Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển và việc thực thi công ước Marpol 73/78 tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 124 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

Trần Ngọc Toàn

pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm
môi tr-ờng biển và việc thực thi
công -ớc marpol 73/78 tại việt nam

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội 2011


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

Trần Ngọc Toàn

pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm
môi tr-ờng biển và việc thực thi
công -ớc marpol 73/78 tại việt nam
Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số

: 60 38 60

luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang


Hà nội - 2011


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGĂN NGỪA Ô NHIỄM MÔI

5

TRƯỜNG BIỂN VÀ CÔNG ƯỚC MARPOL 73/78

1.1.

Tổng quan về ô nhiễm môi trường biển

5

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản


5

1.1.2. Các nguồn gây ô nhiễm môi trường biển

7

1.1.3. Nguy cơ ô nhiễm môi trường biển Việt Nam

11

1.1.4. Ô nhiễm môi trường biển do dầu

11

1.1.5. Ô nhiễm biển từ tàu, cảng biển và công trình biển

14

Nội dung một số công ước quốc tế liên quan đến ngăn ngừa ô
nhiễm môi trường biển

16

1.2.1. Các Công ước quốc tế liên quan đến ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường biển

17

1.2.2. Các Công ước trực tiếp quy định về ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường biển từ tàu


20

Một số nội dung cơ bản của công ước marpol 73/78 về ngăn
ngừa ô nhiễm biển từ tàu

22

1.2.

1.3.

1.3.1. Khái quát chung về công ước

22

1.3.2. Các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm biển do dầu từ tàu

24

1.3.3. Ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất lỏng độc hại chở xô gây ra

31


1.3.4. Ngăn ngừa ô nhiễm biển do chất độc hại đóng trong bao gói

32

1.3.5. Ngăn ngừa ô nhiễm biển do nước thải từ tàu


33

1.3.6. Ngăn ngừa ô nhiễm biển do rác từ tàu

34

1.3.7. Ngăn ngừa ô nhiễm không khí do tàu gây ra

35

Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ NGĂN NGỪA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG

36

BIỂN TẠI VIỆT NAM

2.1.

Điều chỉnh của pháp luật đối với ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường biển

36

2.1.1. Nhu cầu điều chỉnh của pháp luật

36

2.1.2. Nguồn luật điều chỉnh ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển


37

2.1.3. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật Việt Nam

37

2.2.

Pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển

38

2.2.1. Các văn bản pháp luật là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng các
quy định về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển

38

2.2.2. Các văn bản pháp luật trực tiếp điều chỉnh ngăn ngừa ô nhiễm
môi trường biển do dầu từ tàu

41

2.2.3. Quy định về kiểm tra, kiểm soát và chế tài áp dụng nhằm
ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển

48

2.2.4. Các quy định về tổ chức, phối hợp thực hiện hoạt động ngăn
ngừa ô nhiễm môi trường biển Việt Nam


50

2.3.

Trách nhiệm thực thi Công ước

52

2.3.1. Quyền và nghĩa vụ của quốc gia trong việc thực thi công ước

52

2.3.2. Áp dụng các quy định của công ước

53

2.4.

Thực thi pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển ở
Việt Nam

54

2.4.1. Cơ chế tổ chức thực hiện

55

2.4.2. Yếu tố con người

58


2.4.3. Hệ thống pháp luật

59

2.4.4. Kiểm tra giám sát thực hiện công ước

61

2.4.5. Yếu tố kinh tế và trang thiết bị kỹ thuật

62


2.4.6. Hợp tác quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển từ tàu với các nước

64

2.4.7. Những yếu tố tích cực và hạn chế còn tồn tại trong quá trình
thực hiện công ước

65

Kinh nghiệm xây dựng pháp luật và thực thi công ước về
ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển của một số nước thành
viên

69

2.5.1. Kinh nghiệm xây dựng pháp luật và thực thi công ước về

phòng chống ô nhiễm dầu của Trung Quốc

69

2.5.2. Pháp luật về bảo vệ môi trường biển của Singapore

73

2.5.

Chương 3:

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP

77

LUẬT VỀ NGĂN NGỪA Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG BIỂN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường biển

77

3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật

77


3.1.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về ngăn ngừa ô
nhiễm môi trường biển

81

3.1.3. Cơ chế tổ chức thực hiện

84

3.1.4. Kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật

85

3.1.5. Chính sách về con người

86

3.1.6. Hợp tác và thực hiện các công ước quốc tế liên quan đến ngăn
ngừa ô nhiễm biển

86

Giải pháp nhằm nâng cao năng lực thực thi công ước quốc tế
và ngăn ngừa ô nhiễm biển tại Việt Nam

87

3.2.1. Nâng cao năng lực thực thi công ước Marpol 73/78 và các
quy định về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển tại Việt Nam


87

3.2.2. Đề xuất các giải pháp nhằm ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển

91

3.2.

