ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THANH NHÀN
CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ
NGHIỆP TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THANH NHÀN
CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ
NGHIỆP TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI
VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số
: 603850
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS Phan Thị Thanh Thuỷ
Hà Nội – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Thanh Nhàn
i
MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan .......................................................................................... 0
Mục lục .................................................................................................. ii
Danh mục các chữ viết tắt…………………………………………….....v
Danh mục các bảng số liệu ..................................................................... v
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TAI NẠN
LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP ................................................ 6
1.1. Khái niệm chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ...................... 6
1.2. Đặc điểm pháp lý của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.... 8
1.3. Ý nghĩa của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.................. 10
1.4. Lược sử pháp luật về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở
Việt Nam ........................................................................................... 12
1.5. Các quy định của Tổ chức lao động quốc tế và một số quốc gia trên
thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................... 16
1.5.1. Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế về tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp................................................................................................. 16
1.5.2. Quy định của một số quốc gia về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp .... 18
1.5.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam .................................................... 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................. 23
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ VIỆC THỰC THI Ở VIỆT NAM ..... 24
2.1. Thực trạng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp................... 24
2.1.1. Các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam ................................ 24
ii
2.1.2. Đánh giá về các hạn chế của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
........................................................................................................... 37
2.2. Thực trạng việc thực hiện chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ................................................................................................ 45
2.2.1. Tình hình thực hiện chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ......... 45
2.2.2. Tình hình thực hiện các quy định về an toàn vệ sinh lao động ............ 47
2.2.3. Tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp .................................... 52
2.2.4. Đánh giá về các khiếm khuyết trong việc thực thi chế độ tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp ...................................................................... 61
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................. 63
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ TAI NẠN
LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP Ở VIỆT NAM .................... 65
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ................................................................................................ 65
3.2. Các giải pháp hoàn thiện chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
ở Việt Nam ........................................................................................ 67
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ........ 68
3.2.2. Giải pháp tăng cường hiệu quả việc thực thi chế độ tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp................................................................................ 75
KẾT LUẬN ....................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................... 83
PHỤ LỤC .......................................................................................... 88
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATVSLĐ
:
An toàn vệ sinh lao động
BHLĐ
:
Bảo hộ lao động
BHXH
:
Bảo hiểm xã hội
BNN
:
Bệnh nghề nghiệp
ILO
:
Tổ chức Lao động quốc tế
TNLĐ
:
Tai nạn lao động
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1
Chi trả bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Bảng 2.2
Thống kê số người hưởng trợ cấp từ Quỹ tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp
Bảng 2.3
Trang 47
Một số nghề nghiệp có tỷ lệ xảy ra tai nạn lao động
chết người cao
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Trang 46
Trang 54
10 địa phương xảy ra nhiều vụ tai nạn lao động chết
người nhất
Trang 56
Tình hình bệnh nghề nghiệp
Trang 59
v
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm trên thế
giới, và cho tới nay, BHXH đã trở thành công cụ hữu hiệu mang tính nhân
văn sâu sắc để giúp con người vượt qua những khó khăn, rủi ro phát sinh
trong cuộc sống cũng như trong quá trình lao động .Vì vậy, BHXH ngày càng
trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội của mỗi quốc gia, của mọi thể
chế Nhà nước và được thực hiện ở hầu hết các nước. Bảo hiểm tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp là một trong những nội dung của BHXH, hướng đến
đối tượng người lao động bị tai nạn lao động (TNLĐ) hay nhiễm bệnh nghề
nghiệp (BNN) trong quá trình lao động.
Theo ước tính của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), hàng năm có
khoảng 337 triệu vụ TNLĐ xảy ra trên thế giới và 2,3 triệu người chết do
bệnh liên quan đến lao động. Thiệt hại do TNLĐ và BNN ước tính khoảng
4% GDP của toàn thế giới. Ở một số nước có thu nhập cao, khoảng 40% số
người nghỉ hưu trước tuổi là bị thương tật do lao động. Các nghiên cứu tình
hình TNLĐ hàng năm trên thế giới cho thấy ở các quốc gia đang phát triển,
tần suất TNLĐ chết người là 30 - 43 người/100.000 lao động [34]. Báo cáo
của Tổ chức Y tế thế giới cũng đã cho thấy, điều kiện lao động rủi ro, có hại
đã góp phần gây ra sự hoành hành một số bệnh trên thế giới, cụ thể: 37% số
người bị bệnh đau lưng, 16% số người bị tổn thương thính lực, 11% số người
bị bệnh hen suyễn, 10% số người bị thương tật, 9% số người bị ung thư và
2% số người bị bệnh bạch cầu. Ngoài ra, điều kiện lao động xấu cũng tác
động không nhỏ đến cộng đồng xã hội, làm mỗi năm có thêm khoảng gần
310.000 người chết do bị những tổn thương liên quan đến lao động [40].
