Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện Kiểm sát nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HUYỀN

THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THỊ HUYỀN

THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số

: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí



HÀ NỘI - 2015

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Lê Thị Huyền

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU


Chương 1:

1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU

7

TRA CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN

1.1.

Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện

7

kiểm sát nhân dân
1.1.1. Thẩm quyền điều tra

7

1.1.2. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện

8

kiểm sát nhân dân
1.2.

Mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng điều tra


12

1.2.1. Về chức năng điều tra

12

1.2.2. Về chức năng công tố

13

1.2.3. Mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng điều tra

15

1.3.

Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

16

nhân dân ở Việt Nam từ 1945 đến nay
1.3.1. Giai đoạn trước khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân - Từ

17

năm 1945 đến năm 1959
1.3.2. Giai đoạn 1960 - 1988 (trước khi ban hành Bộ luật tố tụng

17


hình sự)
1.3.3. Giai đoạn 1988 - 2003 (theo quy định của Bộ luật Tố tụng hinh sự

19

năm 1988 và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự năm 1989)
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay (theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003)

4

21


1.4.

Một số mô hình về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra

24

thuộc cơ quan Công tố/ Viện kiểm sát ở một số nước trên thế giới
1.4.1. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan công tố trong pháp luật tố

25

tụng hình sự của các nước theo truyền thống pháp luật án lệ
(Anh, Hoa Kỳ)
1.4.2. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan công tố trong pháp luật tố


27

tụng hình sự của các nước theo truyền thống pháp luật Châu
Âu lục địa (Pháp, Đức)
1.4.3. Thẩm quyền điều tra của Cơ quan công tố trong pháp luật tố

30

tụng hình sự của Trung Quốc và Nhật Bản
Chương 2: QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

34

VỀ THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA - VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

2.1.

Pháp luật hiện hành về Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

2.1.1. Các quy định pháp luật hiện hành về Cơ quan điều tra Viện

34
34

kiểm sát nhân dân
2.1.2. Một số điểm vướng mắc trong các quy định pháp luật hiện

41


hành liên quan đến việc thực hiện thẩm quyền của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân
2.2.

Thực tiễn việc thực hiện thẩm quyền của Cơ quan điều tra

46

Viện kiểm sát nhân dân
2.2.1. Những kết quả đã đạt được

46

2.2.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân

51

Chương 3: HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG

55

GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC
THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
- VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI ĐẤT NƢỚC VÀ CẢI CÁCH TƢ PHÁP

3.1.

Cơ sở và định hướng về sự cần thiết mở rộng thẩm quyền của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân


5

55


3.1.1. Cơ sở về sự cần thiết mở rộng thẩm quyền của Cơ quan điều

55

tra Viện kiểm sát nhân dân
3.1.2. Định hướng cho việc mở rộng thẩm quyền của Cơ quan điều

64

tra Viện kiểm sát nhân dân
3.2.

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của Cơ quan điều tra

70

Viện kiểm sát nhân dân
3.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện thẩm quyền

75

điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

3.3.1. Đổi mới công tác tiếp nhận, thu nhập, phân loại, xử lý tố

76

giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
3.3.2. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Cơ quan điều tra Viện kiểm

78

sát nhân dân với các cơ quan khác trong hoạt động điều tra
các tội xâm phạm hoạt động tư pháp
3.3.3. Đổi mới hoạt động của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân

80

3.3.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, Điều tra viên Cơ quan

81

điều tra Viện kiểm sát nhân dân
3.3.5. Tiến hành đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất, trang bị các

83

phương tiện và điều kiện làm việc
3.3.6. Định kỳ tổ chức các buổi hội thảo, tiến hành sơ kết, tổng kết

84

rút kinh nghiệm góp phần hoàn thiện lý luận nâng cao chất

lượng điều tra, xử lý tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp
KẾT LUẬN

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

87

6


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

TAND

: Tòa án nhân dân


TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

7


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Tổng số tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố do CQĐT

47


bảng
2.1

VKSNDTC tiếp nhận từ năm 2008 đến năm 2014
2.2

Tỷ lệ các loại tội phạm mà CQĐT VKSNDTC đã khởi
tố, điều tra từ năm 2008 đến năm 2014

8

48


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng và trưởng thành của ngành Kiểm sát nhân
dân Việt Nam từ năm 1960 đều ghi nhận trong tổ chức bộ máy của Viện kiểm
sát nhân dân (VKSND) có Cơ quan điều tra (CQĐT) và hoạt động điều tra các
vụ án hình sự luôn được xác định là một hoạt động không thể thiếu trong việc
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của VKSND.
Cũng như những CQĐT trong Công an nhân dân và CQĐT trong
Quân đội nhân dân, CQĐT trong VKSND cũng có thẩm quyền riêng biệt
trong việc điều tra các vụ án hình sự.
Theo quy định của pháp luật hiện hành {Điều 110 Bộ luật Tố tụng
hình sự (BLTTHS); Điều 3 khoản 2 Luật tổ chức VKSND năm 2002} thì
CQĐT trong Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) có thẩm quyền
"Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.

