ sung, làm rõ hơn hoặc xác
thực một số nhận định, đánh giá được nêu ra trong luận văn này.
5. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn xây dựng cơ sở lý luận về quyền Tự do hội họp ở Việt

Nam hiện nay. Xây dựng hệ thống các định nghĩa liên quan đến quyền Tự
do hội họp.
Đưa ra bức tranh tổng thể về quá trình phát triển, thực trạng pháp

5


luật về quyền Tự do hội họp ở Việt Nam hiện nay, đề xuất một số biện
pháp khả thi để nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền Tự do hội
họp ở Việt Nam hiện nay.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn gồm ba chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận về quyền tự do hội họp.
- Chương 2. Thực trạng pháp luật và thực thi quyền tự do hội họp ở
Việt Nam.
- Chương 3. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự do
hội họp.
Với kiến thức lý luận còn hạn chế, thời gian nghiên cứu không dài nên
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chúng tôi kính mong sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô. Xin chân thành cảm ơn.

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TỰ DO HỘI HỌP
1.1. Khái quát về quyền tự do hội họp
1.1.1. Khái niệm quyền tự do hội họp
Hội họp là một vấn đề phức tạp. Hiện nay, trên thế giới chưa có một

định nghĩa về hội họp thật sự thống nhất. Các nước khác nhau có những quan
điểm khác nhau về hội họp. Luật pháp của nhiều quốc gia thừa nhận quyền
hội họp nhưng hầu hết lại không định nghĩa rõ ràng thế nào là hội họp.
Hội họp được hiểu là việc nhiều người tập hợp lại, tại nơi công cộng
hoặc cơ sở tư nhân, trong nhà hoặc ngoài trời, nhằm thực hiện một mục
đích chung nhất định. Theo nghĩa phổ thông, “hội họp” là việc “họp nhau
lại để bàn công việc chung” [21]. Có một số từ gần gũi với hội họp là “họp
hành”, “hội nghị” (cuộc họp được tổ chức với quy mô lớn, có nhiều người
tham dự, để bàn bạc hoặc giải quyết một công việc có tính chất chung nào
đó), “hội thảo” (họp rộng rãi để thảo luận, bày tỏ, trao đổi ý kiến về một
vấn đề chung [21])… Hội họp có thể vì mục đích riêng tư, gia đình (như
đám cưới, sinh nhật, đám giỗ…), hoặc vì mục đích công (cầu nguyện, hội
thảo, tập huấn, sự kiện…).
Như vậy, hội họp hiểu theo một nghĩa chung nhất đó là việc một cá
nhân hay một nhóm người tập hợp lại để bàn về một vấn đề chung nhất định.
Luật nhân quyền quốc tế chỉ bảo vệ những cuộc hội họp nào mang tính
ôn hòa, nghĩa là những cuộc hội họp phi bạo lực, và khi nào các thành viên
tham dự có mục đích ôn hòa – đây là nguyên tắc giả định. Theo Tòa Nhân
quyền Châu Âu, “một cá nhân không phải ngừng thụ hưởng quyền hội họp ôn
hòa như là hệ quả của bạo lực rải rác, hay các hành vi khác do các cá nhân
khác gây ra có thể trừng phạt được trong quá trình biểu tình, nếu cá nhân ấy
vẫn ôn hòa trong mục đích hoặc ứng xử của anh ta hoặc cô ta” [33].
7


Hội họp hòa bình hay hội họp ôn hòa là việc mọi người tụ họp lại bàn
bạc, thảo luận một vấn đề chung nào đó mà không nhằm mục đích gây bao
loạn hay gây rối, mất trật tự công cộng, an ninh khu vực.
Hiện nay, trên thế giới có tồn tại một hình thức hội họp nữa đó là hội
họp bạo lực. Hội họp bạo lực là hình thức tập hợp mọi người có cùng mục

