Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.69 KB, 119 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

phạm thị thúy

thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án gây rối trật tự công cộng
trên địa bàn tỉnh hưng yên

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2015

1


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

phạm thị thúy

thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
vụ án gây rối trật tự công cộng
trên địa bàn tỉnh hưng yên
Chuyên ngành

: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số

: 60 38 01 04



luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân

Hà nội - 2015

2


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
1

MỞ ĐẦU

Chương 1:

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN

7

CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI


TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

1.1.

Khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công

7

tố và kiểm sát điều tra
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố

7

1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra

16

1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra

18

1.2.

21

Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng

1.2.1. Tội gây rối trật tự công cộng


21

1.2.2. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án

25

gây rối trật tự công cộng
1.3.

Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong giai

26

đoạn điều tra vụ án hình sự
1.3.1. Quan hệ phối hợp

26

1.3.2. Quan hệ chế ước

27

1.4.

29

Khái quát lịch sử hình thành chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra ở Việt Nam

3



Chương 2:

PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TRẠNG

33

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU
TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRÊN
ÐỊA BÀN TỈNH HƯNG YÊN

2.1.

Pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công tố và kiểm

33

sát điều tra
2.2.

Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các

40

vụ án gây rối trật tự công cộng
2.2.1. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn

41


khởi tố vụ án, khởi tố bị can về tội gây rối trật tự công cộng
2.2.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng, thay đổi,

64

hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn
2.2.3. Một số hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều

76

tra vụ án gây rối trật tự công cộng khác
2.4.

Những tồn tại hạn chế trong hoạt động thực hành quyền công

84

tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng trên
địa bàn tỉnh Hưng Yên
2.4.1. Những tồn tại, hạn chế

84

2.4.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế

84

Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP

91


NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ
ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

3.1.

Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền công

91

tố và kiểm sát điều tra
3.2.

Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành

94

quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự
công cộng
3.2.1. Tăng cường trách nhiệm công tố, gắn công tố với hoạt động
điều tra

4

94


3.2.2. Nâng cao kỹ năng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra


97

3.2.3. Nâng cao chất lượng tổ chức, quản lý, chỉ đạo, điều hành của

110

Viện trưởng Viện kiểm sát
3.2.4. Đổi mới phương thức đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán

102

bộ làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
KẾT LUẬN

103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

105

5


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS


: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

KSĐT

: Kiểm sát điều tra

THQCT

: Thực hành quyền công tố

TTCC

: Trật tự công cộng

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao

6



DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Tình hình giải quyết án gây rối TTCC

43

2.2

Tình hình bắt, giữ trong vụ án gây rối TTCC

65

2.3

Tình hình áp dụng và giải quyết biện pháp tạm giam ở

66

giai đoạn điều tra vụ án gây rối TTCC


DANH MỤC CÁC BIỀU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

Trang

biểu đồ
2.1

Tỷ lệ các loại tố giác, tin báo về tội gây rối TTCC

7

44


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng,
trật tự công cộng (TTCC) nói riêng và đặc biệt là tội gây rối TTCC đang là
vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm này có tính nguy hiểm
không cao so với các loại tội phạm khác nhưng nó có tính phổ biến, đa dạng
và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hành vi
gây rối TTCC xâm phạm các quan hệ xã hội trong lĩnh vực công cộng, gây
tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân, hành vi
này được thực hiện công khai và thường ở những nơi đông người, biểu hiện ý
thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước. Hình thức biểu
hiện của hành vi gây rối thường là: Hành hung, đánh lộn, đập phá, gây lộn
xộn ở nơi đông người, tụ tập đi xe máy tốc độ cao, lạng lách, đánh võng, gây