Thẩm quyền của CQĐT trong ngành Kiểm sát nhân dân đang là một
vấn đề còn nhiều tranh luận. Việc xác định chính xác thẩm quyền của Cơ
quan này có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành
Kiểm sát nói riêng và trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung. Hơn nữa, theo quy định hiện hành đối tượng điều tra của CQĐT
VKSNDTC là người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp, đây là nhóm
đối tượng đều có trình độ về pháp luật nhất định, nên việc nghiên cứu thẩm
quyền của CQĐT trong ngành Kiểm sát có ý nghĩa rất tích cực trong quá trình
làm trong sạch vững mạnh nền tư pháp và vấn đề phòng chống tham nhũng.
Hiện nay, có quan điểm cho rằng chỉ nên giữ nguyên thẩm quyền của
CQĐT trong ngành Kiểm sát như quy định hiện nay, có quan điểm cho rằng
nên mở rộng thẩm quyền của CQĐT trong ngành Kiểm sát, nhưng cũng có

9


quan điểm cho rằng không cần thiết phải tổ chức CQĐT trong Viện kiểm sát
(VKS). Có thể nói, vấn đề về thẩm quyền của CQĐT trong ngành Kiểm sát,
đặc biệt là việc có nên hay không việc mở rộng thẩm quyền của CQĐT trong
ngành Kiểm sát nhân dân đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm của các
nhà hoạch định chính sách pháp luật, các nhà khoa học và các nhà hoạt động
thực tiễn.
Ngoài ra, trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện công cuộc đổi mới đất
nước đặt ra yêu cầu tiếp tục phát huy dân chủ, xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để đáp ứng yêu cẩu đó, Đảng ta đã xác định cải
cách tư pháp là chủ trương mang tính chiến lược, nhằm xây dựng nền tư pháp
trong sạch vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, dựa theo tinh thần
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020" với nội dung "Tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra; gắn công tố với hoạt động điều tra" [12]. Do vậy, việc nghiên

cứu vấn đề thẩm quyền CQĐT trong ngành Kiểm sát nhân dân cũng như kết quả
việc thực hiện thẩm quyền của Cơ quan này trên thực tiễn, đưa ra những giải
pháp hợp lý cho câu hỏi có nên hay không việc mở rộng thẩm quyền của CQĐT
trong ngành Kiểm sát nhân dân để từ đó nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh,
phòng chống tội phạm không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn mà còn
là luận chứng cho sự cần thiết để em lựa chọn đề tài "Thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân" làm luận văn thạc sĩ luật học.
Khi nói đến CQĐT của Ngành kiểm sát thì có hai CQĐT là: CQĐT
của VKSNDTC và CQĐT của VKS Quân sự trung ương, tuy nhiên trong giới hạn
của luận văn này chỉ đề cập và nghiên cứu về thẩm quyền của CQĐT VKSNDTC.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề thẩm quyền của CQĐT trong ngành kiểm sát nhân dân hiện đang
có rất nhiều ý kiến khác nhau. Ở Việt Nam hiện cũng đã có nhiều học giả,
cũng như những người làm thực tiễn nghiên cứu về vấn đề này, điển hình như:

10


- Đề tài khoa học cấp bộ, Một số vấn đề về quyền công tố của Viện
kiểm sát, Viện Khoa học kiểm sát - VKSNDTC, năm 1999;
- PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Một số vấn đề về đổi mới tổ chức và
hoạt động của cơ quan điều tra, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề
về cải cách tư pháp và pháp luật, năm 2013;
- Mai Văn Minh - Phó thủ trưởng CQĐT VKS Quân sự Trung ương,
Sự cần thiết phải tiếp tục tổ chức Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân
dân theo yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát, số 19/2013;
- Trần Văn Lan, Cần sớm sửa đổi quy định về thẩm quyền điều tra và
kiểm sát điều tra của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong quân đội, Tạp
chí Kiểm sát, số 8/2011;
- PGS.TS Nguyễn Thái Phúc, Sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự

năm 2003 về việc phân định thẩm quyền điều tra, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2013;
- ThS. Lê Tiến Châu, Một số vấn đề về cơ quan điều tra, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 5/2005;
Ngoài ra, còn có các bài nghiên cứu của một số tác giả trong các cuộc
hội thảo về CQĐT VKSND:
- GS.TS Đỗ Ngọc Quang, Những yêu cầu đặt ra đối với Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng
và tiêu cực trong hoạt động tư pháp, bài tham luận tại Hội thảo khoa học về
"Thực trạng, giải pháp phòng, chống tham nhũng và tiêu cực trong hoạt động
tư pháp của ngành Kiểm sát nhân dân", tháng 9/2013;
- GS.TS Trần Ngọc Đường, Đổi mới Cơ quan điều tra của Viện kiểm
sát trong cải cách tư pháp đang tiến hành ở nước ta, bài tham luận tại hội
thảo khoa học về "Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (sửa đổi) - về chế
định Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân";
- PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí, Tổ chức và hoạt động điều tra vụ án
hình sự của Viện kiểm sát/ Viện công tố ở một số nước trên thế giới - những

11


kinh nghiệm rút ra đối với việc đổi mới Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân
dân, bài tham luận tại hội thảo khoa học về "Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân (sửa đổi) - về chế định Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân";...
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta
đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề thẩm quyền của CQĐT
VKSND, những công trình nghiên cứu này mới chỉ được thể hiện bằng các
bài báo khoa học hay các bài tham luận, vấn đề nghiên cứu này hầu như cũng
chỉ được lồng ghép và là một phần của các bài nghiên cứu trên đây. Như vậy,
với tình hình nghiên cứu trên đây lại một lần nữa cho phép khẳng định việc
lựa chọn đề tài "Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát

nhân dân" làm luận văn thạc sĩ luật học là hợp lý và cần thiết vừa có tính lý
luận, vừa có tính thực tiễn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện
hành về thẩm quyền của CQĐT VKSND, đưa ra sự so sánh với quy định của
một số nước trên thế giới, để từ đó giải quyết câu hỏi có nên hay không việc
mở rộng thẩm quyền của CQĐT VKSND, cũng như những giải pháp để nâng
cao hiệu quả thực tiễn của việc thực hiện thẩm quyền của CQĐT VKSND.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung vào các nhiệm
vụ sau:
- Khái quát quá trình xây dựng và trưởng thành của CQĐT VKSND
qua các thời kỳ, từ năm 1960 đến nay, cũng như sự thay đổi về thẩm quyền
của CQĐT VKSND qua các thời kỳ để rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Trên cơ sở tổng hợp các bài viết, quan điểm của các tác giả, đưa ra
sự so sánh về quy định thẩm quyền CQĐT VKSND với quy định của một số
nước trên thế giới;

12


- Nghiên cứu các quy định cụ thể về thẩm quyền của CQĐT VKSND, từ
đó rút ra những nhận xét, đánh giá;
- Đưa ra những số liệu thực tiễn để từ đó đánh giá hiệu quả hoạt động
của CQĐT VKSND, đưa ra những giải pháp hợp lý để hoàn thiện các quy
định về thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND và giải quyết vấn đề có nên
hay không việc mở rộng thẩm quyền của CQĐT VKSND.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và giải quyết những vấn đề xung quanh các quy

định hiện hành về thẩm quyền của CQĐT VKSND, so sánh với quy định pháp
của một số nước trên thế giới kết hợp với đánh giá hiệu quả thực tiễn việc
thực hiện thẩm quyền của CQĐT VKSND và đưa ra những giải pháp để nâng
cao hiệu quả hoạt động của cơ quan này.
Ngoài ra, luận văn cũng có tham khảo những bài học kinh nghiệm của
một số nước trên thế giới.
Về thời gian: Số liệu được lấy từ năm 2008 đến năm 2014.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài về "Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân" được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây
dựng Nhà nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp
được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI và các
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Trong quá trình thực hiện đề tài, với mỗi nội dung, sẽ sử dụng phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp phân tích
và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương
pháp quy nạp; phương pháp thống kê để nghiên cứu.

13


5. Tính mới và những đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng trên cả hai mặt
lý luận và thực tiễn, đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về "Thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân". Những điểm mới cơ bản và những đóng
góp của luận văn là:

- So sánh về hiệu quả việc thực hiện thẩm quyền của CQĐT VKSND
qua các thời kỳ;
- Tổng hợp các quan điểm khoa học trong và ngoài nước về vấn đề
thẩm quyền của CQĐT VKSND;
- Nghiên cứu đưa ra những số liệu thực tiễn để làm sáng tỏ hiệu quả
hoạt động của CQĐT VKSND trong giai đoạn hiện nay, từ đó giải quyết vấn
đề có nên hay không việc mở rộng thẩm quyền cho cơ quan này
- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề xuất các định hướng và giải pháp
hoàn thiện các quy định pháp luật về thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND
và nâng cao hiệu quả việc thực hiện thẩm quyền của cơ quan này trong giai đoạn
xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
nhân dân.
Chương 2: Quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về thẩm quyền
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện các quy định pháp luật và những giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân trong công cuộc đổi mới đất nước và cải cách tư pháp.