đích với nhau, nhưng mục đích này là bạo loạn, là gây rối, áp đảo. Thậm
chí còn có sử dụng bạo lực với những vũ khí nguy hiểm mà pháp luật
không cho phép.
Theo Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người và Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị có cho rằng: Tự do hội họp là quyền cơ
bản của con người, được công nhận và được bảo vệ nhằm thúc đẩy các quyền
con người khác cũng như thúc đẩy sự phát triển của các quốc gia.
Hiện nay, Việt Nam có ghi nhận tự do hội họp trong các bản Hiến pháp
nhưng vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào hay sự giải thích từ ngữ nào
định nghĩa thế nào là tự do hội họp. Theo quan điểm của các nhà luật gia, các
nhà ngôn ngữ học thì họ hiểu tự do hội họp thông qua việc bóc tách các cụm
từ “tự do” “hội” “họp”.
“Tự do” theo Từ điển Tiếng Việt thì đây là phạm trù triết học chỉ khả
năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn của mình trên cơ sở nhận thức được
quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội.
Khái niệm “Hội” về mặt ngôn ngữ, thuật từ "hội" dùng để chỉ: i) cuộc
vui tổ chức chung cho đông đảo người tham dự, theo phong tục hoặc nhân dịp
đặc biệt; ii) tổ chức quần chúng rộng rãi của những người cùng chung một
nghề nghiệp hoặc có chung một hoạt động [21].
Khái niệm “Họp”, về mặt ngữ pháp, “họp” là một động từ chỉ sự tụ tập,
ở một nơi để làm việc gì đó, ngoài ra họp còn nghĩa là một danh từ trong cụm
“cuộc họp” để chỉ sự tập trung một nhóm người có cùng mục đích với nhau,

8


ngồi lại thảo luận, giao lưu, đưa ra để ý kiến về một vấn đề nào đó cũng như
thỏa thuận, tự nguyện giao kết thể hiện ý chí của mình về vấn đề chung.
Như vậy có thể hiểu quan điểm của các nhà ngôn ngữ Việt Nam coi tự
do hội họp là việc cá nhân có thể tụ tập người đông đảo ở một nơi làm việc gì

đó theo ý chí của mình mà không bị ai ép buộc hay cấm đoán.
Qua đây, có thể thấy nhìn chung khoa học Việt Nam vẫn còn khá mơ
hồ về khái niệm tự do hội họp. Chưa có một nhận định cụ thể thế nào là tự do
hội họp. Vì thế bản thân tác giả xin đưa ra những nhận định riêng về tự do hội
họp một cách khái quát nhất như sau:
Như vậy, “Quyền Tự do hội họp là quyền mà các chủ thể được tụ họp
lại với nhau để bàn bạc, thảo luận một vấn đề chung nào đó hay thể hiện sự
đồng tình hay phản đối một vấn đề chung. Cá nhân được pháp luật bảo hộ
khi gặp gỡ, trao đổi với nhau mà không bị bất kỳ một thế lực nào cản trở,
xâm hại”. Hiện nay Hiến pháp nước Việt Nam đã và đang bảo về quyền hội
họp là một quyền công dân thiết yếu để bảo vệ công dân, bảo vệ con người
một cách toàn diện.
Như vậy, quyền tự do hội họp là quyền của con người, quyền của công
dân được nhà nước bảo vệ và bảo đảm thực hiện. Nhà nước thông qua các
công cụ của mình tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện tốt nhất quyền
hội họp cũng như quyền biểu tình của mình.
1.1.2. Vị trí, vai trò của tự do hội họp
Tự do hội họp (hay quyền tự do hội họp - freedom of association) là
một quyền cơ bản của con người, được ghi nhận và bảo vệ trong Điều 20
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR, 1948) và được tái
khẳng định trong Điều 22 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
(ICCPR, 1966). Quyền tự do hội họp có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
thúc đẩy các quyền con người khác cũng như đối với sự phát triển của các

9


quốc gia. Mặc dù vậy, tự do hội họp không phải là một quyền tuyệt đối.
Khoản 2 Điều 22 ICCPR xác định, tự do hội họp có thể bị hạn chế bằng pháp
luật nếu như điều đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh

quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khoẻ hoặc đạo đức
của công chúng hay các quyền và tự do của người khác. Là một quyền con
người cơ bản, tự do hiệp hội được ghi nhận trong hiến pháp của hầu hết quốc
gia. Đồng thời, để bảo đảm tự do hội họp, nhiều quốc gia còn ban hành một
đạo luật riêng, tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của luật về hội của các quốc gia
rộng hẹp khác nhau. Chẳng hạn, Luật về Hội của Pháp (1901) và Hungary
(1989) điều chỉnh hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi
nhuận, và cả các tổ chức công đoàn và đảng phái chính trị [16]. Trong khi đó,
luật về hội của một số quốc gia khác lại chỉ điều chỉnh hoạt động của các tổ
chức phi chính phủ, tổ chức phi lợi nhuận, các quỹ, còn các tổ chức công
đoàn và các đảng chính trị được điều chỉnh bằng các luật về đảng phái chính
trị, luật doanh nghiệp, luật công ty,...
Những cuộc họp đóng vai trò rất quan trọng, vì đó là nơi mà bầu không
khí và văn hoá của tổ chức được duy trì, là một trong những cách thức để các
tổ chức nói với đội ngũ nhân viên của mình rằng: “Bạn là một thành viên của
tập thể”. Các cuộc họp còn là nơi để bản thân những thành viên tham gia trao
đồi đưa ra những ý kiến của mình, nêu lên quan điểm, ý tưởng đóng góp cho
tập thể. Những cuộc họp cũng là nơi cái “tôi” được thể hiện tương đối lớn khi
các vấn đề được đưa ra.
Hội họp góp phần phổ biến thông tin, thành tựu mới trong nhiều lĩnh
vực. Góp phần xây dựng mối quan hệ trao đổi giữa các thành phần liên quan
đến hoạt động thư viện thông tin.
Hội họp, hội nghị là một yếu tố quan trọng trong cuộc sống của doanh

10


nghiệp. Đây là phương pháp tốt nhất để lấy được tư tưởng, ý kiến, quan điểm
của nhiều người cùng một lúc. Là cơ hội cho các thành viên thảo luận các vấn
đề chung và cùng tham gia quyết định. Tuy nhiên, các cuộc họp thường làm

tiêu tốn nhiều thời gian và tiền bạc - là hai thứ rất quí đối với chúng ta. Bởi vì
đôi khi các cuộc họp mang tính chất hình thức, “điểm danh”, “lấy số
lượng”,... Do đó, chỉ nên tổ chức cuộc họp khi cần thiết và đảm bảo rằng các
cuộc họp đó phải ngắn gọn và mang lại hiệu quả. Như vậy, thế nào là cuộc
họp? Một cuộc họp gồm những người có liên quan hợp lại để bàn bạc, thảo
luận và giải quyết hay quyết định vấn đề nào đó. Để cuộc họp có kết quả, cần
phải tiến hành một cách nghiêm túc, có ấn định thời gian, địa điểm, thành
phần tham dự và nội dung... (nếu cần thiết, những nội dung chính có thể được
gửi trước cho những người tham dự).
Tự do hội họp còn thể hiện sự quan tâm của pháp luật tới quyền con người.
Cá nhân có quyền tự do hội họp, không ai có quyền được tước bỏ hay
xâm phạm tới quyền tự do hội họp của người khác. Ngoài ra tự do hội họp
còn có vai trò quan trọng đối với Nhà nước. Dựa vào việc hội họp của các cá
nhân, các nhóm biểu hiện ra thì Nhà nước có thể biết được rằng các chính
sách điều chỉnh các quan hệ pháp luật của mình có phù hợp không, pháp luật
đã đi vào thực tiễn chưa, khả năng áp dụng pháp luật đã phù hợp chưa,.. Và từ
đó Nhà nước có thể điều chỉnh pháp luật và các công cụ quản lý khác sao cho
phù hợp. Tự do hội họp cũng như một cái “gương” phản ánh cuộc sống đang
diễn ra như thế nào, xã hội đang vận động ra sao và Nhà nước sẽ có được cái
nhìn thực tế từ chiếc “gương” đó.
1.1.3. Tự do lập hội – Quyền có mối quan hệ mật thiết với quyền Tự
do hội họp.
Dựa vào khái niệm “hội họp” do Đại từ tiếng Việt đưa ra, có thể hiểu
quyền hội họp là quyền được họp mặt với nhau để bàn công việc nói chung.