huyên náo đường phố... và ngày càng có xu hướng gia tăng, kèm theo đó là
các hành vi hủy hoại tài sản, chống người thi hành công vụ, cố ý gây thương
tích, thậm chí là giết người... Nằm trong xu thế chung của cả nước, Hưng Yên
một tỉnh cũng đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa, diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi ngày càng nhiều trong khi chưa có sự cơ cấu hợp
lý về việc làm và giá bồi thường đất dẫn đến tình trạng bất ổn trong một bộ
phận nhân dân. Trường hợp người dân tụ tập với số lượng đông biểu tình, cản
trở, gây sức ép và phản đối các công trình đầu tư thi công, tụ tập trước các trụ
sở cơ quan nhà nước, cản trở giao thông, gây mất TTCC ngày càng nhiều
nhưng con số xử lý thì quá ít và dường như còn khá ngại va chạm.
Với chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các
hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát (VKS) phải là đơn vị đi đầu, định hướng
quan trọng trong việc điều tra xác định tội danh gây rối TTCC. Góp phần
củng cố tình hình an ninh địa phương, trật tự an toàn xã hội, không để bỏ lọt

8


tội phạm hay làm oan người vô tội. Do đó, hơn lúc nào hết vấn đề THQCT và
kiểm sát hoạt động điều tra vụ án gây rối TTCC trở lên cấp thiết. Trong xu
hướng cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay thì những vấn đề gì đặt ra khi
THQCT và kiểm sát điều tra (KSĐT) nói chung, cũng như đối với vụ án gây
rối TTCC nói riêng cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ.
Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận và
thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC, đồng thời đề xuất
một số giải pháp để nâng cao chất lượng của hoạt động này trong xu hướng
cải cách tư pháp, tác giả chọn đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên" làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Thực hành quyền công tố và KSĐT là chủ đề đã được nhiều học giả
nghiên cứu dưới góc độ lý luận và từ nhiều phương diện khác nhau, trong đó
phải kể đến một số công trình điển hình như sau:
- Lê Cảm (2001), "Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố",
Kỷ yếu đề tài khoa học cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và
việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao (VKSNDTC), Hà Nội.
- Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Trịnh Duy Tám (2005), áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
- Hà Thị Minh Hạnh (2011), Chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Hà Nội.

9


- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong
tố tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu hoạt
động thực THQCT và KSĐT cụ thể đối với vụ án gây rối TTCC. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây
rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên" là một đòi hỏi cấp thiết, có
ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích của đề tài

Luận văn nghiên cứu, làm rõ thực trạng và đưa ra các đề xuất, phương
hướng để nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát hoạt động điều các tra vụ án
gây rối TTCC nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội gây rối TTCC, pháp luật tố tụng
hình sự trong THQCT và KSĐT các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư
pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đề ra.
- Nhiệm vụ của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về THQCT và KSĐT.
+ Phân tích thực trạng THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên, những khó khăn, vướng mắc gặp phải, nguyên nhân dẫn
đến tình trạng đó.
+ Đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về THQCT và KSĐT.
+ Đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng THQCT và
KSĐT nói chung, chất lượng THQCT và KSĐT đối với vụ án gây rối TTCC
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên nói riêng.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam về THQCT và KSĐT các vụ án hình sự và hoạt động THQCT

10


và KSĐT các vụ án gây rối TTCC của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND)
Hưng Yên.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu lý luận và thực tiễn THQCT và KSĐT vụ án gây
rối TTCC trên địa bàn tỉnh Hưng Yên. Đánh giá những tồn tại, hạn chế cũng
như nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế của hoạt động THQCT và KSĐT các

vụ án gây rối TTCC. Đưa những vấn đề cần làm sáng tỏ trong khi THQCT và
KSĐT các vụ án gây rối TTCC, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng THQCT và hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự và tố tụng
hình sự liên quan.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng THQCT trong giai đoạn
điều tra các vụ án gây rối TTCC trong 05 năm (2010 - 2014).
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về vấn đề nâng
cao chất lượng THQCT trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết Đại hội Đảng
VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của
Bộ Chính trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học
điều tra hình sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: phương pháp phân
tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch;
phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp
các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng
được nghiên cứu trong luận văn.