14


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN


1.1.1. Thẩm quyền điều tra
Điều tra là hoạt động có mục đích khám phá sự thật khách quan phục
vụ nhu cầu của con người. Trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm, điều tra là
hoạt động khám phá, phát hiện tội phạm. Hoạt động điều tra được nhìn nhận
và quy định khác nhau ở các quốc gia phụ thuộc vào quan điểm chính trị, chính
sách hình sự, trình độ và cách thức tổ chức bộ máy phòng, chống tội phạm ở
từng nước. Pháp luật hình sự của các nước trên thế giới cũng có nhiều quan
điểm khác nhau về khái niệm điều tra, tuy nhiên, đặc điểm chung của các
quan điểm đó là nêu bật được nội dung bản chất của hoạt động điều tra là hoạt
động phát hiện, thu thập, củng cố, ghi nhận, thu giữ những thông tin của vụ án.
Ở Việt Nam, điều tra được coi là một giai đoạn của tố tụng hình sự (TTHS),
có nhiệm vụ điều tra thu thập chứng cứ, chứng minh mọi tình tiết của vụ án,
làm rõ tội phạm và hành vi phạm tội của bị can cũng như vấn đề khác có liên
quan. Kết quả điều tra là cơ sở để VKS quyết định truy tố bị can trước Tòa án
hoặc đình chỉ vụ án, cũng trên cơ sở kết quả điều tra, tòa án mở phiên tòa
thẩm định các chứng cứ đã thu thập làm cơ sở cho việc ra bản án và các quyết
định của tòa án. Nói cách khác, CQĐT có chức năng điều tra làm rõ vụ án
phục vụ cho việc truy tố và xét xử trong TTHS. Để thực hiện chức năng này,
nhà nước hình thành hệ thống các CQĐT với mục đích bảo đảm hoạt động
điều tra nhanh chóng và chính xác. Khi đã hình thành hệ thống các CQĐT thì
việc phân định thẩm quyền điều tra là đòi hỏi tất yếu. Việc phân định thẩm
quyền điều tra không những xác định phạm vi thẩm quyền của từng CQĐT

15


mà còn tránh sự chồng chéo về thẩm quyền hoặc bỏ lọt vụ việc mà không có
CQĐT nào tiến hành.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thẩm quyền điều tra nói chung là quyền xem
xét để kết luận và định đoạt một vấn đề theo pháp luật (như thẩm quyền xét xử

của Tòa án...). Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì thẩm quyền là quyền được
thực hiện những hành vi và ra quyết định pháp lý nhất định của chủ thể theo
quy định của pháp luật. Nói cách khác, thẩm quyền là quyền hạn của một cơ
quan, một tổ chức hoặc một cá nhân được làm một việc hoặc một loại công
việc trong phạm vi pháp luật cho phép, phạm vi đó là giới hạn của thẩm quyền.
Trong lĩnh vực TTHS, sự phân định thẩm quyền được thiết lập giữa các cơ
quan tố tụng và người tiến hành tố tụng. Từ góc độ TTHS thì thẩm quyền được
hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ thực hiện các hành vi tố tụng và ra
quyết định tố tụng của cơ quan, tổ chức cá nhân được pháp luật TTHS quy
định. Cũng theo Từ điển Tiếng Việt thì điều tra là những hành động "tìm hiểu,
xem xét để biết rõ sự thật". Như vậy, thẩm quyền điều tra trong tố tụng hình sự
là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ tìm hiểu hành vi phạm tội, làm rõ những
chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo, xác định hậu quả phạm tội.
Để thực hiện các biện pháp bảo đảm bồi thường, tìm ra nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan
áp dụng các biện pháp phòng ngừa.
1.1.2. Khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân
Sau khi VKSND được thành lập vào năm 1960, ngày 16.4.1962, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh tổ chức VKSNDTC. Tại
Điều 5 của Pháp lệnh quy định về bộ máy làm việc của VKSNDTC đã quy
định rõ: VKSNDTC gồm 8 đơn vị, trong đó có Vụ Điều tra thẩm cứu có thẩm
quyền điều tra những vụ án mà CQĐT không đảm bảo khách quan và kể từ đó

16


cho đến nay, theo quy định của pháp luật thì trong cơ cấu, tổ chức bộ máy của
VKSND luôn có CQĐT có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự.