11


Như vậy sẽ có các cuộc hội họp có tính chất gia đình, giữa thân thuộc, bè bạn,
các buổi sinh hoạt của các hội hợp pháp, tổ chức trong trụ sở của hội, các

cuộc hành lễ thường lệ của các tôn giáo tổ chức trong những nơi thờ cúng, các
cuộc hội họp còn được sử dụng để thảo luận, giải quyết các công việc nội bộ
trong cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hay ở khu vực dân sư. Quyền hội họp
cũng là quyền của công dân được họp mặt để thảo luận, bàn bạc góp ý kiến về
các vấn đề chung của Nhà nước, của xã hội.
Có thể hiểu quyền tự do lập hội là quyền của công dân có thể tự do
tham gia vào các hội, hội liên hiệp, liên hiệp hội, tổng hội, câu lạc bộ…theo
quy định của pháp luật.Quyền tự do lập hội là quyền mà pháp luật trao cho
mỗi cá nhân và được pháp luật bảo vệ, bảo đảm thực hiện.
Như vậy, tự do lập hội là một đặc tính tự nhiên của con người. Những
người theo quan điểm pháp luật tự nhiên cũng coi tự do lập hội là một quyền tự
nhiên của con người, có trước bất kỳ sự chấp thuận nào của nhà nước. Từ góc
độ pháp lý, quyền tự do lập hội từng bước, đặc biệt là từ sau năm 1945, được
pháp luật các quốc gia và luật nhân quyền quốc tế ghi nhận và bảo vệ [16].
Quyền tự do lập hội là quyền của công dân hội họp với nhau để đảm
bảo các quyền học tập trao đổi thông tin, quyền trao đổi thông tin nhằm nâng
cao dân trí, giúp nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ… với
mục đích ích nước lợi nhà.
Quyền tự do lập hội với mục đích để phản đối thì thường trái luật bảo
vệ sự an toàn công cộng, ngay cả ở những nước dân chủ: ở nhiều thành phố,
cảnh sát có quyền giải tán bất cứ đám đông nào (ngay cả những đám đông
những người phản đối chính trị) đe dọa sự an toàn công cộng hoặc những đám
đông mà cảnh sát không kiểm soát được. Đó là ý tưởng nhằm ngăn ngừa bạo
động. Thông thường, luật địa phương yêu cầu các nhà tổ chức phản đối phải
được sự cho phép trước nếu cuộc diễu hành đã được định liệu. Tuy nhiên, đơn

12


xin cho phép đó có thể bị từ chối. Quyền này thường bị các nhà làm luật lạm

dụng nếu các cuộc phản đối nếu nó không phổ biến trong cộng đồng hay ở
chính quyền địa phương. Quá trình cho phép ở một số thành phố tốn rất nhiều
thời gian, việc tổ chức, và ngay cả tiền bạc trước khi có được sự cho phép và
lúc đó thì các giới hạn về vấn đề, thời gian và địa điểm cho phép cũng có thể
được thêm vào.
Quyền tự do lập hội có vai trò đặc biệt quan trọng đối với mỗi cá nhân,
mỗi nhóm, mỗi tổ chức cũng như mỗi quốc gia và toàn thế giới.
Quyền tự do lập hội có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thúc đẩy các
quyền con người khác cũng như đối với sự phát triển của các quốc gia. Quyền
tự do lập hội đảm bảo quyền con người của mỗi cá nhân, đảm bảo sự công
bằng cũng như bình đẳng của xã hội. Mặc dù vậy, tự do lập hội không phải là
một quyền tuyệt đối. Khoản 2 Điều 22 ICCPR xác định, tự do lập hội có thể
bị hạn chế bằng pháp luật nếu như điều đó là cần thiết trong một xã hội dân
chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức
khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác.
Là một quyền con người cơ bản, tự do lập hội được ghi nhận trong hiến pháp
của hầu hết quốc gia. Đồng thời, để bảo đảm tự do lập hội, nhiều quốc gia còn
ban hành một đạo luật riêng quy định về tự do lập hội, tuy nhiên, phạm vi
điều chỉnh của luật về hội của các quốc gia rộng hẹp khác nhau.
Quyền tự do hội họp và quyền tự do lập hội có mối quan hệ khăng khít
và là những quyền không thể tách rời nhau. Mối quan hệ này chặt chẽ đến
mức là trong các văn kiện quốc tế, hai quyền này thường được quy định liền
nhau. Tuy nhiên, cách thức quy định về hai quyền này cũng không giống
nhau. Công ước Châu Âu về quyền con người quy định cả hai quyền tự do
này: “Mọi cá nhân đều có quyền tự do hội họp và tự do lập hội, bao gồm cả
quyền thành lập và gia nhập các nghiệp đoàn để bảo vệ lợi ích của mình”

