ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***
NGUYỄN THẾ TÀI
NHỮNG BIỆN PHÁP PHÁP LÝ BẢO ĐẢM VIỆC
THU, NỘP THUẾ THU NHẬP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
***
NGUYỄN THẾ TÀI
NHỮNG BIỆN PHÁP PHÁP LÝ BẢO ĐẢM VIỆC
THU, NỘP THUẾ THU NHẬP Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã ngành : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Vũ Hồng Anh
HÀ NỘI - 2014
1
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Thế Tài
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
Trang 1
MỤC LỤC
2
MỞ ĐẦU
4
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ THU NHẬP VÀ
NHỮNG BIỆN PHÁP PHÁP LÝ BẢO ĐẢM VIỆC THU, NỘP
THUẾ THU NHẬP
8
1.1.
Cơ sở lý luận về thuế thu nhập
8
1.1.1.
Khái niệm thuế thu nhập
8
1.1.2.
Đặc điểm của thuế thu nhập
9
1.1.3.
Phân loại thuế thu nhập
15
1.1.4.
Vai trò của thuế thu nhập
16
1.2.
Cơ sở lý luận về những biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp
thuế thu nhập
18
1.2.1.
Khái niệm biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập
18
1.2.2.
Đặc điểm của biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập
20
1.2.3.
Phân loại biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập
23
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG NHỮNG BIỆN PHÁP PHÁP LÝ BẢO
ĐẢM VIỆC THU, NỘP THUẾ THU NHẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
27
2.1.
Thực trạng quy định về những biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu,
nộp thuế thu nhập ở Việt Nam hiện nay
27
2.1.1.
Biện pháp kiểm soát thu nhập
27
2.1.2.
Biện pháp quản lý chủ thể tham gia quan hệ thu, nộp thuế thu nhập
34
2.1.3.
Biện pháp thanh tra, kiểm tra việc thu, nộp thuế thu nhập
43
2.2.
Thực tiễn áp dụng quy định về những biện pháp pháp lý bảo đảm
việc thu, nộp thuế thu nhập ở Việt Nam hiện nay
53
2.2.1.
Một số bất cập trong quy định của pháp luật
55
2.2.2.
Một số vụ việc đã xảy ra trên thực tế
65
3
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG NHỮNG BIỆN PHÁP PHÁP LÝ BẢO
ĐẢM VIỆC THU, NỘP THUẾ THU NHẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
70
3.1.
Quan điểm hoàn thiện những biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu,
nộp thuế thu nhập
70
3.1.1.
Đảm bảo đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn
thiện pháp luật
70
3.1.2.
Đảm bảo phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tiễn của nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
71
3.1.3.
Đảm bảo phù hợp với chiến lược cải cách hành chính và cải cách hệ
thống thuế của nước ta hiện nay
73
3.1.4.
Đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng
giai đoạn phát triển nhất định, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước
và lợi ích của chủ thể nộp thuế
74
3.1.5.
Đảm bảo thống nhất với hệ thống pháp luật nói chung và các quy định
pháp luật Quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký kết
76
3.2.
Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng những
biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập ở Việt Nam
77
3.2.1.
Hoàn thiện quy định về biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu
nhập
77
3.2.2.
Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo chiến lược đã được phê duyệt
79
3.2.3.
Hoàn thiện về tổ chức bộ máy quản lý thuế
81
3.2.4.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức thực thi nhiệm vụ thu
thuế nói chung và thuế thu nhập nói riêng
82
3.2.5.
Tăng cường triển khai áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt
84
3.2.6.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả, chất lượng tuyên truyền, phổ biến
pháp luật thuế thu nhập
85
3.2.7.
Từng bước thực hiện xã hội hóa công tác quản lý thuế nói chung và quản
lý thuế thu nhập nói riêng
87
KẾT LUẬN
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90
PHỤ LỤC
100
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng thuế ra đời và tồn tại là khách quan, là
điều kiện vật chất quan trọng để Nhà nước tồn tại và phát triển, là nguồn thu
chủ yếu của ngân sách mỗi Quốc gia, đóng vai trò quyết định trong việc duy
trì hoạt động của bộ máy Nhà nước đồng thời là công cụ kinh tế - pháp lý để
Nhà nước thực hiện chức năng của mình. Ở những nước phát triển, thuế thu
nhập chiếm tỷ trọng đóng góp rất cao trong tổng số thu từ thuế cho ngân sách
Nhà nước và nó được xem là trụ cột trong hệ thống thuế.
Ở Việt Nam, phù hợp với thực tiễn đời sống kinh tế - xã hội, hệ thống
pháp luật thuế hình thành và ngày càng phát triển. Vai trò quan trọng của thuế
được thể hiện thông qua tỷ trọng đóng góp của nguồn thu này đối với ngân
sách Nhà nước. Trong dự toán ngân sách của nước ta những năm gần đây
(năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014) thu từ thuế chiếm khoảng 80% thu ngân
sách Nhà nước. Trên thực tế, theo báo cáo của Bộ Tài chính, tính trung bình
ba năm 2010, 2011, 2012, thực thu từ thuế chiếm trên 82,58% ngân sách của
nước ta; Tính trong 6 tháng đầu năm 2013, tỷ lệ này là 87,75%. Cũng theo
thông tin từ Bộ Tài chính, trong các khoản thuế hiện hành của Việt Nam, thuế
thu nhập (gồm thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp) có tỷ
trọng đóng góp cao nhất.