KẾT LUẬN

98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

101

PHỤ LỤC

104


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BVMT

: Bảo vệ môi trường

ĐƯQT

: Điều ước quốc tế


IMO

: Tổ chức Hàng hải Quốc tế

ITOPF

: Hiệp hội quốc tế về ô nhiễm của các chủ tàu chở dầu

Marpol 73/78 : Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển từ tàu
RT

: Tấn đăng ký

QCVN

: Quy chuẩn Việt Nam

TCN

: Tiêu chuẩn ngành

TCVN

: Tiêu chuẩn Việt Nam


Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu


Tªn b¶ng

Trang

b¶ng
1.1

Cơ cấu đội tàu biển Việt Nam theo số lượng

14

1.2

Thống kê tai nạn hàng hải tại Việt Nam năm 2009

15

2.1

Thống kê tàu Việt Nam bị lưu giữ ở cảng nước ngoài

63

2.2

Tổng hợp các khiếm khuyết của tàu biển Việt Nam từ
01/2006 - 06/200

63



Danh môc c¸c BIÓU §å

Sè hiÖu

Tªn biÓu ®å

Trang

Tỉ lệ các nguyên nhân gây ô nhiễm biển do tàu dầu

10

biÒu ®å
1.1

từ năm 1970-2009


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam với bờ biển dài hơn 3.260 km và vùng biển rộng hơn một
triệu km2, cùng với hơn 3.000 đảo lớn nhỏ do vậy biển đóng vai trò hết sức
quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của đất nước nhưng chúng ta cũng
đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường biển đặc biệt là ô nhiễm do
dầu. Trong khi đó công tác ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển vẫn chưa
được quan tâm đúng mức, nếu để xảy ra ô nhiễm thì thiệt hại vô cùng to lớn
việc khắc phục hậu quả rất khó khăn đó là chưa kể chỉ một quốc gia nỗ lực là

không đủ mà cần có sự phối hợp cùng nhau ngăn ngừa ô nhiễm biển của cả
cộng đồng thế giới.
Ô nhiễm môi trường biển do việc khai thác dầu khí trên biển, rò rỉ dầu
từ dàn khoan cũng như các phương tiện vận chuyển và sự cố tràn dầu có xu
hướng gia tăng cùng với sản lượng khai thác dầu khí trên biển gây ra các vệt dầu
loang trên mặt biển làm ngăn cản quá trình hòa tan oxy từ không khí, cặn dầu
lắng xuống đáy làm ô nhiễm trầm tích đáy biển, nồng độ dầu cao trong nước
có tác động xấu tới hoạt động của các loài sinh vật biển. Ngoài ra hoạt động vận
tải trên biển là một trong các nguyên nhân quan trọng gây ô nhiễm biển được
tổ chức môi trường thế giới thì ước tính hàng năm có khoảng 2,4 triệu tấn dầu
đổ ra biển, rò rỉ dầu, sự cố tràn dầu của các tàu thuyền trên biển thường chiếm
50% nguồn ô nhiễm dầu trên biển nên nói đến ô nhiễm biển từ hoạt động vận
tải biển người ta thường nghĩ đến nguồn gây ô nhiễm biển do dầu.
Điển hình như: Vụ dầu tràn không rõ nguồn gốc vào bờ biển miền
Trung 02/2007 làm đen kịt các bãi biển du lịch trong đó đã vớt được 1.200 tấn
dầu, thiệt hại nặng nhất là tỉnh Quảng Nam với trên 600 tấn, lượng dầu này đã
tràn xuống tận Vũng Tàu - Côn Đảo; Ngày 02/10/2008, tàu New Oriental bị
chìm ở vùng biển tỉnh Phú Yên đã thu gom được khoảng 3.400 lít dầu FO;