13



(Điều 11 Công ước châu Âu về quyền con người). Tuy nhiên trong Hiến pháp
Hoa Kỳ, cụ thể là Tu chính án thứ nhất lại chỉ đề cập đến quyền hội họp hòa
bình. Dường như hai quy phạm này có phần nào giới hạn nhau. Nếu như trong
công ước về quyền con người thì mọi hoạt động hội họp đều được cho phép và
được coi là hợp pháp vì đó là quyền thì đến Hiến pháp của Hoa Kỳ đã giới hạn
sự hợp pháp đó bằng việc quy định chỉ có hội họp hòa bình mới được coi là
hợp pháp còn những hình thức hội họp khác thì không. Đây chính là một minh
chứng rất rõ ràng cho luận điểm “tự do hội họp là không tuyệt đối” ở trên.
Tự do lập hội là quyền tự do kết giao, tổ chức bất kỳ các nhóm, tập
hợp, câu lạc bộ, hay các tổ chức mà con người muốn. Đây là một quyền quan
trọng của chế độ dân chủ tự do, nơi công dân có thể thành lập hay gia nhập
bất kỳ đảng chính trị, nhóm có chung sở thích, hay công đoàn nào mà không
bị chính quyền ngăn cản hay giới hạn. Trong những hệ thống pháp luật không
có quyền tự do lập hội thì các đảng hay nhóm chính trị nào đó có thể bị cấm
bằng những hình phạt tàn bạo đối với các thành viên. Các cuộc phản đối của
nhân dân chống lại chính phủ cũng thường bị cấm.
Tự do hội họp và tự do lập hội là những quyền quan trọng giúp thực thi
nhiều quyền dân sự, chính trị, cũng như các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
khác. Hai quyền này là "những thành tố thiết yếu của một xã hội dân chủ" vì
nó cho phép các thành viên "bày tỏ quan điểm chính trị, tham gia vào các mục
tiêu văn học và nghệ thuật và các hoạt động kinh tế, xã hội và văn hóa khác,
tham gia vào việc thờ phụng tôn giáo và các niềm tin khác, hình thành và gia
nhập các tổ chức công đoàn và hợp tác xã, bầu chọn những người lãnh đạo đại
diện cho mình và buộc họ phải chịu trách nhiệm" (Lời nói đầu của Nghị quyết
15/21 của Hội đồng Nhân quyền [30]).
Quyền tự do hội họp và quyền tự do lập hội có mối quan hệ mật thiết
và khăng khít với nhau. Cụ thể:
Tự do lập hội chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở của một số quyền –
14



trong đó có tự do hội họp. Lý do là các cá nhân chỉ có thể liên kết lại với nhau
khi họ có quyền tự do hội họp. Hay nói một cách khác, khi hội họp hòa bình
được thừa nhận thì khả năng lập hội, khả năng tham gia vào hội đoàn mới
thành hiện thực.
Ngược lại, khi các cá nhân liên kết với nhau trong một hiệp hội thì
hội họp hòa bình chính là phương tiện để hiệp hội có thể triển khai các hoạt
động cụ thể.
Về bản chất sâu xa, tự do lập hội cũng là một biểu hiện của tự do hội
họp. Hội họp là việc nhiều người tập trung lại để cùng trao đổi, chia sẻ mối
quan tâm, cùng biểu đạt quan điểm, niềm tin,... Hội họp có thể diễn ra tại nơi
công cộng hoặc tại nhà riêng với nhiều hình thức khác nhau như tọa đàm, hội
thảo, biểu tình,...
Nhưng tự do hội họp sẽ không liên tục, tức là nó chỉ có tính chất nhất
thời, diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định và có thể những người
tham gia sẽ không bao giờ gặp lại nhau. Sự liên kết tụ hội của các cá nhân ở
mức độ cao, thường xuyên và gắn kết hơn – đó là tiền đề của lập hội. Tự do
hội họp có mức độ đơn giản hơn chỉ dừng lại ở việc gặp gỡ đơn thuần. Tự do
lập hội còn đi xa hơn thế: khi các cá nhân tham gia hiệp hội, hiệp hội tạo ra
thể chế bảo đảm cho các hành vi và các thành tố của cuộc gặp.
Chính mối quan hệ mật thiết giữa quyền tự do hội họp và quyền tự do
lập hội với các quyền khác khiến chúng trở thành những tiêu chí quan trọng để
đánh giá mức độ nhà nước tôn trọng việc hưởng thụ các quyền con người khác.
1.1.4. Quyền biểu tình – Quyền quan trọng trong tự do hội họp
Quyền biểu tình là một quyền dân sự, chính trị quan trọng của con
người, được ghi nhận trong Hiến pháp của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở
Việt Nam, quyền biểu tình được ghi nhận trong các bản Hiến pháp từ năm
1959 đến năm 2013. Hiến Pháp năm 1959 có ghi nhận tại Điều 25 Chương III