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, sự đóng góp của
thuế thu nhập vào ngân sách Nhà nước ngày một tăng; Thuế thu nhập ngày
càng thể hiện vai trò quan trọng đối với thu ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên,
thực tế hoạt động thực thi quy định pháp luật thuế nói chung và hoạt động
thu, nộp thuế thu nhập nói riêng hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, ảnh
5
hưởng tiêu cực tới quỹ ngân sách. Trong mười sắc thuế hiện hành, có năm
sắc thuế bị vi phạm nhiều nhất là thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập
cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất, nhập khẩu và thuế nhà đất. Nổi bật
là việc các chủ thể tìm mọi cách làm giảm thu nhập để trốn thuế [82]. Những
vấn đề nêu trên đặt ra yêu cầu nghiên cứu, xác định phương hướng và giải
pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu, nộp thuế thu nhập.
Vì vậy, tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Những biện pháp pháp lý bảo
đảm việc thu, nộp thuế thu nhập ở Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập ở nước ta,
qua đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện các biện pháp pháp lý bảo
đảm việc thu, nộp thuế thu nhập ở Việt Nam hiện nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, chủ thể nộp thuế thu
nhập có thể là người cư trú, người không cư trú (theo điều 2 Luật thuế thu
nhập cá nhân); Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật Việt
Nam, Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài
có cơ sở thường trú hoặc không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, Tổ chức
được thành lập theo Luật hợp tác xã, Đơn vị sự nghiệp được thành lập theo
quy định của pháp luật Việt Nam, Tổ chức khác có hoạt động sản xuất, kinh
doanh có thu nhập (theo điều 2 luật thuế thu nhập doanh nghiệp) Trong giới
hạn Luận văn này, đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu hoạt động thu, nộp
thuế thu nhập đối với cá nhân là người cư trú và doanh nghiệp thành lập theo
quy định của Luật doanh nghiệp.
6
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên nền tảng quan điểm của triết học Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Để đạt được mục đích nghiên
cứu, Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng.
Ngoài ra để hoàn thành đề tài, Luận văn còn sử dụng kết hợp một số phương
pháp nghiên cứu truyền thống như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương
pháp đối chiếu, so sánh; Phương pháp logic; Phương pháp thống kê… nhằm
làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu.
4. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn nghiên cứu pháp luật thuế thu nhập từ một góc nhìn hoàn toàn
mới: đồng thời từ phía chủ thể thu thuế và chủ thể nộp thuế, tương ứng với
hoạt động thu thuế thu nhập và hoạt động nộp thuế thu nhập. Kết quả nghiên
cứu của Luận văn sẽ góp phần bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về
hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập ở Việt Nam nói riêng và các quy định
pháp luật khác có liên quan để đảm bảo hiệu quả công tác thu, nộp thuế thu
nhập trên thực tiễn. Luận văn đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động thu,
nộp thuế thu nhập. Các ý kiến được trình bày trong Luận văn có thể giúp ích
cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong xây dựng chính sách, xây
dựng pháp luật. Qua đây, tác giả mong muốn đóng góp một phần công sức
nhằm hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập, pháp luật quản lý thuế, các quy
định liên quan đến hoạt động thu, nộp thuế thu nhập cũng như hệ thống pháp
luật nói chung.
5. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục,
Luận văn được trình bày với kết cấu 3 chương như sau:
7
- Chương 1: Cở sở lý luận về thuế thu nhập và những biện pháp pháp lý
bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập;
- Chương 2: Thực trạng những biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp
thuế thu nhập ở Việt Nam hiện nay;
- Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng những biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập ở Việt
Nam hiện nay./
8
Chƣơng 1.
Cơ sở lý luận về thuế thu nhập và những biện pháp pháp lý
bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập
1.1. Cơ sở lý luận về thuế thu nhập
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập
Pháp luật nước ta hiện nay không định nghĩa thế nào là “thuế thu nhập”;
Thực tế, nó được hiểu đơn giản là một loại thuế đánh vào thu nhập. Trong đó,
thuế là một khoản tiền mà các tổ chức, cá nhân phải đóng cho Nhà nước theo
quy định của pháp luật, không mang tính chất đối giá, không hoàn trả trực tiếp;
Tuy nhiên, còn nhiều quan điểm khác nhau về thu nhập [36]; Ví dụ:
- Theo ngôn ngữ học, thu nhập được giải thích là các khoản thu được
trong một khoảng thời gian nhất định theo tháng, năm.
- Theo lý thuyết về nguồn tài sản, thu nhập được xác định là tổng sản phẩm
kinh tế mà hàng năm được bổ sung cho từng người từ những nguồn ổn định.
- Theo lý thuyết về tăng tài sản thuần túy, thu nhập là tổng đại số của giá trị
trên thị trường của các quyền lợi được hưởng dưới dạng tiêu dùng và thay đổi về
giá trị trong tổng các nguồn sở hữu trong một khoảng thời gian nhất định.
Qua tổng hợp, có thể thấy thu nhập là các khoản thu dưới dạng tiền tệ,
hiện vật hoặc những giá trị vật chất, kinh tế mà tổ chức, cá nhân có được từ
các hoạt động trong xã hội [36]. Về nguyên tắc, chỉ những thu nhập được
pháp luật dự liệu, ghi nhận và đã phát sinh trên thực tế mới bị đánh thuế (trừ
các trường hợp được miễn, giảm thuế theo quy định). Trong đó, thu nhập ở
đây phải là những thu nhập hợp pháp; Những “thu nhập” không hợp pháp
hoặc có nguồn gốc không hợp pháp như tiền/tài sản có được do trộm cắp,
buôn bán ma túy, tài sản được tặng cho là do người khác phạm tội mà có hay
9
từ các hoạt động bất hợp pháp khác sẽ không được pháp luật thừa nhận;
Những “thu nhập” này sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật (như bị tịch
thu, sung quỹ, trả lại người bị mất, bị hại…). Do đó, không đặt ra vấn đề tính
và thu thuế đối với những “thu nhập” không hợp pháp hoặc có nguồn gốc
không hợp pháp này.