1


Ngày 17/06/2009 tàu Nhật Thuần bị nổ làm tràn gần 12.000 lít dầu ra khắp
mặt biển Bà Rịa - Vũng Tàu; Ngày 27/04/2010 tàu Biển Đông 50 bị chìm tại
biển Vũng Tàu làm dầu từ tàu chảy loang ra mặt biển, lúc xảy ra tai nạn, tàu
này chở 377 tấn dầu DO.
Để thực hiện được mục tiêu đảm bảo an toàn hàng hải và ngăn ngừa ô
nhiễm môi trường biển Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) đã xây dựng hàng
loạt các Công ước có nội dung điều chỉnh hoạt động ngăn ngừa ô nhiễm biển
trong đó có Công ước Marpol 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển từ

tàu. Việc gia nhập và thực thi nghiêm chỉnh Công ước quốc tế là một hướng
đi chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam để tạo
khung pháp lý toàn diện cho việc ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển do tàu
thuyền gây ra. Bên cạnh tham gia các điều ước quốc tế phải đi liền với việc
thực thi có hiệu quả các điều ước, để phục vụ được mục tiêu phát triển đất
nước, thể hiện được ý thức trách nhiệm của Việt Nam trước cộng đồng quốc
tế đối với sự phát triển bền vững của môi trường toàn cầu.
Nhưng hiện tại Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác
đang phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện các
điều ước quốc tế về môi trường do trình độ khoa học kỹ thuật chưa phát triển,
hệ thống pháp luật còn yếu kém, không tương thích để thực thi các điều ước
quốc tế đã tham gia theo nguyên tắc Pacta sunt servanda.
Thêm vào đó hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) tuy đã
có nhiều tiến bộ, song đến nay vẫn còn tản mạn, chồng chéo, mâu thuẫn về
chức năng, nhiệm vụ và khó áp dụng do đó hiệu quả ngăn ngừa ô nhiễm môi
trường biển chưa cao. Còn thiếu các công trình nghiên cứu khoa học làm cơ
sở thực tiễn, lý luận cho việc xây dựng một hệ thống các quy phạm về ngăn
ngừa ô nhiễm môi trường biển do dầu; vai trò của pháp luật trong hoạt động
ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển còn chưa được đề cao; chưa xây dựng
được ý thức BVMT biển của cả cộng đồng; nhiều lĩnh vực, hoạt động gây ô
nhiễm biển còn chưa được điều chỉnh.

2


Từ thực tế và những đòi hỏi này tác giả thấy rằng việc nghiên cứu kỹ
lưỡng nội dung các quy phạm pháp luật trong nước cũng như các quy định
của Công ước Marpol 73/78 là rất cần thiết tạo điều kiện, cơ sở thuận lợi cho
việc thực thi Công ước và tăng hiệu quả ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển
Việt Nam cũng như tạo cơ chế cho sự hợp tác chặt chẽ với các nước trong khu

vực và trên thế giới. Do vậy tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về ngăn
ngừa ô nhiễm môi trường biển và việc thực thi công ước MARPOL 73/78
tại Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp Chương trình đào tạo Thạc sĩ luật học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển do dầu đã được nhiều đề
tài nghiên cứu nhưng mới chỉ là những khái quát chung đối với những quy
định của pháp luật trong nước và Công ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam
đã tham gia trong lĩnh vực phòng ngừa, xử lý và khắc phục ô nhiễm biển do
dầu như tác phẩm Bảo vệ môi trường biển - vấn đề và giải pháp của tiến sĩ
Nguyễn Hồng Thao... Có thể nói đến nay vẫn chưa có nhiều tài liệu đề cập
riêng đến hoạt động ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu và
công tác tổ chức thực hiện Công ước Marpol 73/78 tại Việt Nam từ khi Công
ước này có hiệu lực. Vì vậy "Pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường
biển và việc thực thi công ước MARPOL 73/78 tại Việt Nam" cần được đề cập
và nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm sáng tỏ các cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật về
ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu; chỉ ra những hạn chế, thiết
sót thông qua đó đề xuất những phương hướng, kiến nghị, giải pháp hoàn
thiện hệ thống pháp luật và nâng cao khả năng thực thi Công ước quốc tế về
ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển tại Việt Nam.

3


3. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích nói trên, phạm vi nghiên cứu của luận văn chỉ tập trung
vào phân tích nội dung một số quy định chính của pháp luật Việt Nam điều
chỉnh hoạt động ngăn ngừa ô nhiễm biển và nội dung cơ bản của Công ước

Marpol 73/78 về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển do dầu từ tàu qua đó
đánh giá thực trạng và nêu ra một số giải pháp kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật và thực thi Công ước hiệu quả tại Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện
chứng để tiến hành nghiên cứu, cùng các phương pháp thống kê, so sánh,
phân tích, tổng hợp để nghiên cứu làm rõ các nội dung, đạt được mục đích
của đề tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển và
công ước MARPOL 73/78.
Chương 2: Pháp luật về ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển tại Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngăn ngừa
ô nhiễm môi trường biển ở Việt Nam hiện nay.