Cơ quan điều tra thuộc VKSND là một thành phần trong hệ thống các
cơ quan chuyên trách điều tra tội phạm ở nước ta. Theo quy định tại khoản 3
Điều 110 BLTTHS 2003: "Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội
là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp" [33]. Cùng với các CQĐT trong lực
lượng Công an nhân dân và Quân đội nhân dân, CQĐT của VKSND cũng là
lực lượng tiên phong trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nếu hoạt động
của CQĐT trong lực lượng Công an nhân dân nhằm mục tiêu bảo đảm, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo về tính mạng, tài sản, các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, thì hoạt động của CQĐT VKSND lại
nhằm giúp cho việc thực hiện tốt chức năng của ngành Kiểm sát là: Thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất theo Điều 107 Hiến
pháp hiện hành.
Từ năm 1960 đến năm 1978, hoạt động điều tra của VKSND được
thực hiện ở cả ba cấp: Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện. Giai đoạn này tuy
chưa có lực lượng điều tra chuyên trách nhưng công tác điều tra của VKS đã
đạt được những thành tích nổi bật. Ngay từ giai đoạn đầu khi mới thành lập
ngành Kiểm sát, hoạt động điều tra của VKS đã thể hiện rõ vị trí quan trọng
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
Sau khi BLTTHS đầu tiên của nước ta được ban hành năm 1988, ngày
04.4.1989, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh tổ chức điều
tra hình sự, ngay tại Điều 1 của Pháp lệnh này đã quy định rõ: CQĐT của
VKSND là một trong hệ thống các CQĐT của nước ta. Giai đoạn này CQĐT
VKSND được tổ chức ở hai cấp: Cục điều tra của VKSNDTC (được thành lập
trên cơ sở Vụ điều tra thẩm cứu) và có 36 phòng điều tra đặt ở các VKS cấp

17



tỉnh, thành phố. VKS quân sự có Phòng điều tra và 18 Ban điều tra thuộc
VKS quân sự cấp quân khu. Ở giai đoạn này, CQĐT VKSND đã phát huy và
thể hiện rất tốt vai trò của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm, đã phát hiện, điều tra, xử lý được một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng,
góp phần củng cố lòng tin của nhân dân vào các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Chỉ tính từ năm 1992 đến năm 1996 CQĐT VKSND hai cấp đã tiếp nhận
2.978 tin báo, tố giác tội phạm; trong đó có 1.520 tin có nội dung về xâm
phạm hoạt động tư pháp, 460 tin có nội dung về xâm phạm quyền tự do dân
chủ của nhân dân; CQĐT VKSND đã khởi tố 559 vụ/1.042 bị can, đã xử lý
nhiều vụ án nghiêm trọng, phức tạp được dư luận quan tâm như: Vụ dùng
nhục hình và làm sai lệch hồ sơ vụ án xảy ra tại Công an thành phố Hạ Long,
tỉnh Quảng Ninh; vụ tha người trái pháp luật và nhận hối lộ xảy ra tại Công an
tỉnh Vĩnh Long; vụ bắt giữ người trái pháp luật xảy ra tại Công an huyện Hà
Trung, Thanh Hóa... [26, tr. 19].
Ở giai đoạn này, vai trò của CQĐT VKSND được thể hiện rất rõ nét
thông qua hoạt động điều tra có hiệu quả, với kết quả điều tra trên, CQĐT
VKSND đã góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ tư pháp, hạn chế tình
trạng bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội, ngoài ra còn khẳng định được
vị trí quan trọng và không thể thay đổi của CQĐT VKSND trong hệ thống các
CQĐT ở nước ta.
Từ năm 2003 cho đến nay (sau khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực
cùng với Luật tổ chức VKSND năm 2002 và Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình
sự năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2006 và 2009) thì CQĐT của VKS
chỉ tổ chức ở VKSNDTC. So với quy định của BLTTHS năm 1988 thì cơ cấu,
tổ chức của CQĐT VKSND đã thu hẹp hơn rất nhiều, tuy nhiên CQĐT
VKSND vẫn khẳng định được vị trí của mình trong công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm cũng như vai trò quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp,
hướng đến một nền tư pháp trong sạch vững mạnh. Đặc biệt là trong những