Như vậy, một cách khái quát, thuế thu nhập là loại thuế đánh vào thu nhập
đã phát sinh của tổ chức, cá nhân (theo từng lần hoặc trong một khoảng thời
gian xác định từ những nguồn nhất định) khi đáp ứng các điều kiện do pháp luật
quy định. Các điều kiện do pháp luật quy định ở đây là các yếu tố liên quan tới
đặc điểm của thu nhập (như: tính hợp pháp của thu nhập, giá trị của thu nhập,
nguồn gốc của thu nhập…), đặc điểm của chủ thể có thu nhập (như: là người cư
trú hay không cư trú; người có một nhà ở duy nhất hay còn nhà ở khác nữa…),
nơi phát sinh thu nhập (từ hoạt động trong nước hay ở nước ngoài…)
1.1.2. Đặc điểm của thuế thu nhập
Bên cạnh những đặc điểm chung của thuế (như: gắn liền với quyền lực Nhà
nước, là khoản thu nộp bắt buộc vào ngân sách Nhà nước, không mang tính đối
giá, không hoàn trả trực tiếp …), thuế thu nhập có một số đặc điểm sau:
- Thứ nhất, thuế thu nhập là thuế trực thu thuần túy. Theo đó, chủ thể
có nghĩa vụ nộp thuế luôn chính là người chịu thuế_người có thu nhập chịu
thuế phát sinh; chủ thể nộp thuế không thể chuyển nghĩa vụ thuế sang cho
chủ thể khác.
Tính trực thu là một trong những đặc điểm phân biệt thuế thu nhập với các
loại thuế gián thu (như thế giá trị gia tăng) qua đó, nó có ý nghĩa quan trọng
trong việc hoạch định chính sách, đề ra các biện pháp quản lý thuế phù hợp để
việc thu, nộp thuế thu nhập được hiệu quả. Ngoài mục tiêu tạo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước, nó còn có mục tiêu điều tiết kinh tế, điều hoà thu nhập xã
10
hội nên thường gắn liền với chính sách kinh tế xã hội của Nhà nước. Yếu tố
“thuần túy” ở đây được phân biệt với một số loại thuế khác có thể là trực thu
hoặc gián thu tùy vào từng trường hợp cụ thể. Ví dụ thuế nhập khẩu, nếu chủ thể
nhập khẩu hàng hóa để bán lại hàng hóa đó thì trường hợp này thuế nhập khẩu
có tính gián thu; còn nếu chủ thể nhập khẩu hàng hóa để trực tiếp sử dụng, tiêu
dùng hàng hóa đó thì trường hợp này thuế nhập khẩu lại có tính trực thu. Do tính
chất trực thu, thuế thu nhập thường vấp phải sự phản kháng của đối tượng nộp
thuế nhiều hơn so với các loại thuế gián thu. Điều này có thể xuất phát từ tâm lý
của chủ thể nộp thuế: thuế trực thu sẽ tác động trực tiếp tới “túi tiền” của chủ thể
nộp thuế nên dễ vấp phải sự phản kháng của họ. Còn thuế gián thu, do có sự dịch
chuyển nghĩa vụ thuế từ chủ thể chịu thuế sang chủ thể nộp thuế. Theo đó, số
tiền thuế phải nộp sẽ được tính vào giá hàng hoá, dịch vụ và người bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ sẽ thực hiện nộp thuế thay cho người chịu thuế do vậy hạn chế
sự phản kháng của người chịu thuế.
Pháp luật thuế ở nước ta hiện nay ghi nhận và cho phép Tổ chức kinh
doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế theo thoả thuận với chủ thể nộp thuế (theo
điều 20 Luật quản lý thuế) bao gồm cả việc khai, nộp thuế thu nhập, quyết toán
thuế thu nhập, lập hồ sơ đề nghị số tiền thuế thu nhập được miễn, được giảm,
được hoàn Tuy nhiên, đây không phải là sự dịch chuyển nghĩa vụ nộp thuế mà
là quan hệ ủy quyền giữa người chịu thuế (tổ chức, cá nhân có thu nhập chịu
thuế) với bên thứ ba là Tổ chức kinh doanh dịch vụ làm thủ tục về thuế thay
mình làm thủ tục và nộp số tiền thuế phải nộp cho cơ quan thuế trên cơ sở hợp
đồng được ký kết giữa các bên. Về bản chất, người chịu thuế và chủ thể nộp thuế
trong trường hợp này vẫn là cùng một chủ thể_bên ủy quyền.
- Thứ hai, thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập.