1
Tại châu Á, nhiều nước với sự phát triển năng động của nền kinh tế bắt
đầu từ thập kỷ sáu mươi của thế kỷ XX đã đem đến cho khu vực một sự khởi
sắc mới về phát triển kinh tế, xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống. Nhiều
công nghệ, kỹ thuật mới được đưa vào ứng dụng đã giải phóng sức lao động
con người, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên do quá
trình tập trung cho phát triển kinh tế và chưa coi trọng đến công tác an toàn vệ
sinh lao động (ATVSLĐ) nên số vụ TNLĐ, ốm đau, bệnh tật đã tăng nhanh.
Tại nhiều quốc gia, TNLĐ và BNN đã có thể coi như “đại dịch” [5].
Ở Việt Nam, TNLĐ và BNN đang trở thành mối lo ngại của toàn xã hội
trong lĩnh vực lao động chân tay. Tỷ lệ lao động bị TNLĐ, BNN không
thuyên giảm, trong khi đó, số vụ TNLĐ và BNN làm chết người lại ngày càng
gia tăng. Số vụ TNLĐ tăng từ 5125 vụ năm 2010 lên 5896 vụ năm 2011, số
nạn nhân tăng từ 5307 lên 6154 (gần 16%). BNN có xu hướng gia tăng cả về
số người mắc bệnh và loại bệnh. Qua khám sức khoẻ định kỳ hàng năm cho
thấy, tỷ lệ người lao động có sức khoẻ yếu và rất yếu đứng ở mức cao, gần
đây nhất là 12,9% năm 2011. [5]
Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người là vốn quý của xã hội, là lực
lượng tạo ra của cải vật chất cho xã hội và là nhân tố quan trọng trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Việc đảm bảo một môi trường
an toàn cho sản xuất cũng như có được chính sách hỗ trợ người lao động khi
họ gặp TNLĐ hay mắc BNN luôn được coi trọng. Chính vì vậy, chế độ trợ
cấp về TNLĐ và BNN đã ra đời như một tất yếu khách quan. Trải qua nhiều
năm hình thành và phát triển, BHXH nói chung và chế độ TNLĐ và BNN nói
riêng đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Hàng năm, chế độ đã chi trả
trợ cấp cho hàng nghìn người lao động, giúp cho cuộc sống của họ và gia đình
giảm bớt được phần nào khó khăn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho
nguời lao động có thể tái gia nhập vào lực lượng sản xuất xã hội. Tuy nhiên,
2
cùng với sự phát triển kinh tế, đất nước ta đang có những bước chuyển mình
mạnh mẽ, chính vì vậy, một số những quy định trong chế độ TNLĐ và BNN
đã tỏ ra không phù hợp với tình hình mới. Tình hình TNLĐ, BNN trên thực tế
cũng không ngừng gia tăng.
Chính vì vậy, khi chọn nghiên cứu đề tài “Chế độ tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam”, tác giả mong
muốn đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm khắc phục những bất cập, yếu
điểm của chính sách, chế độ hiện hành.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến BHXH và chế độ TNLĐ, BNN đã có các công trình
nghiên cứu cơ bản được công bố như sau:
1) Đề tài khoa học “Hoàn thiện phương thức tố chức, quản lý chi trả
chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN cho người tham gia BHXH”, năm 1998,
chủ nhiệm TS Dương Xuân Triệu, BHXH Việt Nam.
2) Đề tài khoa học cấp Bộ “Xây dựng quỹ Bồi thường TNLĐ và BNN”,
năm 2003, chủ nhiệm Vũ Như Văn, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
3) Đề tài khoa học cấp Bộ “Sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nội dung
các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn”, năm 2005, chủ nhiệm Trần Thị Thuý
Nga, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội.
4) Luận án “Hoàn thiện hệ thống tổ chức và hoạt động chi trả các chế
độ BHXH ở Việt Nam”, năm 2010, Nguyễn Thị Chính.
5) Luận văn tốt nghiệp “Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN- Thực trạng và
giải pháp”, năm 2010, Vũ Thị La - Đại học Luật Hà Nội.
Mặc dù các đề tài trên nghiên cứu về TNLĐ, BNN và chính sách, chế
độ đối với người bị TNLĐ, BNN, tuy nhiên các tác giả tập trung vào các khía
cạnh khác nhau của chế độ BHXH TNLĐ, BNN và chưa có đề tài nào nghiên
3
cứu một cách có hệ thống về cơ sở lý luận của chế độ TNLĐ, BNN, thực
trạng pháp luật về chế độ TNLĐ, BNN và việc thực thi pháp luật về chế độ
TNLĐ, BNN, từ đó rút ra các kiến nghị và giải pháp làm cơ sở để hoàn thiện
pháp luật về chế độ này và nâng cao hiệu quả của việc thực thi chế độ TNLĐ,
BNN trên thực tế. Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Chế độ tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam”, với
mong muốn bù đắp những khoảng trống trong khoa học pháp lý về chế độ
TNLĐ, BNN.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
- Hệ thống hoá và hoàn thiện cơ sở lý luận về chế độ TNLĐ và BNN;
- Nghiên cứu chế độ, chính sách và tình hình thực hiện chế độ TNLĐ
và BNN ở Việt Nam, từ đó chỉ ra những mặt tồn tại, bất cập.
- Đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ và BNN, nhằm phát
huy hơn nữa vai trò của chế độ TNLĐ, BNN trong việc bảo đảm đời sống của
người lao động sau khi bị TNLĐ, BNN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu chế độ TNLĐ và BNN đối với lao động chân tay
ở Việt Nam. Số liệu sử dụng trong luận văn tập trung giai đoạn 2010 – 2011.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận pháp luật về chế độ TNLĐ và
BNN và tình hình thực hiện chế độ TNLĐ và BNN theo pháp luật hiện hành,
đặc biệt là sau khi có Luật BHXH năm 2006.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sự kết hợp các phương pháp
nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đặc biệt:
4
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng xuyên suốt trong quá
trình thực hiện luận văn để đánh giá, nhận xét về các quy định của pháp luật
cũng như thực tiễn tổ chức thực hiện chế độ TNLĐ, BNN.
- Phương pháp so sánh, thống kê: Tác giả sử dụng phương pháp so
sánh, thống kê để đánh giá sự phát triển, tiến bộ cũng như những hạn chế còn
tồn tại của pháp luật.
- Phương pháp lịch sử: sử dụng phương pháp này trong nghiên cứu luận
văn bằng cách đi tìm nguồn gốc phát sinh, quá trình phát triển của chế độ
TNLĐ, BNN, nhằm tìm ra xu hướng phát triển, làm cơ sở đưa ra các đề xuất.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận cơ bản về chế độ TNLĐ và BNN;
phân tích vai trò của chế độ này đối với các bên tham gia, đặc biệt là trong
điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hệ thống hoá các quy định hiện hành về chế độ TNLĐ và BNN, từ đó
chỉ ra những điểm hạn chế của các quy định này.
- Phân tích tình hình thực hiện chế độ TNLĐ và BNN ở Việt Nam.
- Đưa ra phương hướng hoàn thiện chế độ TNLĐ và BNN ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1 : Một số vấn đề lý luận về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp.
Chương 2 :
Thực trạng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và việc
thực thi ở Việt Nam.
Chương 3 :
Giải pháp nâng cao hiệu quả chế độ tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp ở Việt Nam.
5
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ TAI NẠN LAO
ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Khi nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì đời sống ngày càng
được nâng cao, các nhu cầu của con người do đó càng được đáp ứng nhiều
hơn, đầy đủ hơn. Tuy nhiên con người phải đối mặt với nhiều vấn đề phát
sinh đe doạ cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, tai nạn. Đặc biệt là khi nhiều
ngành kinh tế ra đời thu hút ngày càng nhiều người tham gia vào lực lượng
lao động, thì TNLĐ, BNN ngày một gia tăng, trở thành một trong những vấn
đề nhức nhối của xã hội.
Để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
và văn minh, chúng ta phải cân đối giữa phát triển kinh tế với đảm bảo các
vấn đề phúc lợi xã hội. Chính vì vậy mà hiện nay khi toàn dân tập trung xây
dựng kinh tế thì việc phát triển và hoàn thiện chế độ BHXH cho người lao
động cũng cần được quan tâm đúng mức, trong đó chế độ TNLĐ và BNN
được đặc biệt quan tâm.
1.1. Khái niệm chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Khi bị TNLĐ, BNN, một mặt, người lao động sẽ bị mất hoặc giảm thu
nhập từ lao động, mặt khác, các chi phí cho đời sống hàng ngày tăng lên đột
ngột, thậm chí là xuất hiện nhiều loại chi phí mới. Từ đó nhu cầu được bảo
hiểm của người lao động và gia đình họ trong các trường hợp này càng trở
nên bức xúc. Ngay sau sự ra đời của chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm
TNLĐ, BNN đã xuất hiện trong lịch sử hình thành và phát triển của BHXH
nói chung với ý nghĩa ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động đối
với những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động gắn liền với nghề nghiệp của
người lao động, đồng thời thể hiện sự quan tâm và trách nhiệm của Nhà nước
đối với lực lượng lao động và cộng đồng xã hội nói chung.