15



Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rằng “Công dân nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội họp, lập hội
và biểu tình. Nhà nước bảo đảm những điều kiện vật chất cần thiết để công dân
được hưởng các quyền đó” [25]. Hiến pháp năm 1980 quy định tại Điều 67
Chương IV Quyền và nghĩa vụ của công dân có ghi nhận rằng “Công dân có các
quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do lập hội, tự do biểu
tình, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân” [26]. Hiến
pháp năm 1992 quy định tại Điều 69 Chương V có ghi nhận rằng: “Công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền
hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật” [27]. Đến năm 2013,
Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn tiếp tục ghi nhận
quyền biểu tình tại Điều 25 Chương II rằng: “Công dân có quyền tự do ngôn
luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực
hiện các quyền này do pháp luật quy định” [28]. Hiến pháp năm 1946 tuy
không ghi nhận trực tiếp quyền này, nhưng có thể hiểu quyền biểu tình là nội
hàm của quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp theo quy định tại Điều thứ 10
của bản Hiến pháp này.
Quyền biểu tình được hiểu là một quyền con người, một quyền dân sự,
chính trị quan trọng. Mặc dù trong Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới năm
1948 và trong Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966
(Công ước 1966), không có quy định nào trực tiếp nhắc đến quyền biểu tình,
nhưng quyền biểu tình được hiểu là nội hàm quan trọng của quyền hội họp
hòa bình và quyền tự do ngôn luận (Điều 19, 20 Tuyên ngôn 1948 và Điều 19,
21 Công ước 1966).
Biểu tình được hiểu là hành động tập hợp đông người, có tổ chức và
được diễn ra tại nơi công cộng (trên đường giao thông, quảng trường, công
viên, vườn hoa …) với mục đích là bộc lộ thái độ của người đi biểu tình đối


16


với một vấn đề đang xảy ra trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở tầm
quốc tế, khu vực, quốc gia hoặc hẹp hơn là một vấn đề chỉ liên quan đến cộng
đồng người đang thực hiện biểu tình. Như vậy, quyền biểu tình được hiểu là
quyền được tổ chức biểu tình và quyền được tham gia vào một cuộc biểu tình.
Quyền biểu tình là một quyền quan trọng của con người, được ghi nhận
trong Hiến pháp và pháp luật ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên, cũng như các quyền con người khác, quyền biểu tình cũng
có những giới hạn của nó, cũng giống như các giới hạn của quyền hội họp hòa
bình và quyền tự do ngôn luận. Quyền biểu tình được thực hành theo cách ôn
hòa, không được dùng để xúc phạm, gây chia rẽ, bất ổn hay kích động các
hành vi bạo lực, phân biệt đối xử.
Là nội hàm của quyền hội họp hòa bình, quyền biểu tình luôn đi kèm
với hình thức “phi vũ trang”. Đồng thời, cần phải phân biệt rằng, biểu tình là
một hình thức của tự do hội họp nhưng không phải là hội họp một cách ngẫu
nhiên mà nó đòi hỏi phải có một quá trình chuẩn bị cẩn thận, chu đáo. Giữa
những người đi biểu tình (Luận văn Pháp luật về biểu tình ở Việt Nam và một
số nước trên thế giới - Thực trạng và kiến nghị) phải có tối thiểu một mối liên
hệ chung, đó là mục đích của biểu tình. Hành vi hội họp một cách ngẫu nhiên,
bất thường cần được phân biệt rõ ràng với hành vi biểu tình vì các hành vi này
đưa đến những hệ quả pháp lý khác nhau [58].
Như vậy, quyền biểu tình được giới hạn khi cần thiết vì lý do an ninh
quốc gia, trật tự xã hội, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, bảo vệ quyền và tự do
của người khác (Điều 21 Công ước 1966). Không ai được phép lợi dụng
quyền biểu tình để tuyên truyền cho chiến tranh, gây hằn thù dân tộc, chủng
tộc, tôn giáo, kích động phân biệt đối xử, tạo thù địch, bạo lực (Điều 20 Công
ước 1966). Đồng thời, quyền biểu tình có thể bị tạm đình chỉ thực hiện trong
hoàn cảnh khẩn cấp của một quốc gia (Điều 4 Công ước 1966) như hoàn cảnh