11
Trong hệ thống thuế ở các nước, có nhiều loại thuế khác nhau, có đối
tượng tính thuế, đối tượng nộp thuế khác nhau nhưng suy cho cùng thì bất kỳ
loại thuế nào cũng đều lấy từ thu nhập của người dân trong xã hội để tập trung
vào quỹ ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, không phải loại thuế nào cũng là thuế
thu nhập. Thuế thu nhập khác với thuế tiêu dùng, thuế tài sản ở chỗ: thuế thu
nhập đánh trực tiếp vào thu nhập của tổ chức, cá nhân khi có thu nhập chịu
thuế phát sinh. Đối với thuế tiêu dùng là loại thuế gián thu đánh vào việc sử
dụng thu nhập của người dân thông qua việc người dân sử dụng thu nhập để
mua hàng hoá, dịch vụ tiêu dùng, phần thu nhập mà Nhà nước thu của họ được
cộng vào giá bán hàng hoá, dịch vụ. Đối với thuế tài sản là loại thuế đánh vào
thu nhập tích luỹ đã được vật chất hoá dưới dạng tài sản của tổ chức, cá nhân
trong xã hội. Về bản chất, thuế tài sản cũng là thuế trực thu nhưng có đối tượng
đánh thuế là tài sản. Mặc dù, tài sản và thu nhập đều là của cải mà chủ thể có
được nhờ những nguồn thu nhất định (từ hoạt động kinh tế, được tặng cho…),
tuy nhiên giữa chúng có sự khác biệt nhất định, cụ thể: tài sản là khối lượng
của cải của một chủ thể ở một thời điểm nào đó, còn thu nhập là số của cải thu
được của một chủ thể trong khoảng thời gian nhất định (một tháng hoặc một
năm). Như vậy, thu nhập của một thời kỳ không bao gồm thu nhập của thời kỳ
trước, còn tài sản lúc cuối kỳ thì bao gồm cả các thu nhập của các kỳ trước đó
cộng lại. Vì vậy, khái niệm tài sản phải gắn với yếu tố thời điểm còn khái niệm
thu nhập gắn với yếu tố khoảng thời gian nhất định [79].
Do thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập phát sinh, vì thế,
một nội dung quan trọng của chính sách thuế thu nhập là phải xác định được
thu nhập chịu thuế. Trong điều kiện kinh tế phát triển như hiện nay, các khoản
thu nhập của tổ chức, cá nhân rất đa dạng nhưng không phải khoản thu nhập
nào cũng là thu nhập chịu thuế; chỉ những khoản thu nhập đáp ứng những
điều kiện nhất định mới là thu nhập chịu thuế. Pháp luật thuế thu nhập của các
12
nước đều quy định các khoản thu nhập chịu thuế làm cơ sở cho việc đánh thuế
thu nhập. Thông thường, các khoản thu nhập chịu thuế phải là thu nhập hợp
pháp, đã thực tế phát sinh, có tính phổ biến và Nhà nước có thể thể kiểm soát
được. Có như vậy, pháp luật thuế thu nhập mới có thể bảo đảm được tính khả
thi, bảo đảm tính công bằng cho các đối tượng nộp thuế [79].
- Thứ ba, thuế thu nhập là một loại thuế phức tạp, tính ổn định không
cao, việc quản lý thuế, thu thuế tương đối khó khăn, chi phí quản lý thuế
thường cao hơn so với các loại thuế khác. Do có đối tượng đánh thuế là thu
nhập nên nguồn thu từ thuế thu nhập phụ thuộc nhiều vào giá trị các khoản
thu nhập chịu thuế của chủ thể trong kỳ tính thuế [79]. Thông thường, chỉ một
số ít các khoản thu nhập có tính ổn định cao như tiền công, tiền lương của
người lao động; Còn lại, hầu hết các khoản thu nhập chịu thuế thường có tính
biến động cao như thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đầu tư vốn,
từ trúng thưởng, được tặng cho, thừa kế… Thực tế các khoản thu nhập này
phát sinh và bị chi phối, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan, chủ quan
khác nhau bao gồm cả các sự kiện về miễn, giảm thuế thu nhập (ví dụ: thu
nhập từ sản xuất kinh doanh phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như biến động về
giá cả, quan hệ cung cầu trên thị trường, các yếu tố về cạnh tranh…; thu nhập
từ tặng cho, thừa kế tài sản, trúng thưởng phụ thuộc vào sự phát sinh của sự
kiện pháp lý tương ứng…). Đối với thuế thu nhập, ngoài việc xác định các
khoản thu nhập chịu thuế còn phải xác định nguồn thu nhập, địa điểm phát
sinh thu nhập, thời hạn cư trú của chủ sở hữu thu nhập, tính ổn định của thuế
thu nhập… Trong phần xác định thu nhập chịu thuế, phải xác định được các
khoản khấu trừ hợp lý để tiến hành giảm trừ khi tính thuế nhằm bảo đảm mục
tiêu công bằng và khuyến khích đối với đối tượng nộp thuế cũng như hạn chế
việc trốn thuế gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước.
13
- Thứ tư, nguồn luật điều chỉnh quan hệ thuế thu nhập gồm cả các văn
bản quy phạm pháp luật thuế thu nhập Quốc gia và văn bản quy phạm pháp
luật thuế Quốc tế. Ngày nay, xu thế Quốc tế hóa đời sống kinh tế - xã hội
ngày càng mở rộng, hiện tượng một chủ thể nộp thuế có nhiều quốc tịch,
nhiều nơi cư trú, nhiều nguồn thu nhập phát sinh cả trong và ngoài nước là
tương đối phổ biến dẫn tới khả năng bị đánh thuế trùng đối với các loại thuế
trực thu nói chung và thuế thu nhập nói riêng [79].
Đánh thuế trùng được hiểu là việc hai hay nhiều Quốc gia đánh một loại
thuế trên cùng một khoản thu nhập hay tài sản chịu thuế của cùng một đối
tượng nộp thuế trong cùng một kỳ tính thuế. Đây là vấn đề mà tất cả các Quốc
gia trên thế giới đều gặp phải khi xây dựng hệ thống chính sách thuế của nước
mình. Việc đánh thuế trùng ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển kinh tế xã hội
chung của các Quốc gia, nó là rào cản đối với dòng luân chuyển hàng hóa,
vốn, công nghệ và lao động; cản trở quá trình toàn cầu hóa kinh tế. Xuất phát
từ lợi ích của Quốc gia mình, các nước trên thế giới đã tìm cách loại bỏ hiện
tượng đánh thuế trùng bằng việc ký kết Hiệp định tránh đánh thuế hai lần để
giải quyết các vấn đề song phương và đa phương về thuế. Văn kiện này có
phạm vi áp dụng vượt ra ngoài biên giới của một Quốc gia và có giá trị ràng
buộc trách nhiệm của nhiều Quốc gia. Xét trên phương diện pháp luật, Hiệp
định tránh đánh thuế hai lần chính là những quy định giới hạn quyền đánh
thuế của từng Quốc gia trong khuôn khổ của Hiệp định. Xét trên phương diện
kinh tế thì Hiệp định tránh đánh thuế hai lần là sự thỏa thuận nhằm phân chia
nguồn thu cho ngân sách giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc chuyển giao vốn, công nghệ và phân công lao động
Quốc tế [79].