18



năm gần đây, số lượng, chất lượng điều tra ngày càng được nâng lên, các vụ
án đều được giải quyết đúng thời hạn, không để xảy ra oan sai hay bỏ lọt tội
phạm, trong đó đã phát hiện, khởi tố và đề nghị truy tố được nhiều vụ án có
tính chất phức tạp như vụ Ngô Thanh Phong cùng 2 bị can khác phạm tội lợi
dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, do sử dụng tiền tang vật
của vụ án để gửi ngân hàng thu lợi hơn 1,2 tỷ đồng xảy ra ở Tiền Giang; vụ
Nguyễn Hồng Đông, Ma Đình Chinh phạm tội nhận hối lộ... Ngoài ra, CQĐT
VKSND đã ban hành 150 kiến nghị đến các cơ quan hữu quan yêu cầu ngăn
ngừa và khắc phục những vi phạm của các cơ quan tư pháp [26, tr. 21].
Thông qua các hoạt động thực tiễn từ khi thành lập cho đến nay, có
thể thấy CQĐT của VKSNDTC đã khẳng định được ví trí, vai trò đặc biệt
quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như trong
công cuộc xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh với tinh thần của
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị: "Tăng cường
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra; gắn công tố với hoạt động
điều tra" [12].
Từ những phân tích về vị trí, vai trò của CQĐT VKSND ở trên, tác giả
luận văn đưa ra khái niệm thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND như sau:
Thẩm quyền điều tra của CQĐT VKSND trong TTHS là tổng hợp các quyền và
nghĩa vụ trong việc xác định, làm rõ mọi tình tiết của vụ án làm cơ sở truy tố,
xét xử người phạm tội trong phạm vi, giới hạn của pháp luật.
Khi nghiên cứu về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSND,
cần có sự phân biệt giữa thẩm quyền điều tra của VKS và thẩm quyền điều tra
của CQĐT VKSND. Theo BLTTHS hiện hành thì VKS được thực hiện một số
hoạt động điều tra như: Hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, đối
chất...Việc tiến hành một số hoạt động điều tra ở giai đoạn điều tra của VKS
được thực hiện với tư cách là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động điều tra, do Kiểm sát viên thực hiện. Với CQĐT VKSND thì được


19


tiến hành mọi hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật và do các Điều tra
viên của CQĐT VKSND thực hiện.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA CHỨC NĂNG CÔNG TỐ VÀ CHỨC NĂNG
ĐIỀU TRA

Cơ quan điều tra thuộc VKSND là một thành phần trong hệ thống các
CQĐT tội phạm ở nước ta, với chức năng chính là thực hiện các hoạt động
điều tra để làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, khi nói đến
CQĐT thuộc VKSND cần có sự nhận thức đúng đắn về chức năng công tố và
chức năng điều tra.
1.2.1. Về chức năng điều tra
Hiện nay, vẫn chưa có nhận thức thống nhất về khái niệm hoạt động
điều tra, khái niệm này cũng chưa được hướng dẫn, giải thích chính thức bởi
các cơ quan có thẩm quyền. Trong BLTTHS hiện hành cũng chưa có điều luật
nào giải thích hoặc định nghĩa về hoạt động điều tra. Do đó, vẫn còn nhiều
quan điểm khác nhau về hoạt động điều tra:
Quan điểm thứ nhất cho rằng:
Điều tra là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự,
trong đó Cơ quan điều tra áp dụng các biện pháp do Luật tố tụng tố
tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và người thực hiện
hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra, quyết
định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án [9].
Quan điểm thứ hai cho rằng: "Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn
tố tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do
Bộ luật Tố tụng hình sựquy định để xác định tội phạm và người phạm tội" [14].
Quan điểm thứ ba cho rằng:

Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự,
trong đó cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao một số
hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình

20


sự quy định để thu thập các chứng cứ chứng minh tội phạm, người
phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở
cho việc xét xử của Tòa án [3].
Quan điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai phù hợp với công tác điều
tra của CQĐT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, theo luật
thực định, như quy định trong Điều 65, khoản 1 BLTTHS năm 2003, CQĐT
không phải là chủ thể duy nhất có thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều
tra do đó hoạt động điều tra không phải chỉ gồm hoạt động của CQĐT mà còn
là hoạt động của một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ điều tra, hoạt động
điều tra của VKS và hoạt động thẩm tra chứng cứ của Tòa án [24, tr. 10].
Quan điểm thứ ba là quan điểm nhận được thừa nhận rộng rãi nhất, cá
nhân em cũng đồng tình với quan điểm này, khái niệm này đã thể hiện một
cách tổng quát và đầy đủ nhất về hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra vụ án
hình sự được tiến hành một cách công khai theo các trình tự, thủ tục và biện
pháp do Luật TTHS quy định. Hoạt động điều tra được thực hiện ngay từ khi
tội phạm xảy ra và là bộ phận hợp thành chức năng buộc tội của Nhà nước hỗ
trợ cho cơ quan công tố thực hiện việc buộc tội và đưa vụ án ra Tòa xét xử.
1.2.2. Về chức năng công tố
Về khái niệm "quyền công tố" hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác
nhau. Mỗi quan điểm đều có những cách lập luận riêng. Tuy nhiên, những
quan điểm này hoặc là đánh đồng quyền công tố với chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKS, dẫn đến tình trạng mở rộng phạm vi quyền công
tố vượt khỏi lĩnh vực TTHS sang các lĩnh vực tư pháp khác như dân sự, kinh

tế, lao động, hành chính hoặc coi quyền công tố là một quyền năng, một hình
thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS, dẫn
đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố như là một hoạt động độc lập
của VKS nhân danh quyền lực công hoặc quá thu hẹp phạm vi quyền công tố,
coi quyền công tố là quyền của VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực
hiện việc buộc tội tại phiên tòa hình sự sơ thẩm [40, tr. 21-34].