11


6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ
thống ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hoạt động THQCT và KSĐT

vụ án gây rối TTCC mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong
việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và hình sự để làm sáng tỏ các vấn đề
cần chứng minh trong vụ án hình sự thông qua hoạt động THQCT và KSĐT
của VKS. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Phản ánh được thực trạng THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC;
- Phân tích, đánh giá, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế mà hoạt động
THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC thường gặp phải;

- Đưa ra những vấn đề cần lưu ý, những kinh nghiệm khi THQCT và
KSĐT vụ án gây rối TTCC;
- Đề xuất hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng
như pháp luật hình sự liên quan đến THQCT và KSĐT vụ án gây rối TTCC
trong chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích
dành cho không chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán
bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc
chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu
của luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cán bộ đang công tác tại
các Cơ quan điều tra (CQĐT), VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Ý nghĩa khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ và phong phú
thêm lý luận về hoạt động THQCT và KSĐT. Đồng thời còn được sử dụng như
một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy và học tập tại
các trường đào tạo luật và Trường Đại học Kiểm sát.

12


- Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.

Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng trong thực tiễn nhằm
góp phần giúp VKSND tỉnh Hưng Yên cũng như VKSND các địa phương
trong cả nước nâng cao được chất lượng THQCT và KSĐT đối với các vụ án
gây rối TTCC.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra.
Chương 2: Pháp luật thực định và thực trạng thực hành quyền công tố
và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên từ năm 2010 đến năm 2014.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự
công cộng.

13


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA VỤ ÁN GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
1.1. khái niệm, đặc điểm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
* Quyền công tố
Tại Việt Nam, thuật ngữ "quyền công tố" với tư cách là quyền năng
của VKS lần đầu tiên được ghi nhận tại Hiến pháp năm 1980, sau đó là Hiến
pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm
1988, BLTTHS năm 2003, Luật tổ chức VKSND năm 1981, Luật tổ chức

VKSND năm 1992, Luật tổ chức VKSND năm 2002, Pháp lệnh kiểm sát viên
2011... Ngày nay, thuật ngữ này đã trở lên phổ biến hơn. Tuy nhiên, trong
khoa học luật tố tụng hình sự nói riêng cũng như khoa học pháp lý nói chung,
vẫn tồn tại một số quan điểm khác nhau về khái niệm quyền công tố.
Quan điểm thứ nhất: Đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND. Quan điểm này xuất phát từ chức
năng của VKSND để xem xét quyền công tố. Theo đó, "tất cả các hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là thực hành quyền công tố" [15, tr. 85].
Có nghĩa là ngay cả khi VKS kiến nghị, yêu cầu các cơ quan nhà nước khắc
phục, sửa chữa những sai phạm của mình trên các lĩnh vực hành chính, kinh
tế, xã hội thì đó cũng là hoạt động THQCT. Quan điểm này cho rằng công tố
không phải là một chức năng độc lập của VKS, mà chỉ là một quyền năng,
một hình thức hoạt động chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Quan điểm thứ hai: "Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước
đưa các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; ở Việt Nam, quyền này
được giao cho Viện kiểm sát nhân dân" [15, tr. 19]. Quan điểm này cho rằng