4


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGĂN NGỪA Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG
BIỂN VÀ CÔNG ƢỚC MARPOL 73/78

1.1. TỔNG QUAN VỀ Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG BIỂN

1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Hiện nay, vấn đề ô nhiễm môi trường biển đang là một trong những
mối quan tâm hàng đầu của toàn thể cộng đồng thế giới bởi mức độ ô nhiễm
biển ngày càng trầm trọng, phạm vi ô nhiễm ngày càng mở rộng trên toàn cầu

do hoạt động của tàu thuyền và do nhiều nguồn ô nhiễm khác nhau gây ra.
Với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng của ô nhiễm môi trường
biển đòi hỏi BVMT không chỉ trong phạm vi biên giới của mỗi quốc gia mà
trở thành một vấn đề toàn cầu. Quan điểm "Bảo vệ môi trường để phát triển
bền vững" [17, tr. 290] đã được cả cộng đồng thế giới thừa nhận, bởi cố gắng
của quốc gia, thậm chí của cả khu vực là không đủ để đương đầu với các vấn
đề môi trường trong đó có ô nhiễm môi trường biển.
Môi trường biển: Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982
thì: Môi trường biển bao gồm các tài nguyên sinh vật, hệ sinh thái biển và chất
lượng nước biển, cảnh quan biển (Điều 1.4). Như vậy, "môi trường biển không
chỉ bao gồm các vùng biển với các đặc trưng lý hóa của chúng mà còn cả tài
nguyên sinh vật, vật lý và hóa học của vùng cửa sông, các vùng ngập mặn bao
gồm cả trầm tích, các vùng thủy triều lên xuống, các vùng đầm lầy…" [16, tr. 13]
và bầu khí quyển phía trên mặt biển. Ngoài ra, các hoạt động của con người
cũng là một phần của môi trường biển vì chúng tác động trực tiếp làm thay
đổi chất lượng của các vùng ven biển.
Tại Nghị định 25/2009/NĐ-CP về quản lý tổng hợp tài nguyên và
BVMT biển, hải đảo đã đưa ra định nghĩa: Môi trường biển là các yếu tố vật

5


lý, hóa học và sinh học đặc trưng cho nước biển, đất ven biển, trầm tích dưới
biển, không khí trên mặt biển và các hệ sinh thái biển tồn tại một cách khách
quan, ảnh hưởng đến con người và sinh vật (Điều 3.2).
Ô nhiễm môi trường biển: Luật BVMT năm 2005 định nghĩa: "Ô nhiễm
môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn
môi trường" (Điều 3); Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 định
nghĩa ô nhiễm môi trường biển là:
Việc con người trực tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu

hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao gồm cả các cửa sông,
khi việc đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây tổn hại
đến nguồn lợi sinh vật, và đến hệ động vật và thực vật biển, gây
nguy hại cho sức khỏe con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở
biển, kể cả việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách
hợp pháp khác, làm biến đổi chất lượng biển về phương diện sử
dụng nó và làm giảm sút các giá trị mỹ cảm của biển [24, Điều 1.4].
Từ các quy định của Công ước MARPOL 73/78 đối với các nguồn
gây ô nhiễm môi trường biển từ tàu có thể đưa ra khái quát chung về ô nhiễm
môi trường biển gồm việc thải từ tàu các chất có hại hoặc nước chứa các chất
đó mà khi rơi xuống biển có khả năng tạo ra nguy hiểm cho sức khỏe con
người, gây thiệt hại cho các tài nguyên hữu sinh, cho thực vật và động vật biển,
làm xấu đi những điều kiện nghỉ ngơi hoặc cản trở các hình thức sử dụng chính
đáng về biển một cách có chủ tâm hoặc ngẫu nhiên không kể nguyên nhân và
bao gồm cả sự rò rỉ, xả, đổ, tràn, bơm, tỏa hơi hoặc vét cạn (Điều 2).
Ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển: BVMT là hoạt động giữ cho
môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đối với
môi trường, ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái, phục
hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên
thiên nhiên; bảo vệ đa dạng sinh học (Điều 3 Luật BVMT).