Thông thường Hiệp định tránh đánh thuế hai lần ghi nhận các nội dung
cơ bản: (i) Phạm vi và đối tượng áp dụng; (ii) Các nguyên tắc áp dụng Hiệp
14
định; (iii) Tiêu chuẩn xác định đối tượng cư trú/thường trú; (vi) Quy định về
phân chia quyền đánh thuế đối với từng khoản thu nhập; (v) Nguyên tắc giảm
thuế; miễn trừ đối với cơ quan/cán bộ ngoại giao, lãnh sự… [94]. Cũng cần
lưu ý rằng hiện nay, trong quan hệ Quốc tế, chưa có một văn kiện chung nào
được ký kết, ràng buộc tất cả các Quốc gia về vấn đề tránh đánh thuế hai lần.
Thực tế, Hiệp định tránh đánh thuế hai lần được xây dựng và ký kết theo hình
thức song phương hoặc đa phương (một số Quốc gia cụ thể mà không phải là
toàn bộ các Quốc gia trên thế giới) và chỉ có giá trị, ràng buộc các nước ký
kết, tham gia Hiệp định đó.
Nước ta thực hiện chủ trương xây dựng nền kinh tế mở, đa phương hóa,
đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam; đầu tư ra nước ngoài nên Nhà nước rất quan tâm tới vấn đề tránh
đánh thuế hai lần. Song song với việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật
thuế trong nước, Việt Nam đã tích cực đàm phán và ký kết Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần với nhiều Quốc gia, Vùng lãnh thổ trên thế giới. Từ năm
1991, Việt Nam đã tiến hành đàm phán và ký kết Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần với nhiều nước trên thế giới [79]. Tính tới ngày 10/11/2013 Việt Nam đã
tham gia ký kết Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu
thuế đối với thu nhập với hơn 60 Quốc gia, Vùng lãnh thổ trên thế giới; Đến
nay, gần 60 Hiệp định đã có hiệu lực thi hành. Hiệp định tránh đánh thuế hai
lần được Việt Nam ký kết đầu tiên với Ôxtrâylia vào ngày 13/10/1992 tại Hà
Nội, Hiệp định được chính thức có hiệu lực từ ngày 30/12/1992; Gần đây nhất
(tính tới thời điểm đề tài được nghiên cứu), Việt Nam ký kết Hiệp định tránh
đánh thuế hai lần với Pa-le-xtin vào ngày 06/11/2013 tại Hà Nội (danh sách các
Quốc gia/Vùng lãnh thổ đã ký kết Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt
Nam trong Phụ lục 1 kèm theo_tr.100).
15
1.1.3. Phân loại thuế thu nhập
Thông thường, thuế thu nhập được phân loại theo cách phân loại của thu
nhập. Tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu, mục đích của người nghiên cứu, thu
nhập có thể được phân loại thành: Thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh,
thu nhập không từ hoạt động sản xuất kinh doanh; Thu nhập mang tính chất
thường xuyên/định kỳ/lặp đi lặp lại, thu nhập phát sinh từng lần (không có tính
thường xuyên/định kỳ/lặp đi lặp lại); Thu nhập của doanh nghiệp, thu nhập của
cá nhân, thu nhập của hộ gia đình; Thu nhập ở trong nước, thu nhập ở nước
ngoài… Theo đó, có thể phân chia thuế thu nhập thành các loại tương ứng.
Pháp luật Việt Nam hiện hành ghi nhận thuế thu nhập trong hai đạo luật
riêng biệt: Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Như vậy, pháp luật nước ta phân loại thuế thu nhập theo tiêu chí chủ thể có
thu nhập chịu thuế. Hiện nay, các quy định về thuế thu nhập ở Việt Nam được
ghi nhận tại các văn bản quy quy phạm pháp luật cơ bản:
- Với thuế thu nhập cá nhân:
+ Luật thuế thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12
+ Luật số 26/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế
thu nhập cá nhân số 04/2007/QH12
+ Nghị định số 65/2013/NĐ-CP ngày 27/06/2013 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân
+ Các văn hướng dẫn của Bộ Tài chính
- Với thuế thu nhập doanh nghiệp:
+ Luật thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12
16
+ Luật số 32/2013/QH13 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp số 14/2008/QH12 (có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/01/2014)
+ Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày (11/12/2008) của Chính phủ
hướng dẫn Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
+ Nghị định 122/2011/NĐ-CP ngày 27/12/2011 của Chính phủ về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 124/2008/NĐ-CP hướng dẫn
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp
+ Các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính
1.1.4. Vai trò của thuế thu nhập
- Thuế thu nhập có vai trò, ý nghĩa quan trọng trong việc điều hòa thu
nhập trong xã hội; tái phân phối thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội.
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, việc phân phối thu nhập chủ
yếu thông qua cơ chế thị trường với sự tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của
các yếu tố: sức mạnh về tư liệu sản xuất, tài sản, tiền vốn, khả năng lao động,
chất lượng lao động… Ai có được nhiều những yếu tố này sẽ có ưu thế chiếm
giữ phần thu nhập xã hội nhiều hơn, dẫn tới sự phân cực giàu nghèo sâu sắc.