6
* Ttheo nghĩa rộng, chế độ TNLĐ, BNN là chế độ BHXH nhằm bù đắp
các chi phí chữa trị, bù đắp hoặc thay thế thu nhập từ lao động của người lao
động bị giảm hoặc mất do giảm hoặc mất khả năng lao động mà nguyên nhân
là TNLĐ hoặc BNN. Theo nghĩa này, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN của
người lao động không chỉ được bảo đảm từ nguồn quỹ bảo hiểm xã hội mà
chính người sử dụng lao động cũng phải trực tiếp thanh toán các khoản có
liên quan đến việc chữa trị, đảm bảo cuộc sống cho người lao động như: chi
phí y tế, tiền lương trong thời gian điều trị…
* Theo nghĩa hẹp, chế độ TNLĐ, BNN là chế độ bảo hiểm xã hội do
quỹ BHXH chi trả nhằm bù đắp một phần hoặc thay thế thu nhập từ lao động
của người lao động bị giảm hoặc mất do giảm hoặc mất khả năng lao động mà
nguyên nhân là TNLĐ hoặc BNN. Như vậy, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN
của người lao động được đảm bảo từ nguồn quỹ BHXH, không bao gồm các
khoản chi phí trực tiếp do người sử dụng lao động thanh toán. Tuy nhiên, hiểu
theo nghĩa này cũng cần lưu ý trường hợp người sử dụng lao động chưa tham
gia BHXH bắt buộc cho người lao động theo quy định của Nhà nước thì trách
nhiệm chi trả của quỹ bảo hiểm xã hội sẽ được dịch chuyển sang người sử
dụng lao động để bảo vệ quyền lợi của người lao động. Trong trường hợp
này, người sử dụng lao động sẽ phải trả cho người lao động một khoản tiền
ngang với mức quy định trong các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội. [29,
tr.160]
* Dưới góc độ pháp lý, hiện nay chưa có một văn bản pháp lý nào quy
định một cách cụ thể và chính thức về chế độ TNLĐ, BNN, nhưng từ những
quy định của pháp luật hiện hành, có thể rút ra rằng “chế độ TNLĐ, BNN là
một hệ thống các quy định pháp luật về TNLĐ, BNN, đối tượng, điều kiện
hưởng, mức đóng, mức hưởng, tổ chức thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN nhằm
7
bảo vệ người lao động trước những rủi ro do TNLĐ, BNN gây ra và đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc bị mất thu nhập do TNLĐ, BNN”. Vai trò của pháp luật là xác lập một
hình thức pháp lý nhất định và bảo đảm thực hiện bởi một cơ chế pháp luật
thích hợp nhằm kết hợp hài hòa các yếu tố kinh tế và xã hội trong chế độ
TNLĐ, BNN.
Chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN chỉ được coi là thực sự đầy đủ khi được
xem xét là chế độ BHXH nhằm bù đắp chi phí chữa trị và bù đắp, thay thế thu
nhập từ lao động bị mất hoặc giảm của người lao động bị TNLĐ, BNN. Bởi
vì trong thời gian người lao động nghỉ việc điều trị TNLĐ hoặc BNN, họ
không những bị mất thu nhập từ lao động mà còn phải chịu một loạt các chi
phí y tế phát sinh ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản thân và gia đình.
Những thiếu hụt về thu nhập và sự tăng lên về chi phí đã xuất hiện nhu cầu
cần được bảo hiểm của người lao động. Có thể coi những quy định của Nhà
nước về trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chi trả cho người
lao động trong giai đoạn điều trị là những quy định về trách nhiệm bảo hiểm
trực tiếp của người sử dụng lao động đối với người lao động của mình. Như
vậy, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN thực hiện hai chức năng, thứ nhất là
phòng ngừa TNLĐ, BNN, thứ hai là đảm bảo bù đắp phần thu nhập bị giảm
do mất khả năng lao động, hoặc trợ cấp cho thân nhân trong trường hợp người
lao động chết và hỗ trợ các chi phí phát sinh do TNLĐ, BNN như trợ cấp
phục vụ, chi phí y tế và những vấn đề có lien quan.
1.2. Đặc điểm pháp lý của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
Là một trong số các chế độ cơ bản của BHXH, chế độ TNLĐ, BNN
cũng mang các đặc trưng pháp lý của chế độ BHXH nói chung, bên cạnh đó
8
còn có một số đặc điểm riêng biệt. Xem xét một cách tổng quát, chế độ
TNLĐ, BNN có một số đặc điểm pháp lý sau:
a. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xuất phát từ quan hệ
pháp luật bảo hiểm xã hội mang tính bắt buộc và phát sinh trên cơ sở quan
hệ lao động.
BHXH là một trong những chính sách xã hội cơ bản của Nhà nước,
được áp dụng cho mọi người lao động. Tuy nhiên, chế độ TNLĐ, BNN lại có
tính bắt buộc đối với một số đối tượng lao động nhất định. Quy định bắt buộc
của Nhà nước nhằm mục đích ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao
động với người lao động trong và sau quá trình sử dụng lao động. Họ không
chỉ phải trả tiền lương cho người lao động khi làm việc mà còn phải đóng quỹ
BHXH để đảm bảo đời sống cho người lao động bị TNLĐ, BNN. Vì vậy, đối
với những người lao động có việc làm và thu nhập tương đối ổn định, dù
muốn hay không, khi đã tham gia quan hệ lao động thì đồng thời họ và người
sử dụng sức lao động của họ cũng phải tham gia quan hệ BHXH theo quy
định của pháp luật, trong đó có chế độ TNLĐ, BNN. Do đó, chế độ TNLĐ,
BNN phát sinh trên cơ sở của quan hệ lao động. Theo quy định hiện hành của
Luật BHXH, chế độ TNLĐ, BNN là một trong số các hình thức BHXH bắt
buộc.
b. Nghĩa vụ đóng góp vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
chủ yếu là của người sử dụng lao động
TNLĐ, BNN là những rủi ro gắn liền với quá trình lao động sản xuất.
Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các rủi ro có xu hướng
diễn ra thường xuyên hơn. Thời kỳ đầu, người lao động nếu bị TNLĐ hoặc
BNN thì phải tự mình khắc phục, hoặc dựa vào sự trợ giúp từ cộng đồng,
hoặc dựa vào sự phân xử của toà án. Dần dần những nguyên tắc xác định
trách nhiệm đền bù cho người lao động mới được đặt ra.
9
Khi đề cập đến trách nhiệm đền bù cho người bị nạn thì trước tiên
người ta nghĩ đến trách nhiệm của người sử dụng lao động bởi lẽ họ là người
thuê lao động, có quyền tổ chức và quản lý lao động, vì vậy họ phải chịu trách
nhiệm về những rủi ro xảy ra trong quá trình lao động làm ảnh hưởng đến sức
khoẻ, tính mạng, đời sống của người lao động, đặc biệt trong trường hợp
người lao động bị TNLĐ, BNN. Khi còn sức lao động, còn khả năng lao
động, người lao động tham gia quan hệ lao động, được hưởng lương và mang
lại lợi nhuận cho người lao động. Vì vậy, khi họ bị suy giảm hoặc mất khả
năng lao động thì người sử dụng lao động có một phần trách nhiệm.Vì vậy từ
cuối thế kỷ XIX, pháp luật của nhiều nước đã quy định đền bù đối với rủi ro
nghề nghiệp là trách nhiệm của người sử dụng lao động. Khi chế độ TNLĐ,
BNN ra đời, trách nhiệm đền bù của người sử dụng lao động được chuyển
sang cho tổ chức bảo hiểm với điều kiện là người sử dụng lao động phải đóng
phí cho tổ chức bảo hiểm. Vì vậy hiện nay, các nước đều quy định trách
nhiệm đóng góp vào quỹ TNLĐ, BNN là của người sử dụng lao động. Theo
quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 92 Luật BHXH, người sử dụng lao động
phải đóng vào quỹ TNLĐ, BNN với mức 1% trên quỹ tiền lương, tiền công
đóng BHXH của người lao động.
1.3. Ý nghĩa của chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
BHXH về TNLĐ, BNN đối với người lao động ở nước ta được xác
định trong hệ thống các chế độ BHXH với mục đích đảm bảo cho người lao
động trong quá trình tham gia lao động bị TNLĐ hoặc BNN được điều trị ổn
định để phục hồi chức năng và khả năng lao động, được bố trí công việc phù
hợp, được bù đắp về vật chất và tinh thần để ổn định cuộc sống cho bản thân
và gia đình khi bị mất toàn bộ hoặc một phần khả năng lao động.
Ngoài ra, BHXH về TNLĐ, BNN còn có ý nghĩa to lớn về chính trị, xã
hội trong việc thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an toàn và an sinh xã hội cho
người lao động nói riêng và xã hội nói chung.
10
a. Đối với người lao động
Chế độ TNLĐ, BNN quy định tất cả những vấn đề liên quan đến TNLĐ
và BNN như đối tượng áp dụng, điều kiện hưởng, mức bồi thường, trợ cấp,
đặc biệt là trách nhiệm của người sử dụng lao động và cơ quan BHXH đối với
người lao động bị TNLĐ, BNN. Qua đó giúp người lao động biết được những
quyền lợi nào họ sẽ được hưởng nếu xảy ra TNLĐ, BNN, mức hưởng là bao
nhiêu và ai là chủ thể bồi thường hay trợ cấp cho họ; biết được người sử dụng
lao động có thực hiện đúng những quy định của pháp luật hay không, nếu
không thì kịp thời tiến hành các thủ tục pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của mình; chế độ TNLĐ, BNN giúp người lao động bị TNLĐ,
BNN có một khoản tài chính để khắc phục hậu quả do tai nạn gây ra, củng cố
tinh thần cũng như niềm tin của họ vào Nhà nước.
b. Đối với người sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội
Việc quy định cụ thể chế độ TNLĐ, BNN sẽ giúp họ xác định được
chính xác trách nhiệm của mình đến đâu khi người lao động bị TNLĐ, BNN.