17


thiên tai, nguy cơ chiến tranh, dịch bệnh … và các điều kiện tạm đình chỉ thực
hiện quyền này phải được quy định trong luật. Vì quyền biểu tình là một
quyền có giới hạn và có thể bị đình chỉ thực hiện nên mới cần có luật để điều
chỉnh quyền này.
Từ đây có thể đưa ra một khái niệm về quyền biểu tình đó là quyền của
cá nhân, công dân được tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về một vấn
đề nào đó của xã hội, sự bày tỏ đó thể hiện dưới dạng ủng hộ hoặc phản đối
nhằm đòi hỏi quyền lợi cho cá nhân, cho cộng đồng hoặc cho xã hội.
Biểu tình là một hình thức để công dân có thể thực hiện quyền của
mình thông qua biểu tình công dân gửi đến chủ thể một thông điệp mạnh
mẽ. Thông qua biểu dương lực lượng đông đảo buộc chủ thể hướng tới phải
thực hiện nguyện vọng của mình. Vì vậy, công dân thực hiện quyền biểu
tình thông qua việc tổ chức, tham gia vào các cuộc biểu tình có vị trí, vai trò
hết sức to lớn.
Là thước đo trình độ dân trí của một xã hội dân chủ, dân quyền.
Quyền biểu tình có những đặc điểm [58] sau:
Đầu tiên, quyền biểu tình là một quyền dân chủ của công chúng. Đó là
quyền mà công chúng được tự do bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình về một
vấn đề nó của xã hội, đó có thể là một vấn đề của quốc gia (chủ trương,
chính sách của Nhà nước) hoặc một vấn đề của quốc tế (chiến tranh, biến
đổi khí hậu…).
Thứ hai, chủ thể của quyền biểu tình rất phong phú và đa dạng, đó có
thể là công dân của nước sở tại, cũng có thể là công dân nước ngoài, người
không quốc tịch… Chính vì vậy, Khoản I, Điều 20, UHDR 1948 quy định:
“Mọi người đều có quyền tự do hội họp và tham gia hội họp một cách hòa
bình”. Mọi người ở đây dùng để chỉ tất cả không phân biệt giới tính, quốc