Mặt khác, trong xã hội hiện đại, thu nhập của mỗi tổ chức, cá nhân là không
đồng đều trong khi đó, những nhu cầu sống tối thiểu thì lại gần như nhau.
Những người không có khả năng lao động, không có thu nhập bảo đảm mức
sống, sinh hoạt tối thiểu cần có một lượng thu nhập nhất định để mưu sinh.
Nhà nước với chức năng xã hội của mình cần thiết phải bù đắp một phần thu
nhập cho những đối tượng này để giúp họ thoát khỏi khó khăn, bảo đảm cho
họ có được mức sinh hoạt tối thiểu trong cuộc sống. Thuế thu nhập chính là
một trong những công cụ để Nhà nước thực hiện yêu cầu này. Thu nhập phát
sinh từ xã hội thông qua các hoạt động, các giao dịch của chủ thể trong xã
17
hội; Nhờ vào xã hội mà họ có được nguồn thu nhập đó. Vì vậy việc người có
thu nhập đóng góp cho xã hội với với ý nghĩa nộp thuế thu nhập cũng là hợp
lý và là lẽ công bằng [79].
- Thuế thu nhập là công cụ để Nhà nước quản lý và điều tiết các hoạt
động kinh tế xã hội. Trong xã hội hiện đại, Nhà nước ngày càng có vai trò
quan trọng trong việc điều tiết các mặt hoạt động kinh tế, xã hội của cộng
đồng. Thuế thu nhập (với các mức thuế suất khác nhau) là một công cụ
quan trọng góp phần để thực hiện chức năng đó. Thu nhập của mỗi cá
nhân, tổ chức hay một Quốc gia là chỉ tiêu quan trọng quyết định vấn đề
tích lũy, đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng đến vấn đề phân bổ nguồn lực xã hội.
Thông qua việc đánh thuế vào thu nhập với những cách thức và mức thuế
suất khác nhau, Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết xã hội của mình.
- Cũng giống như các loại thuế khác, thuế thu nhập là một nguồn thu
quan trọng cho ngân sách Nhà nước, góp phần duy trì hoạt động của bộ máy
Nhà nước cũng như để Nhà nước thực hiện được chức năng của mình. Nhà
nước nào cũng cần có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu chi tiêu công và
tích lũy, phát triển tiềm lực kinh tế của Quốc gia. Cùng với xu thế phát triển
kinh tế xã hội, khả năng mang lại thu nhập cho các chủ thể ngày càng cao,
Nhà nước huy động nguồn tiềm lực tài chính to lớn từ thuế thu nhập.
- Tỷ trọng đóng góp của thuế thu nhập trong tổng thu từ thuế cho ngân
sách Nhà nước: Số liệu thống kê của Bộ Tài chính về công tác thực thu thuế ở
nước ta những năm qua cho thấy, trong mười loại thuế hiện hành của Việt
Nam, thuế thu nhập (gồm hai loại thuế: thuế thu nhập cá nhân và thuế thu
nhập doanh nghiệp) có tỷ trọng đóng góp cao nhất. Tính trung bình ba năm
2010, 2011, 2012 thu từ thuế thu nhập đóng góp khoảng 39,15% trong tổng
thu thuế cho ngân sách Nhà nước. Mặt khác, tỷ trọng đóng góp của thuế thu
18
nhập có xu hướng ngày càng tăng (tham khảo Phụ lục 2, Phụ lục 3, Phụ lục 4,
Phụ lục 5_tr.103); Cụ thể:
- Năm 2010, thuế thu nhập chiếm 37,19% trong tổng thu từ thuế;
- Năm 2011, thuế thu nhập chiếm 38,88% trong tổng thu từ thuế;
- Năm 2012, thuế thu nhập chiếm 41,37% trong tổng thu từ thuế;
- 6 tháng đầu năm 2013, thuế thu nhập chiếm 41,63% tổng thu từ thuế.
1.2. Cơ sở lý luận về những biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp
thuế thu nhập
1.2.1. Khái niệm biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập
Biện pháp pháp lý được hiểu là cách làm, cách giải quyết được luật
hoá, được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật và được đảm bảo
thực hiện bởi cơ quan Nhà nước. Theo đó, biện pháp pháp lý bảo đảm việc
thu, nộp thuế thu nhập chính là cách thức đảm bảo việc thu, nộp thuế thu
nhập vào ngân sách Nhà nước; Cách thức này được luật hoá, được ghi nhận
trong văn bản quy phạm pháp luật và được áp dụng, tác động tới cả chủ thể
hành thu thuế thu nhập và chủ thể nộp thuế thu nhập. Các biện pháp pháp lý
bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập được hiểu như là công cụ mà pháp luật
ghi nhận để thực thi quyền thu thuế thu nhập, đảm bảo nguồn thu cho quỹ
ngân sách từ thuế thu nhập. Trong quá trình hành thu thuế thu nhập, cơ quan,
cán bộ Nhà nước có thẩm quyền một mặt được sử dụng công cụ này để thực
hiện chức trách nhiệm vụ Nhà nước giao phó, mặt khác cũng chịu sự ràng
buộc của chính các biện pháp này. Các biện pháp này được sử dụng nhằm
đảm bảo việc thu, nộp thuế thu nhập được thống nhất, đồng bộ đồng thời
nâng cao hiệu quả của thu ngân sách. Theo quan điểm của tác giả, để đảm
bảo hiệu quả việc thu, nộp thuế thu nhập cần áp dụng các biện pháp cơ bản:
19
(i) kiểm soát thu nhập; (ii) quản lý chủ thể tham gia quan hệ thu, nộp thuế
thu nhập; (iii) thanh tra, kiểm tra việc thu, nộp thuế thu nhập.