Ví dụ trường hợp người sử dụng lao động có tham gia đóng bảo hiểm
xã hội bắt buộc cho người lao động thì khi xảy ra TNLĐ, BNN, người sử
dụng lao động chỉ phải chi trả chi phí y tế khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị
xong cho người lao động, còn chi phí bồi thường sẽ do cơ quan bảo hiểm xã
hội nơi họ tham gia bảo hiểm chi trả.
c. Đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp
Những quy định cụ thể, rõ ràng về chế độ TNLĐ, BNN sẽ là cơ sở
pháp lý quan trọng để họ sử dụng làm căn cứ giải quyết các tranh chấp phát
sinh một cách chính xác, hợp tình hợp lý; đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các
bên liên quan, qua đó góp phần duy trì ổn định xã hội.
11
1.4. Lược sử pháp luật về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp ở Việt Nam
a. Giai đoạn từ 1945-1960
Trong giai đoạn này, chính phủ đã ban hành một số Sắc lệnh như: Sắc
lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 quy định về các quan hệ làm công giữa các chủ
nhân việt nam và người ngoại quốc với các công dân Việt Nam; Sắc lệnh số
76/SL ngày 20/5/1950 của Chính phủ về quy chế công chức; Sắc lệnh số
77/SL ngày 22/5/2950 của Chính phủ về quy chế công nhân… quy định về
các chế độ bảo hiểm cho người lao động, trong đó có chế độ TNLĐ, BNN.
Tuy nhiên, đối tượng hưởng chế độ này chỉ bao gồm cán bộ, công chức.
Giai đoạn 1945- 1960, Nhà nước vẫn chưa quy định về việc đóng bảo
hiểm TNLĐ, BNN. Vì vậy, các đơn vị sử dụng lao động phải chịu toàn bộ các
chi phí liên quan đến người lao động bị TNLĐ, BNN như chi phí y tế, chi phí
bồi thường…
Nhìn chung trong giai đoạn này chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN chưa được
quy định một cách toàn diện, quỹ bảo hiểm xã hội chưa được hình thành.
b. Giai đoạn từ 1960 đến 1986
Giai đoạn này pháp luật đã quy định cụ thể hơn về chế độ bảo hiểm
TNLĐ, BNN.
Ngày 27/12/1961, Nhà nước ta đã ban hành Nghị định số 218/CP quy
định việc đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Trước khi có Nghị định
số 218/CP ngày 27/12/1961 ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm
xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước, việc đóng bảo hiểm xã hội cho
người lao động chưa được thực hiện ở nước ta. Vì vậy, các đơn vị sử dụng lao
động phải chịu toàn bộ phí tổn có liên quan tới người bị TNLĐ, như: chi phí y
tế, bồi thường, trợ cấp. Giai đoạn này, Nhà nước là chủ sử dụng lao động của
12
toàn bộ lực lượng xã hội, vì vậy Nhà nước phải chịu toàn bộ trách nhiệm khi
người lao động bị TNLĐ, BNN.
Pháp luật đã quy định khá rộng về các trường hợp được coi là TNLĐ.
Không chỉ những người lao động bị TNLĐ trong khi đang thực hiện nghĩa vụ
lao động được giao mà cả những người tham gia vào việc cứu tài sản của Nhà
nước mà bị tai nạn cũng được coi là TNLĐ. Theo Nghị định số 218/CP, người
lao động bị TNLĐ, BNN được trợ cấp từ 01 đến 04 tháng lương chính đối với
trường hợp trợ cấp một lần, từ 7% đến 70% lương chính đối với trường hợp
trợ cấp hang tháng tùy vào tỷ lệ thương tật, bệnh tật.
Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, về thực chất, trách nhiệm
bồi thường cho người lao động bị TNLĐ, BNN được chuyển sang Nhà nước.
Nhà nước thực hiện trách nhiệm của mình đối với người lao động bị TNLĐ,
BNN với tư cách một người sử dụng lao động và với tư cách là người thực
hiện BHXH đồng thời là chủ thể quản lý xã hội. Đối tượng tham gia bảo hiểm
TNLĐ, BNN trong giai đoạn này chỉ ở trong phạm vi công nhân viên chức và
lực lượng vũ trang. Quỹ BHXH trong thời kỳ này vẫn còn phụ thuộc vào ngân
sách nhà nước, việc quản lý quỹ chưa có sự thống nhất chặt chẽ.
Ngày 18/9/1985, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về
việc sửa đổi, bổ sung chính sách và chế độ BHXH đối với người lao động,
trong đó quy định mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế độ bảo
hiểm TNLĐ, BNN.