21


Ta biết rằng mọi hoạt động tố tụng đều được tiến hành trước hết và
chủ yếu vì lợi ích nhà nước, lợi ích chung của toàn xã hội. Do đó, hoạt động
cơ bản của các cơ quan tiến hành tố tụng là nhằm phát hiện tội phạm, xác định
và xử lý người phạm tội.
Mặt khác, hoạt động TTHS luôn tồn tại ba chức năng tố tụng cơ bản:
buộc tội; bào chữa (gỡ tội) và xét xử [15]. Buộc tội thực chất là hoạt động
truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người phạm tội. Bên buộc tội,
đại diện của cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền
đưa ra lời cáo buộc đối với những cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ phải đưa ra
những bằng chứng chứng minh cho sự cáo buộc đó. Sự buộc tội nhân danh
nhà nước, hay nói cách khác là nhân danh công quyền, chỉ phát sinh khi có
hành vi phạm tội xảy ra và sự buộc tội nhân danh công quyền này được gọi là
quyền công tố.
Như vậy, quyền công tố là quyền nhân danh nhà nước thực hiện việc
truy cứu TNHS đối với người phạm tội, nên đối tượng của quyền công tố là
tội phạm và người phạm tội; nội dung của quyền công tố là sự buộc tội đối
với người đã thực hiện hành vi phạm tội; phạm vi quyền công tố bắt đầu từ
khi tội phạm được thực hiện và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật,
không bị kháng nghị [15].
Khi nhắc đến chức năng công tố cũng cần thiết phải đề cập đến khái

niệm thực hành quyền công tố.
Cũng như khái niệm về "quyền công tố", ở Việt Nam, khái niệm "thực
hành quyền công tố" cũng như nội dung, phạm vi của nó còn ít được đề cập
đến và chưa rõ ràng. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài ngành kiểm sát
nhân dân thời gian qua thường chỉ đề cập một số biện pháp pháp lý để nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố, hoặc chỉ nêu ra một số biện pháp
pháp lý như: lập cáo trạng và luận tội trước phiên tòa sơ thẩm hình sự và coi
đó là thực hành quyền công tố.

22


Xuất phát từ bản chất quyền công tố là quyền nhân danh quyền lực
Nhà nước thực hiện việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội, nên thực hành
quyền công tố chính là thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết theo quy định
của pháp luật TTHS để truy cứu TNHS người phạm tội, đưa người phạm tội ra
xét xử trước Tòa án và đưa ra những căn cứ để chứng minh cho sự buộc tội đó.
Tuy vậy, xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố
đã được pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực hiện
việc truy cứu TNHS đối với kẻ phạm tội chính là thực hành quyền công tố.
Do vậy, thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng
pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu TNHS đối
với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử [40, tr. 57].
Để thực hiện việc buộc tội đối với người đã thực hiện hành vi phạm
tội, pháp luật đã quy định các hoạt động tố tụng, như: khởi tố vụ án, khởi tố bị
can, tiến hành điều tra thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của
người đã thực hiện hành vi đó, buộc tội đối với bị can, bị cáo và bảo vệ quan
điểm truy tố trước Tòa. Việc sử dụng các quyền năng pháp lý để thực hiện các
hoạt động tố tụng này chính là nội dung của thực hành quyền công tố.
1.2.3. Mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng điều tra

Trong lịch sử thành lập và xây dựng ngành Kiểm sát trong hơn 50
năm qua, từ năm 1960 đến nay, tuy pháp luật có điều chỉnh thay đổi về thẩm
quyền điều tra nhưng công tác điều tra tội phạm luôn được xác định là một
trong những công tác quan trọng để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành
Kiểm sát, đảm bảo phát huy hiệu quả chức năng công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật. Mối quan hệ giữa chức năng công tố và chức năng điều tra đã
được thực tiễn chứng minh và thể hiện dưới hai khía cạnh sau:
Thứ nhất: Xuất phát từ bản chất quyền công tố là quyền nhân danh
quyền lực Nhà nước thực hiện việc truy cứu TNHS đối với cá nhân người
phạm tội, mà trong lịch sử và hiện nay, pháp luật nước ta cũng như nhiều
nước trên thế giới đều giao cho cơ quan thực hiện quyền công tố (VKS hay