14


quyền công tố xuất hiện từ khi có nhà nước và pháp luật, được thể hiện đầu
tiên trong lĩnh vực hình sự, cùng với sự phát triển của xã hội và các ngành
luật nó đã lan sang các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động. Quan điểm này có
thể coi là quan điểm phổ biến trong ngành kiểm sát, đã được đưa vào giáo
trình giảng dạy của Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội và thường xuyên được
nhắc đến trong các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ và các báo cáo tổng kết thực
tiễn của ngành kiểm sát. Theo quan điểm này, quyền công tố không chỉ có
trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự
và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác. Quan điểm này quá mở rộng dẫn đến xóa

nhòa ranh giới và tính đặc thù giữa tố tụng hình sự và các lĩnh vực tố tụng khác.
Quan điểm thứ ba: Quyền công tố là quyền đại diện, nhân danh nhà
nước thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa, tức là chỉ diễn ra trong giai đoạn xét
xử. Ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân
dân [53, tr. 1-60]. Theo quan điểm này việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn
ra ở một lĩnh vực duy nhất là tố tụng hình sự và cũng chỉ có ở một giai đoạn
duy nhất của tố tụng hình sự là giai đoạn xét xử.
Theo tôi, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá thu
hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố;
không những vậy, nó còn không phản ánh được bản chất của quyền công tố,
còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT bởi vì truy tố và buộc tội trước
Tòa chỉ là một trong số các quyền năng cụ thể của hoạt động THQCT tại giai
đoạn xét xử.
Quan điểm thứ tư: "Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội" [53, tr. 10]. Quan điểm này cho rằng quyền công tố chỉ xuất
hiện trong lĩnh vực hình sự và chủ thể THQCT không chỉ có VKS mà còn có
các cơ quan tiến hành tố tụng khác (CQĐT, Tòa án, Thi hành án) và như vậy
quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn từ điều tra, truy tố, xét xử đến thi
hành án. Quan điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với nguyên

15


tắc truy cứu trách nhiệm hình sự rằng tội phạm phải bị truy cứu và bị trừng trị,
đã nhầm lẫn giữa các chức năng cơ bản (buộc tội, gỡ tội, xét xử …).
Quan điểm thứ năm:
Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm
sát truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội; cơ quan
công tố có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng

cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết
định truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước
phiên tòa [39, tr. 40].
Theo quan điểm này thì quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật
hình sự coi là tội phạm; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất là trong
tố tụng hình sự; ở nước ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho duy nhất
VKS, không có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được.
Như vậy có thể thấy, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm
quyền công tố. Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của
nó nhưng cũng đều bộc lộ những bất cập: Hoặc là đánh đồng quyền công tố
với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố chỉ là quyền năng của
VKS trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng phạm vi của quyền
công tố sang các lĩnh vực khác ngoài tố tụng hình sự; hoặc là quá thu hẹp
phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Tác giả Lê Hữu Thể đã viết:
Để đưa ra được quan niệm đúng về quyền công tố cần phải
xem xét nó trong mối quan hệ với tính đặc thù của một lĩnh vực
pháp luật cụ thể, quyền công tố chỉ có thể được xem xét trong mối
liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ đó cội nguồn lịch sử của nó đã
gắn liền, không thể tách rời việc nhân danh nhà nước (nhân danh
công quyền) chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng
nhất đó (đó là tội phạm) tức lĩnh vực tố tụng hình sự [39, tr. 37].

16


- Tháng 7/1967, đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ
Quốc hội đã đưa ra kết luận rất quan trọng về quyền công tố và trách nhiệm

của ngành kiểm sát: Công tố là một biện pháp chuyên chính trong bất cứ nhà
nước nào. Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để
sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát nhân dân
phải trông nom, đảm bảo tốt.
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ:
"Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động tư pháp" [9, tr. 2].
- Tại Báo cáo thẩm tra của Ủy ban pháp luật của Quốc hội (số 729
ngày 14/3/2002) về dự án Luật Tổ chức VKSND khẳng định: "Hoạt động
công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự, bắt đầu từ việc phát hiện, khởi tố vụ án
đến truy tố bị can và tranh tụng tại phiên tòa" [44, tr. 4].
- Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân, quán triệt những
nội dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác
trọng tâm của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị được tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng
VKSND tối cao đã khẳng định: "Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong
lĩnh vực hình sự và chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử".
- Hiến pháp 2013 (Điều 107) và các văn bản pháp luật của Nhà nước
ta (Điều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Điều 23 BLTTHS năm 2003)
quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp" [37, tr. 39].
Từ những dẫn chứng trên, tôi bày tỏ sự đồng tình với quan điểm của
Tiến sĩ Lê Hữu Thể, cũng chính là quan điểm thứ 5 đã nêu trên:
Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền công