Ở đây, cũng cần phân biệt các biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp
thuế thu nhập với quản lý thuế thu nhập. Rõ ràng, để đảm bảo hiệu quả của
hoạt động thu, nộp thuế thu nhập, pháp luật cần thiết có cơ chế tác động, điều
chỉnh hành vi của cả chủ thể thu thuế và chủ thể nộp thuế. Biện pháp pháp lý
bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập chính là phương tiện, công cụ pháp luật
sử dụng để đảm bảo việc thu, nộp thuế thu nhập. Pháp luật nước ta hiện nay
không đưa ra định nghĩa quản lý thuế; Về bản chất, quản lý thuế thu nhập là
hoạt động của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (mà cụ thể là hệ thống cơ
quan thuế) trong việc tổ chức, chấp hành, điều hành triển khai thực hiện các
quy định của pháp luật chủ yếu là pháp luật quản lý thuế, pháp luật về thuế
thu nhập. Điều 3 Luật quản lý thuế quy định về nội dung quản lý thuế gồm:
Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; Thủ tục hoàn thuế, miễn
thuế, giảm thuế; Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; Quản lý thông tin về người nộp
thuế; Kiểm tra thuế, thanh tra thuế; Cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế; Xử lý vi phạm pháp luật về thuế; Giải quyết khiếu nại, tố cáo về
thuế (điều 3, Luật quản lý thuế). Theo đó, quản lý thuế thu nhập tập trung và
lấy việc quản lý chủ thể nộp thuế làm trọng tâm. Cũng cần lưu ý rằng việc
phân biệt giữa biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập và quản
lý thuế thu nhập chỉ có tính tương đối. Bản chất của hai vấn đề này đều là
những quy định của pháp luật yêu cầu các chủ thể phải tuân thủ trong hoạt
động thu, nộp thuế thu nhập nhằm hướng tới mục đích cuối cùng là thu đúng,
thu đủ số thuế thu nhập cho ngân sách theo đúng quy định của pháp luật.
Ngoài ra, trong quan hệ dân sự, pháp luật hiện hành cũng quy định các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (được ghi nhận tại mục 5
chương XVII phần thứ ba của Bộ luật dân sự 2005). Theo đó, bảo đảm là
20
việc một bên (bên bảo đảm) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình, quyền sử
dụng đất, uy tín của mình hoặc cam kết thực hiện công việc đối với bên có
quyền (bên nhận bảo đảm) để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của
chính mình hoặc của người khác (bên được bảo đảm). Ở đó, biện pháp bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự mang bản chất bình đẳng, tự nguyện, thiện chí,
thoả thuận của quan hệ pháp luật dân sự. Còn biện pháp pháp lý bảo đảm việc
thu, nộp thuế thu nhập được áp dụng trong quan hệ thu, nộp thuế nhằm mục
đích đảm bảo việc thu đúng, đủ số thuế thu nhập theo đúng quy định của pháp
luật, mang tính chất mệnh lệnh chấp hành của quan hệ pháp luật hành chính.
1.2.2. Đặc điểm của biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập
- Thứ nhất, đây là các biện pháp được luật hoá, được ghi nhận trong các
văn bản quy phạm pháp luật nên mang tính chất bắt buộc. Theo đó, khi phát
sinh thu nhập chịu thuế, chủ thể có thu nhập có nghĩa vụ và trách nhiệm nộp
thuế thu nhập cho Nhà nước; Chủ thể thu thuế có trách nhiệm thực hiện hoạt
động thu thuế theo đúng quy định của pháp luật.
Cũng cần nói thêm rằng tính bắt buộc ở đây không đơn thuần là sự cứng
nhắc bó buộc mà pháp luật thuế thu nhập cũng có những quy định mang tính
tuỳ nghi cho phép chủ thể lựa chọn một trong các phương thức pháp luật ghi
nhận để thực hiện hoặc thực hiện quy định của pháp luật trong khoảng thời
gian/thời hạn nhất định nhằm đảm bảo việc thu, nộp thuế thu nhập được thuận
tiện/hiệu quả và phù hợp với thực tiễn, với từng trường hợp cụ thể. Theo đó,
nhiều trường hợp pháp luật cho phép chủ thể lựa chọn áp dụng phương án A
hoặc phương án B để thực hiện thu, nộp thuế thu nhập hay lựa chọn thời điểm
thích hợp (trong giới hạn pháp luật cho phép) để thực hiện quyền, nghĩa vụ
thuế thu nhập của mình. Ví dụ: điều 16 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy
định trường hợp sản xuất kinh doanh bị lỗ, doanh nghiệp được chuyển lỗ để
21
trừ vào thu nhập tính thuế của năm sau. Trên cơ sở tình hình hoạt động kinh
doanh, nhu cầu sử dùng nguồn vốn để tái đầu tư, sản xuất, kinh doanh, doanh
nghiệp kinh doanh bị lỗ có quyền lựa chọn thời điểm chuyển lỗ để trừ vào thu
nhập tính thuế; Tuy nhiên, quyền lựa chọn này của chủ thể nộp thuế bị giới
hạn trong thời hạn: không quá 5 năm kể từ năm tiếp sau năm phát sinh lỗ.
- Thứ hai, được áp dụng đối với cả chủ thể thu và chủ thể nộp thuế thu nhập
Chủ thể thu thuế thu nhập là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, cán bộ
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu thuế thu nhập: cơ quan thuế các
cấp, cán bộ thuế; Chủ thể nộp thuế thu nhập chính là cá nhân, doanh nghiệp
có thu nhập chịu thuế.