Ở giai đoạn này, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đã được quy định. Tuy
nhiên phạm vi, đối tượng được hưởng BHXH vẫn còn hạn chế, điều kiện
hưởng bảo hiểm tai nạn còn khá rộng.
c. Giai đoạn từ 1986 đến nay
Giai đoạn từ 1986 – 1994:
13
Kể từ năm 1986, nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì BHXH
đã mở rộng đối tượng và thành lập quỹ BHXH độc lập với ngân sách nhà
nước so dự đóng góp của người lao động, chủ sử dụng lao động và sự hỗ trợ
của Nhà nước. Nếu trong giai đoạn trước Nhà nước ta phải chịu trách nhiệm
chi trả chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN cho người lao động thì trong giai đoạn
này, nền kinh tế thị trường với sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần
kinh tế là cơ sở quan trọng để tách bạch các quan hệ xã hội. Lúc này, tư cách
của người sử dụng lao động và người thực hiện BHXH đã được phân định rõ
ràng. Trách nhiệm đối với người lao động bị TNLĐ, BNN được chia sẻ cho
người sử dụng lao động, BHXH, Nhà nước và cộng đồng xã hội. Như vậy,
người sử dụng lao động không phải trực tiếp chịu trách nhiệm về toàn bộ
những chi phí có liên quan đối với bản thân và gia đình của người lao động
như các giai đoạn trước đây mà một phần trách nhiệm đã được chuyển dịch
cho cơ quan BHXH. Đây là quy định mới thể hiện sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước ta đối với người lao động, đồng thời cũng giảm bớt gánh nặng cho
người sử dụng lao động.
TNLĐ lần đầu tiên được xác định cụ thể tại Thông tư liên tịch của Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính số 21/TTLT-BLĐTBXHBTC ngày 18/6/1994, theo đó có 04 trường hợp bị coi là bị TNLĐ, bao gồm:
TNLĐ trong giờ làm việc, tại nơi làm việc, kể cả làm việc ngoài giờ do yêu
cầu của người sử dụng lao động; tai nạn khi đi công vụ được giao; tai nạn trên
đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc; tai nạn trong những trường hợp cứu
người, cứu tài sản của Nhà nước, của nhân dân.
Kể từ 1994 đến nay:
Năm 1994 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của chế
độ TNLĐ, BNN với sự ra đời của Bộ luật Lao động. Sau đó, thi hành những
14
quy định trong Bộ luật Lao động 1994 về BHXH, Chính phủ đã ban hành
Điều lệ Bảo hiểm xã hội kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/1995, theo
đó phạm vi những trường hợp bị coi là TNLĐ, BNN có sự nhìn nhận mới.
Trường hợp người bị TNLĐ ngoài nơi làm việc khi thực hiện công việc theo
yêu cầu của người sử dụng lao động cũng được coi là bị TNLĐ. Những
trường hợp người sử dụng lao động bị tai nạn khi cứu người, cứu tài sản của
nhà nước, của nhân dân không được coi là TNLĐ mà được hưởng chính sách
ưu đãi của Nhà nước. Quy định này đã phần nào khắc phục được những hạn
chế của các giai đoạn trước.
Chế độ trợ cấp mà người lao động bị TNLĐ, BNN được hưởng cũng có
những thay đổi phù hợp với sự phát triển của xã hội. Khi người lao động bị
suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần 4,
8 hoặc 12 tháng lương tối thiểu chung tùy khung suy giảm khả năng lao động.
Khi người lao động bị suy giảm từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hàng
tháng từ 0,4 đến 1,6 tháng lương tối thiểu chung tùy vào khung suy giảm khả
năng lao động. Khi người lao động bị tái phát theo Điều 21 Nghị định số
12/CP ngày 26/01/1995 thì được cơ quan bảo hiểm xã hội giới thiệu đi giám
định lại mức độ suy giảm khả năng lao động để làm căn cứ xác định lại mức
trợ cấp. Ngoài ra, Nhà nước còn quy định chế độ dưỡng sức, phục hồi sức
khỏe cho người lao động sau thời gian điều trị TNLĐ, BNN; chế độ bảo hiểm
hưu trí cho người bị TNLĐ, BNN mà đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí; chế
độ bảo hiểm y tế cho người lao động nghỉ việc; chế độ đối với gia đình của
người lao động bị chết do TNLĐ, BNN.
Nhìn chung pháp luật giai đoạn này đã có những bước tiến đáng kể, có
những sự thay đổi cơ bản về vấn đề TNLĐ, BNN. Có những cách nhìn mới,
quan điểm mới phù hợp hơn với sự phát triển của xã hội.
15
Hiện nay, theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 và các văn bản hướng
dẫn thi hành, chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN đã có những thay đổi khá toàn
diện. Tuy vậy, với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế - xã hội và
nhu cầu ngày càng cao của con người thì việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn
thiện chế độ bảo hiểm này vẫn đang được đặt ra ở nước ta.
1.5. Các quy định của Tổ chức Lao động quốc tế và một số quốc gia
trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế và của các quốc gia trên thế
giới hiện nay chủ yếu quy định về chế độ TNLĐ. Chế độ TNLĐ được quy
định khá đầy đủ về đối tượng áp dụng, nguồn hình thành quỹ bảo hiểm
TNLĐ, bệnh nghề nghiệp và chế độ trợ cấp cho các đối tượng được hưởng.