17



tố được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là Viện
kiểm sát), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu,
chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó
quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng và
bảo vệ sự buộc tội tại phiên tòa [39, tr 40].
* Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Thời gian qua, vấn đề THQCT, phạm vi và nội dung của nó, mối quan
hệ giữa chức năng THQCT với thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự còn ít được đề cập và chưa được rõ ràng. Một
số chuyên đề về nâng cao chất lượng THQCT và kiểm sát các hoạt động tư
pháp do VKSND tối cao tổ chức cũng chỉ đua ra một số biện pháp pháp lý,
kiến nghị để nâng cao hiệu quả các công tác thực hiện chức năng như: KSĐT,
kiểm sát xét xử, THQCT. Trong nội dung nghiên cứu của các chuyên đề này
chưa phân biệt rành mạch hành vi tố tụng nào là THQCT, hành vi tố tụng nào
là thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
Cho đến nay, nhận thức của không ít người làm công tác nghiên cứu và thực
tiễn của các cơ quan tư pháp còn nhầm lẫn giữa quyền công tố và THQCT,
giữa thẩm quyền của VKS và các quyền năng pháp lý để thực hiện thẩm
quyền đó. Vì vậy, nhiều người đã gặp vướng mắc và không lý giải được vấn
đề khi một số cơ quan khác cũng khởi tố vụ án thì các cơ quan này có phải
cũng THQCT hay không?
Từ Hiến pháp năm 1959, 1981, 1992, 2013 và các Luật tổ chức VKSND
năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 thì chỉ có VKS là cơ quan duy nhất
THQCT. Tuy vậy, việc phát động quyền công tố thì không chỉ có VKS và còn
có cả CQĐT, Tòa án cũng có quyền. Nhưng các quyết định khởi tố của các cơ
quan đó chỉ thực sự có ý nghĩa phát động công tố quyền sau khi được VKS
xem xét; nếu quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của CQĐT
không có căn cứ và trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ. Tòa án có quyền
khởi tố vụ án hình sự, nếu qua việc xét xử phát hiện có tội phạm bị bỏ lọt,


18


nhưng các quyết định khởi tố vụ án hình sự của Tòa án đều phải được gửi cho
VKS xem xét, nếu có vi phạm pháp luật thì VKS sẽ kháng nghị. Như vậy, về
mặt pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động quyền công tố
mà không chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào. Trong giai đoạn
điều tra, CQĐT chỉ có quyền đề nghị áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện
pháp ngăn chặn, còn việc quyết định là do VKS; CQĐT có quyền độc lập thu
thập tài liệu chứng cứ, nhưng việc bảo đảm cho các tài liệu chứng cứ ấy có đủ
cơ sở để truy tố bị can hay không là do VKS chịu trách nhiệm. Khi có đủ tài
liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội và xét thấy cần xử lý người đó
trước Tòa án thì VKS quyết định truy tố bị can ra Tòa. BLTTHS nước ta đã
quy định thẩm quyền công tố của VKS trong tố tụng hình sự rất lớn là "được
áp dụng các biện pháp do BLTTHS để xác định tội phạm và xử lý người
phạm tội" (Điều 23 BLTTHS). Từ những nội dung trên, tôi đồng ý với quan
điểm: "Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng các biện pháp
do luật định để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, đưa
người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó" [19, tr. 40].
Phạm vi quyền công tố
Trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay, VKS thực hiện quyền công
tố ở các giai đoạn tố tụng, bởi vì khi có việc tiến hành tố tụng thì bao giờ cũng
gắn liền với việc buộc tội. Do đó, không thể quan niệm việc THQCT chỉ ở
giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa giám
đốc thẩm, VKS cũng có thể bảo vệ quan điểm buộc tội của VKS cấp dưới khi
bị cáo kháng cáo kêu oan, bảo vệ kháng nghị của VKS theo hướng tăng nặng
trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Về nguyên tắc, khi có tội phạm xảy ra là xuất hiện quyền công tố, luật
tố tụng hình sự Việt Nam đã thể hiển rõ nguyên tắc này là: Mục đích của tố
tụng hình sự nhằm bảo đảm cho mọi tội phạm xảy ra đều phải được phát hiện

và xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi tội phạm xảy
ra đều được phát hiện và khởi tố nên số vụ án được khởi tố điều tra bao giờ

19


cũng nhỏ hơn số vụ phạm tội xảy ra. Dưới góc độ tội phạm học những vụ
phạm tội chưa được phát hiện là phần tội phạm ẩn chưa có trong thống kê
hình sự. Theo đó, giữa phạm vi quyền công tố và phạm vi THQCT có thể
được do bằng tình trạng tội phạm ẩn đang cần được phát hiện, xử lý. Do vậy,
nếu quan niệm phạm vi quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự là
thu hẹp phạm vi quyền này và nhầm lẫn khởi tố vốn là một biện pháp THQCT
với quyền công tố. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố
vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và
người phạm tội.
Những căn cứ dẫn đến triệt tiêu quyền công tố và theo đó chấm dứt
việc THQCT là: Không có sự kiện phạm tội; người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự; người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà
hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được
đại xá; người phạm tội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người
khác; miễn trách nhiệm hình sự; hiệu lực của Bộ luật hình sự (BLHS) về mặt
thời gian.
Từ đó có thể kết luận rằng: Phạm vi thực hành quyền công tố bắt đầu
từ khi khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị
kháng nghị hoặc vụ án được đình chỉ khi có một trong những căn cứ do luật
tố tụng hình sự qui định.
Nội dung thực hành quyền công tố
Nhiều người cũng tán thành với quan điểm rằng THQCT, đó là những

biện pháp do luật định mà VKS sử dụng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người phạm tội... Thế nhưng trong lý luận và thực tiễn hiện nay vẫn chưa
có một công trình nào nêu rõ được nội dung THQCT bao gồm những quyền
năng pháp lý cụ thể nào. Điều này dẫn tới tình trạng nhầm lẫn giữa chức năng
THQCT và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS. Từ kết quả

20


nghiên cứu ở các phần trên, tôi cho rằng: những quyền năng pháp lý mà VKS
tự quyết định và liên quan đến việc cáo buộc bị can, bị cáo thì đó là những
quyền năng thuộc nội dung THQCT; những quyền năng pháp lý mà VKS sử
dụng để phát hiện và yêu cầu xử lý vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là những quyền
năng thuộc chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Tuy vậy, việc xác
định và phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối, bởi vì có những hành vi
tố tụng mà chúng thể hiện sự đan xen giữa THQCT và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Chẳng hạn, quyết định kháng nghị phúc
thẩm hình sự của VKS đối với bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật. Vì một quyết định kháng nghị có thể bao hàm đồng thời hai nội dung,
một là có sự vi phạm trong việc áp dụng BLHS, hai là vi phạm nghiêm trọng
về tố tụng hình sự; hoặc chỉ thể hiện một trong hai nội dung trên nhưng đều
làm phát sinh một trình tự xét xử mới, xét xử phúc thẩm hình sự. Chính vì lẽ
đó, theo luật định, VKS thực hiện đồng thời hai chức năng, chức năng công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp mà không tách ra thành các chương riêng.
Nhiều nước trên thế giới, ngoài chức năng công tố, Viện công tố còn được
giao nhiệm vụ trông nom việc áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp
nhưng cũng không tách bạch giữa hai nhiệm vụ này trong Luật công tố. Hiện
nay trong lý luận và thực tiễn cũng còn có một số quan điểm khác nhau về
THQCT và chủ thể THQCT. Do đó việc quan niệm nội dung THQCT cũng