Việc đóng góp của thuế thu nhập vào ngân sách Nhà nước được thực hiện
thông qua hoạt động nộp thuế và hoạt động thu thuế. Theo đó, để đảm bảo hiệu
quả của việc thu thuế thu nhập, pháp luật điều chỉnh cả hoạt động thu thuế và
hoạt động nộp thuế. Do vậy, các biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế
thu nhập được áp dụng với cả chủ thể thu thuế thu nhập và chủ thể nộp thuế thu
nhập; Trong đó, có biện pháp áp dụng cho chủ thể nộp thuế, có biện pháp áp
dụng với chủ thể thu thuế, có biện pháp áp dụng được cho cả hai chủ thể này.
Ví dụ, với biện pháp kiểm soát thu nhập thì thường chỉ áp dụng cho chủ thể
nộp thuế (cá nhân, doanh nghiệp phát sinh thu nhập chịu thuế); biện pháp thanh
tra, kiểm tra việc thu, nộp thuế thu nhập sẽ áp dụng cho cả chủ thuế thu thuế
thu nhập và chủ thể nộp thuế thu nhập. Tùy từng đối tượng (chủ thể thu thuế
hay chủ thể nộp thuế) thì nội dung, phạm vi áp dụng các biện pháp này cũng
khác nhau đảm bảo phù hợp với đặc điểm của từng chủ thể.
- Thứ ba, được đảm bảo thực hiện bởi các Nhà nước
Bằng quyền lực chính trị, Nhà nước quy định các biện pháp đảm bảo
việc thu, nộp thuế thu nhập và đảm bảo để các biện pháp này được tôn trọng,
22
nghiêm chỉnh thực hiện. Theo thông lệ các nước trên thế giới, pháp luật thuế
nước ta cũng ghi nhận các chế tài áp dụng đối với các trường hợp vi phạm
pháp luật thuế nói chung và các quy định pháp luật về việc thu, nộp thuế thu
nhập nói riêng. Theo đó, trong hoạt động thu, nộp thuế thu nhập, các chủ thể
có trách nhiệm, nghĩa vụ tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, áp dụng
các biện pháp phù hợp và trong phạm vi, khuôn khổ pháp luật cho phép để
thực hiện thu, nộp thuế thu nhập vào ngân sách Nhà nước. Pháp luật về quản
lý thuế, về cán bộ công chức, về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật hình sự
của nước ta hiện nay đều quy định các trường hợp và biện pháp, hình thức xử
lý, áp dụng tương ứng với mức độ, tính chất của hành vi vi phạm pháp luật
thuế nói chung cũng như pháp luật về thuế thu nhập nói riêng của các chủ thể.
Theo đó, tùy từng mức độ, tính chất của hành vi vi phạm mà chủ thể có thể bị
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế, bị xử lý kỷ luật theo quy định
của pháp luật về cán bộ công chức, bị xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
- Thứ tư, quy định về các biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế
thu nhập được ghi nhận tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật.
Thực tế, mỗi quan hệ pháp luật phát sinh thường được điều chỉnh bởi nhiều
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau. Bản thân các đạo luật cũng thừa nhận và
áp dụng nguyên tắc dẫn chiếu tới các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên
quan. Ví dụ khoản 2 điều 4 Luật quản lý thuế cũng quy định: Việc quản lý thuế
được thực hiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật
có liên quan. Ở đây, các biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập
được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật cơ bản như: Luật thuế thu
nhập cá nhân, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp; pháp luật về quản lý thuế; pháp
luật về cán bộ công chức (cũng như các quy định về cán bộ công chức thuế);
pháp luật về thanh tra, kiểm tra; pháp luật về hóa đơn chứng từ
23
1.2.3. Phân loại biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập
Việc phân loại các biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu
nhập chỉ mang tính chất tương đối. Tùy thuộc vào tiêu chí phân loại, mục đích
nghiên cứu, góc độ nghiên cứu khác nhau mà có thể phân chia biện pháp pháp
lý bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập thành các loại khác nhau để đáp ứng
những nhu cầu, mục đích khác nhau của chủ thể nghiên cứu. Ví dụ:
- Theo đối tượng áp dụng, có thể phân loại thành: Các biện pháp áp
dụng với chủ thể thu thuế thu nhập; Các biện pháp áp dụng với chủ thể nộp
thuế thu nhập.
- Theo loại thuế thu nhập, có thể phân loại thành: Các biện pháp pháp lý
bảo đảm việc thu, nộp thuế thu nhập cá nhân; Các biện pháp pháp lý bảo đảm
việc thu, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
- Theo giai đoạn của hoạt động thu, nộp thuế, có thể phân loại thành:
các biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu thuế thu nhập; các biện pháp pháp lý
bảo đảm việc nộp thuế thu nhập.
Ngoài ra, còn có thể phân loại các biện pháp pháp lý bảo đảm việc thu, nộp
thuế thu nhập thành: Các biện pháp mang tính chất bắt buộc, các biện pháp có
tính tuỳ nghi; Các biện pháp có tính áp dụng chung, các biện pháp được áp dụng
cho một nhóm đối tượng hay một loại tình huống nhất định; Các biện pháp áp
dụng với thu nhập thường xuyên, các biện pháp áp dụng với thu nhập bất
thường… Theo quan điểm của tác giả, cách phân loại có ý nghĩa nhất hiện nay là
phân loại theo nội dung. Theo đó, có ba biện pháp cơ bản và quan trọng nhất là:
- Kiểm soát thu nhập;
- Quản lý chủ thể tham gia quan hệ thu, nộp thuế thu nhập;
- Thanh tra, kiểm tra việc thu, nộp thuế thu nhập.