23


Viện công tố) quyền trực tiếp điều tra một số loại tội phạm trong những
trường hợp cần thiết. Nhìn chung pháp luật ở nhiều nước cũng như ở nước ta
đều giao cho VKS có quyền điều tra đối với một số loại tội phạm nhất định
(như các tội phạm về chức vụ, tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp) và coi
đó như là một cơ chế rằng buộc trách nhiệm của cơ quan thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật với nhiệm vụ đấu tranh chống bỏ
lọt tội phạm. VKS hay Viện công tố không chỉ được dừng lại ở việc phát hiện,
xử lý các vi phạm pháp luật mà cần phải đi sâu, làm rõ có hay không những
tội phạm chức vụ ẩn nấp đằng sau những vi phạm đó, góp phần kiểm soát
hiệu quả việc thực thi quyền lực nhà nước [18, tr. 40].
Thứ hai: Hoạt động điều tra và hoạt động công tố đều có chung nhiệm
vụ là làm sáng tỏ sự thật vụ án, cùng thực hiện chức năng buộc tội ngay từ
thời điểm bắt giữ người phạm tội, khởi tố bị can và trong suốt quá trình điều
tra chứ không phải chỉ ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.
Trong TTHS, việc phân định giữa hai chức năng công tố và điều tra

chỉ là tương đối, hoạt động điều tra luôn là bộ phận hợp thành của hoạt động
công tố. Như vậy, CQĐT thực hiện chức năng điều tra nhưng không có nghĩa
là không thực hiện sự buộc tội và VKS thực hiện chức năng công tố, quyết
định việc buộc tội thì không thể không có quyền điều tra. Nếu tách rời hai
chức năng công tố và điều tra là phá vỡ tính chỉnh thể, thống nhất của quá
trình TTHS [45, tr. 14]. Do đó, không nên tách biệt giữa hai chức năng điều
tra và công tố để cho rằng VKS hay Viện công tố không có chức năng điều tra
là không có cơ sở lý luận và thực tiễn.
1.3. THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA - VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN NAY

Ở nước ta, từ khi ngành Kiểm sát thành lập vào năm 1960, hoạt động
điều tra của VKS luôn được ghi nhận trong Luật tổ chức VKSND (các năm
1960, 1981, 1992, 2002 và gần đây nhất là Luật tổ chức VKSND năm 2014),
BLTTHS (năm 1988 và 2003) và một số văn bản khác.

24


Thẩm quyền của CQĐT VKSND đã có nhiều thay đổi qua các giai
đoạn sau đây.
1.3.1. Giai đoạn trƣớc khi thành lập Viện kiểm sát nhân dân - Từ
năm 1945 đến năm 1959
Sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã hình thành hệ
thống các cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan công tố, là tiền thân của VKS
ngày nay. Cơ quan công tố (Công tố viện) thời kỳ này được tổ chức trong hệ
thống Tòa án.
Thẩm quyền điều tra của Công tố viện được thể hiện trong các Sắc
lệnh số 13/SL ngày 24.01.1946 về "Cách tổ chức các Tòa án và các ngạch
thẩm phán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hòa"; Sắc lệnh số 42/SL ngày

03.4.1946; Sắc lệnh số 51/SL ngày 17.4.1946 về "Thẩm quyền của các Tòa án
và sự phân công giữa các nhân viên" và Sắc lệnh số 131/SL ngày 20.7.1946
về tổ chức Tư pháp Công an thì các hoạt động điều tra được phân công cụ thể
hơn. Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa I (họp từ 16.4 đến 29.4.1958) đã quyết
định hệ thống Tòa án và hệ thống Công tố tách khỏi Bộ Tư pháp và trực thuộc
Hội đồng Chính phủ. Trên cơ sở nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 256/TTg ngày 01.7.1959 quy định về nhiệm vụ
và tổ chức của Viện công tố. Theo quy định tại Điều 1 Nghị định 256/TTg thì
trong các hoạt động của Viện công tố có hoạt động điều tra [39].
Nhìn chung ở giai đoạn 1945 - 1959, hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử đã bước đầu hình thành, trong đó Viện công tố đã có nhiệm vụ trực tiếp
điều tra và điều tra còn chịu sự chỉ đạo của công tố đã được thể hiện một cách
rõ ràng.
1.3.2. Giai đoạn 1960 - 1988 (trƣớc khi ban hành Bộ luật tố tụng
hình sự)
Ngày 26.7.1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Lệnh số 20/L-CTN
công bố Luật tổ chức VKSND, đây là văn bản đánh dấu sự ra đời của hệ

25


×