còn khác nhau. Có quan điểm cho rằng, nếu coi khởi tố vụ án hoặc bắt, tạm
giam bị cáo là nội dung THQCT thì có nghĩa là CQĐT và Tòa án cũng là cơ
quan THQCT. Chúng tôi cho rằng, ở đây có sự nhầm lẫn giữa quyền năng tố
tụng với quyền của cơ quan công tố. Việc sử dụng một số biện pháp để cáo
buộc bị can, bị cáo do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện hoàn toàn
không đồng nghĩa với thẩm quyền công tố theo nghĩa đầy đủ của nó là quyền
đưa vụ án ra Tòa và thực hiện việc buộc tội đối với bị cáo trước Tòa án. Chỉ
có cơ quan nào sử dụng tất cả các quyền năng pháp lý cần thiết để truy cứu

21


trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong cả giai đoạn điều tra tội
phạm và giai đoạn xét xử hình sự tại Tòa án thì đó là cơ quan THQCT. Ở
nước ta chỉ có VKS là cơ quan duy nhất THQCT. CQĐT chỉ là người hỗ trợ
cho VKS đưa vụ án ra Tòa; Tòa án chỉ xét xử những tội phạm và người phạm
tội mà VKS đã truy tố.
Như vậy có thể quan niệm rằng, nội dung THQCT là việc VKS sử
dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc lập nhằm truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội, không để lọt người, lọt tội, được thực hiện
ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng.
Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khi THQCT trong giai đoạn
điều tra tội phạm, VKS có nhiệm vụ: áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy
định để bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử
lý kịp thời, không để lọt người phạm tội, không làm oan người vô tội; bảo
đảm không để một người nào bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các
quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm một
cách trái pháp luật, bảo đảm việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội là có căn cứ và đúng pháp luật (Điều 23 và Điều 141 BLTTHS). Để

thực hiện mục đích THQCT, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã quy định
cho VKS những quyền năng pháp lý:
- Quyết định việc khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật.
- Yêu cầu thủ trưởng CQĐT thay đổi Điều tra viên. Nếu hành vi của
Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự;
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết
định của CQĐT theo quy định của pháp luật;
- Hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT;

22


- Quyết định truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều
tra; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
1.1.2. Khái niệm kiểm sát điều tra
Kiểm sát điều tra nói một cách đầy đủ đó là kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Kiểm sát hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là các hoạt động liên quan đến quá trình giải quyết
các vụ án và các tranh chấp bao gồm các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu,
chứng cứ như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành các quyết định của
Tòa án trong cả lĩnh vực hình sự, dân sự và hành chính, kinh tế... Hoạt động
tư pháp là hoạt động trước hết phải được tiến hành bởi các cơ quan tư pháp.
Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong hai chức năng hiến định
của VKS nhân dân. Theo quy định của pháp luật, VKS thực hiện chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn liền với các
lĩnh vực khác nhau bao gồm kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiến hành

tố tụng hình sự và tố tụng tư pháp khác trong lĩnh vực giải quyết các vụ án
dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động… Gắn liền với tố
tụng hình sự là các công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều
tra các vụ án hình sự của CQĐT - KSĐT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc xét xử các vụ án hình sự - Kiểm sát xét xử và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong việc thi hành các bản án và các quyết định của Tòa án
nhân dân.
Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự là
nhằm đảm bảo các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng pháp
luật, đúng người, đúng tội, không để xảy ra việc oan, sai hay bỏ lọt tội phạm.
Trong các lĩnh vực tố tụng khác, mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp
là nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình và các
việc khác theo đúng quy định của pháp luật, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Mục đích chung của hoạt