Các quy định về BNN vẫn còn tương đối hạn chế là ít được quan tâm. Thái
Lan và Nhật Bản là hai trong số các quốc gia có hệ thống các quy định về
TNLĐ khá hoàn thiện, hơn nữa đây là hai quốc gia thuộc khu vực châu Á, có
một số điều kiện địa lý, dân cư tương đối giống Việt Nam, vì vậy có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam thông qua việc phân tích
chế độ TNLĐ, BNN của hai quốc gia này.
1.5.1. Quy định của Tổ chức Lao động quốc tế về tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp
Chế độ TNLĐ, BNN là chế độ có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ
người lao động trước những rủi ro nghề nghiệp, không chỉ được nhiều quốc
gia quan tâm thực hiện mà ILO cũng đã đưa ra nhiều khuyến nghị và công
ước nhằm đảm bảo an toàn tại nơi làm việc và đảm bảo những khoản trợ cấp
cho người lao động sau khi bị TNLĐ, BNN.
Ngày 04/6/1952, tại kỳ họp thứ 35, ILO đã thông qua Công ước về An
toàn xã hội (quy phạm tối thiểu). Trợ cấp TNLĐ, BNN theo quy định của
Công ước 102 về An toàn xã hội được quy định như sau:
16
* Những trường hợp cần bảo vệ nếu do TNLĐ, BNN gây ra:
- Tình trạng đau ốm;
- Mất khả năng lao động do tình trạng đau ốm gây ra và dẫn đến gián
đoạn thu nhập;
- Mất hoàn toàn khả năng thu nhập hoặc mất một phần khả năng thu
nhập vượt quá mức quy định (nếu tình trạng này có thể trở thành thường
xuyên hoặc có sự giảm sút tương ứng về thể lực).
- Người vợ goá hoặc con cái bị mất phương tiện sinh sống do người trụ
cột gia đình chết (người vợ goá chỉ được bảo vệ khi người đó không thể đài
thọ cho những nhu cầu chính mình).
* Chế độ trợ cấp:
- Tình trạng ốm đau: phải được bảo đảm việc chăm sóc y tế như điều
trị, điều dưỡng, thuốc men…
- Trường hợp bị mất khả năng lao động hoặc mất hoàn toàn thu nhập
(nếu tình trạng này có thể trở thành thường xuyên hoặc bị giảm sút tương ứng
về thể lực hoặc mất người trụ cột gia đình) thì việc trợ cấp được chi trả định
kỳ ít nhất bằng 50% thu nhập trước đó của đối tượng (đối tượng được hưởng
có thêm 1 vợ và 2 con).
- Trường hợp mất một phần khả năng thu nhập (nếu tình trạng này có
thể trở thành thường xuyên hoặc có sự giảm sút tương ứng về thể lực) thì trợ
cấp sẽ là việc chi trả định kỳ được ấn định một tỷ lệ thích hợp so với tỷ lệ quy
định cho trường hợp trên.
Việc chi trả định kỳ có thể chuyển thành một số vốn chi trả một lần khi
mức độ mất khả năng là không đáng kể hoặc khi các nhà chức trách có thầm
quyền được bảo đảm rằng số vốn đó sẽ được sử dụng đích đáng.
17
- Người bị TNLĐ, BNN được đào tạo lại nghề nghiệp để cho họ tái
thích ứng được với một công việc thích hợp.
Công ước 102 chỉ là những quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội. Các
nước khi tham gia công ước phải đảm bảo cho các quy định về bảo hiểm xã
hội nước mình tối thiểu phải đáp ứng được các yêu cầu như công ước quy
định. Nhìn chung, các quy định của Tổ chức Lao động quốc tế về chế độ
TNLĐ, BNN chủ yếu tập trung ở Công ước 102 về an toàn xã hội.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã phê chuẩn Công ước Quốc tế 155 Công ước về an toàn lao động - sức khoẻ và môi trường làm việc (1981). Đây
là Công ước có ý nghĩa vô cũng quan trọng đối với chế độ TNLĐ, BNN, vì an
toàn lao động là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình TNLĐ, BNN.
Gia nhập Công ước 155 về an toàn lao động, sức khoẻ và môi trường làm việc
giúp cho việc phòng ngừa TNLĐ, BNN trở nên hiệu quả và thiết thực hơn.
Ngoài ra, ILO cũng đã ban hành Công ước 187 về tăng cường cơ chế
an toàn vệ sinh lao động. Việt Nam hiện nay vẫn đang trong quá trình nghiên
cứu gia nhập Công ước này.
1.5.2. Quy định của một số quốc gia về tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp
a. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động ở Thái Lan
Hiện nay ở Thái Lan, cơ quan An sinh xã hội Thái Lan chịu trách
nhiệm thực hiện các chế độ BHXH cho người lao động, bao gồm cả chế độ
TNLĐ, BNN.
- Đối tượng áp dụng:
Chế độ này áp dụng cho tất cả người lao động làm việc trong lĩnh vực
công nghiệp và thương mại, loại trừ người làm việc trong lĩnh vực nông, lâm,
18