tịch, sức khỏe… tất cả mọi người đều có thể trở thành chủ thể của quyền biểu

18


tình. Như vậy, theo căn cứ nêu trên thì mọi người- tất cả nhưng cá thể tồn tại
trên trái đất này đều có quyền tự do hội họp. Chủ thể của quyền này không bị
giới hạn mà rất phong phú.
Thứ ba, mục đích của quyền biểu tình là nhằm đưa ra ý kiến đồng tình
hoặc phản đối về một vấn đề cụ thể mà những người biểu tình hướng tới –
đây là mối liên hệ tối thiểu giữa những người biểu tình. Nếu những chủ
trương, chính sách của Nhà nước đúng pháp luật, phản ánh được thực tiễn,
đem lại lợi ích cho đông đảo mọi người thì sẽ được công chúng ủng hộ và
ngược lại sẽ bị phản đối. Tuy nhiên, đa số các cuộc biểu tình diễn ra cho thấy,
công chúng thường có quan điểm phản đối nhiều hơn là biểu tình do lúc đó
quyền lợi của công chúng không được đảm bảo, công chúng tiến hành biểu
tình nhằm đưa ra ý kiến của mình để Nhà nước thay đổi các chủ trương, chính
sách cho phù hợp.
Thứ tư, quyền biểu tình phải được thực hiện một cách ôn hòa,
không được dùng để xúc phạm, gây chia rẽ, bất ổn hay kích động các
hành vi bạo lực, phân biệt đối xử. Pháp luật chỉ thừa nhận biểu tình một
cách hòa bình. Đây được coi là điều kiện kiên quyết để quyền biểu tình
được coi là một quyền hợp pháp và được Nhà nước bảo đảm. Chính vì
vậy, quyền biểu tình luôn đi kèm với hình thức “phi vũ trang”. Mọi vũ khí
như: súng, đạn, gậy, gộc, giáo mác… đều bị cấm khi thực hiện trong biểu
tình để tránh gây ra tình trạng bạo động, xung đột với những người có
trách nhiệm bảo vệ cuộc biểu tình.
Biểu tình góp phần trong xây dựng nhà nước pháp quyền
Nhân dân không bao giờ đòi hỏi quá đáng những gì đáng được hưởng,
đảm bảo quyền biểu tình cho công dân bằng pháp luật, tức là đã thiết lập một

cơ chế quản lý nhà nước, giám sát xã hội bằng pháp luật. Mặt khác biểu tình
khi đã được thể chế hóa một cách rõ ràng, căn cứ mạch lạc thì nhân dân sẽ dễ

19


dàng hơn trong việc thực hiện quyền biểu tình mà nhà nước cũng sẽ dễ dàng
hơn trong việc quản lý, vì tất cả đã được quy định trong luật.
Thêm một cách thức để quản lý nhà nước
Nhà nước nắm trong tay quyền lực của nhân dân vì nhân dân không thể
trực tiếp sử dụng quyền của mình, nắm trong tay quyền lực của nhân dân lẽ dĩ
nhiên phải phục vụ nhân dân. Nhưng khi có quyền lực mà không có hoặc cơ
chế kiểm soát yếu thì hiện tượng lạm quyền dễ xảy ra. Thiết lập các cơ chế
giám sát việc quản lý nhà nước là các cơ quan này thực hiện tốt hơn nhiệm vụ
của mình. Qua biểu tình, nhà nước có thể nhìn thấy những sai phạm của
những người cầm quyền, những vấn đề mà nhà nước chưa giải quyết thấu
đáo, điều chỉnh để tạo được sự đồng thuận xã hội cao.
Biểu tình cũng chính là một hình thức phản biện xã hội, phản ảnh thực
trạng của xã hội để nhà nước có thể quản lý xã hội hiệu quả hơn
Phân tích xã hội là các hoạt động của các chủ thể khác nhau trong xã
hội sử dụng các lập luận phân tích, hoặc các công cụ tư duy logic để khẳng
định, bổ sung hoặc bác bỏ khuynh hướng, phương án kinh tế, chính trị, văn
hóa xã hội (gọi chung là đối tượng của phản biện xã hội). Đây là một hoạt
động nằm trong khuôn khổ pháp luật, mang tính tích cực xây dựng, nhằm
hướng tới các mục tiêu chung của xã hội (công bằng, dân chủ, pháp chế, phát
triển đất nước). Thông qua biểu tình, nhân dân có thể phản ảnh ý chí của mình
đến với xã hội, đến với Nhà nước về những chủ trương, chính sách của Nhà
nước chưa đúng, chưa hợp lý để kịp thời có những điều chỉnh thích hợp.
Biểu tình là một hoạt động hết sức phổ biến trên thế giới. Nhằm tạo
một hướng nhìn đầy đủ và hoàn thiện hơn thì dựa theo bản chất của biểu tình

chúng ta có thể phân loại biểu tình như sau:
Dựa vào hình thức của biểu tình
Diễu hành, tuần hành, thị uy là việc những người biểu tình xuống
đường di chuyển trong trật tự từ một địa điểm này đến một địa điểm khác.
20


×