23


động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS là nhằm đảm bảo cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án
hình sự và các tranh chấp khác.
Kiểm sát điều tra
Theo quy định của pháp luật, trong lĩnh vực hình sự, VKS thực hiện
chức năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các
công tác khác nhau gắn với các giai đoạn tố tụng khác nhau: THQCT và kiểm
sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT; THQCT
và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án hình sự và các quyết định
của Tòa án nhân dân (Điều 4 Luật Tổ chức VKSND năm 2014). Ứng với mỗi
công tác này, Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định một chương riêng biệt.

Trong đó, tại chương II, các mục 2 (gồm các điều 14, 15) quy định cụ thể về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi THQCT và kiểm sát tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQĐT (công tác thứ nhất) với
tiêu đề "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự".
Sau khi vụ án được khởi tố, giữa các chủ thể tiến hành tố tụng và
những người tham gia tố tụng phát sinh những quan hệ tố tụng, các quan hệ
này tồn tại trong suốt cả quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn
điều tra thì đó là mối quan hệ giữa CQĐT và VKS, là các hoạt động của
CQĐT được thực hiện bởi các Điều tra viên, là các hành vi của các Điều tra
viên, là các quyết định của CQĐT, là hành vi của những người tham gia tố
tụng... Đồng thời với sự xuất hiện của các hoạt động tố tụng cũng xuất hiện
đòi hỏi có sự giám sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật
được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh.
Nội dung của KSĐT chính là các nhiệm vụ và quyền hạn mà pháp
luật tố tụng hình sự quy định khi KSĐT. Theo Điều 113 BLTTHS, nội dung
của KSĐT là: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc
lập hồ sơ vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những

24


người tiến hành và tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền
điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm
pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm
minh Điều tra viên có vi phạm kỷ luật khi tiến hành điều tra…

1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
Đây cũng là một vấn đề đã từng có nhiều quan điểm chưa thống nhất
về cả lý luận và thực tiễn. Có quan điểm cho rằng, THQCT và KSĐT là hai
chức năng độc lập của VKS, cần được phân biệt rạch ròi. Bởi lẽ, bản thân

hoạt động công tố của VKS cũng cần đặt dưới sự kiểm sát gắt gao, chặt chẽ,
vì chính hoạt động này cũng là một hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều
tra. Từ đó phải có sự phân định rõ ràng về nhận thức, đồng thời về mặt tổ
chức cần hình thành các bộ phận độc lập trong VKS để thực hiện từng chức
năng. Xa hơn nữa, cần xác định VKS chỉ làm chức năng công tố và gọi tên là
Viện công tố, chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp giao cho cơ quan chức
năng khác. Nhưng cũng có quan điểm lại hoàn toàn trái ngược khi cho rằng
hai chức năng này không thể tách rời, dẫn tới không thể phân biệt được các
hoạt động như: khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định việc bắt, tạm giữ, tạm
giam... là hoạt động công tố hay KSĐT. Những người theo quan điểm này
đưa ra phương án gắn kết giữa điều tra và công tố làm một, không tách bạch,
xét lẻ hoạt động điều tra và hoạt động công tố thành các hoạt động tố tụng
khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là cơ quan công tố thực hiện luôn công
việc điều tra mà không thực hiện công tác KSĐT.
Thời gian gần đây các công trình nghiên cứu cũng như trong khoa học
pháp lý đã đi đến tư tưởng khá thống nhất khi cho rằng THQCT và KSĐT là
hai chức năng của VKS, giữa chúng có đối tượng, phạm vi và nội dung hoạt
động khác nhau. Nếu như đối tượng tác động của quyền công tố là tội phạm
và người phạm tội. Đối tượng của kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hành vi
và quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, của những người tham gia tố
tụng. Mục đích và nhiệm vụ của THQCT là làm sáng tỏ tội phạm đã xảy ra,

25


×