6


Từ khái niệm trên cho thấy ngăn ngừa ô nhiễm môi trường biển là
việc hạn chế, loại bỏ các nguồn, "giảm thiểu các khả năng, các tác động có
khả năng gây ô nhiễm môi trường hoặc ngăn chặn sự lan truyền tổn hại môi
trường từ vùng này sang vùng khác, chuyển từ trạng thái tổn hại này sang
trạng thái tổn hại môi trường khác" [23, tr. 434] qua đó kiểm soát, chế ngự và
hạn chế đến mức thấp nhất khả năng biển bị ô nhiễm. Trong các hoạt động

BVMT thì nguyên tắc phòng ngừa là quan trọng nhất theo chủ trương "phòng
hơn chống" do đó ngăn ngừa ô nhiễm được đặt lên hàng đầu so với khắc
phục, xử lý ô nhiễm (Điều 4 Luật BVMT).
1.1.2. Các nguồn gây ô nhiễm môi trƣờng biển.
Ô nhiễm môi trường biển xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau, từ đất liền
đổ ra và từ các hoạt động sử dụng biển. Theo "thống kê của Chương trình Môi
trường Liên hợp quốc (UNEP) cho biết, các nguồn ô nhiễm biển đến từ: đất liền
(50%), rò rỉ tự nhiên (11%), phóng xạ nguyên tử (13%), hoạt động của tàu
thuyền (18%), khai thác dầu 2% và tai nạn tàu bè trên biển (6%)" [14, tr. 74].
Trong đó ước tính tỷ lệ ô nhiễm biển do dầu từ hoạt động hàng hải chiếm
khoảng 48% do các tàu không có két chứa dầu bẩn, 35% do các sự cố đâm va
và 13% do sự cố tràn dầu.
Các nguồn ô nhiễm môi trường biển đã được Tổ chức Hàng hải Quốc
tế (IMO) thống kê và được Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982
quy định cụ thể tại các điều 207 - 212, bao gồm các nguồn ô nhiễm chủ yếu sau:
- Ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền kể cả các ô nhiễm xuất phát
từ các dòng sông, ngòi, cửa sông, ống dẫn và các thiết bị thải đổ
công nghiệp.
- Ô nhiễm do các hoạt động liên quan đến đáy biển thuộc
quyền tài phán của quốc gia ven biển, hay xuất phát từ các đảo nhân
tạo, các công trình thiết bị thuộc quyền tài phán của họ.
- Ô nhiễm do các hoạt động trong vùng lan truyền tới.

7


- Ô nhiễm do sự nhận chìm và trút bỏ chất thải.
- Ô nhiễm do hoạt động của các loại tàu thuyền và tai nạn
tàu thuyền trên biển.
- Ô nhiễm có nguồn gốc từ bầu khí quyển hay qua bầu khí

quyển [23, tr. 444].
Ô nhiễm biển từ đất liền: Các nguồn ô nhiễm từ đất liền theo sông ngòi
mang ra biển như dầu và sản phẩm dầu, nước thải, phân bón nông nghiệp,
thuốc trừ sâu, chất thải công nghiệp, chất thải phóng xạ và nhiều chất ô nhiễm
khác. Hàng năm, các chất thải rắn đổ ra biển gồm đất, cát, rác thải, phế liệu
xây dựng, chất phóng xạ. Một số chất thải loại này sẽ lắng tại vùng biển ven
bờ. Một số chất khác bị phân hủy và lan truyền trong toàn khối nước biển.
Ô nhiễm do hoạt động liên quan đến đáy biển, công trình thiết bị
trên biển: Hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí, khoáng sản và
tàng trữ chúng trên biển là nguồn gây ô nhiễm biển nghiêm trọng như các
hiện tượng rò rỉ, phụt dầu, vỡ đường ống, vỡ bể chứa, sự cố tại các giàn
khoan, cơ sở lọc dầu, do dung dịch khoan, bùn khoan và do các phương tiện
vận chuyển, con người phục vụ cho việc khai thác dầu khí, khoáng sản trên
biển gây ra.
Ô nhiễm biển từ tàu: Theo Bộ luật hàng hải Việt Nam 2005 thì đưa ra
định nghĩa: "Tàu biển là tàu hoặc cấu trúc nổi di động khác chuyên dùng hoạt
động trên biển không bao gồm tàu quân sự, tàu công vụ và tàu cá" (Điều 11);
Tàu là bất kỳ kiểu tàu nào hoạt động trong môi trường biển, kể cả tàu cánh
ngầm, tàu đệm khí, tàu ngầm, phương tiện nổi, cũng như các công trình nổi cố
định hoặc di động (Điều 2.4 Công ước Marpol).
Ô nhiễm biển từ tàu là do hoạt động của tàu thải ra những chất gây ô
nhiễm cho môi trường biển khi làm sạch các hầm hàng có chứa cặn dầu hay
hóa chất độc hại hoặc tháo nước dằn bẩn (ballast) có chứa cặn dầu; do tai nạn
đâm va, chìm đắm tàu làm cho toàn bộ lượng hàng hóa (dầu hay hóa chất độc

8


hại) bị chìm trong nước biển gây sự cố tràn dầu trên biển, ô nhiễm toàn bộ
khu vực lân cận; do khâu giao nhận dầu nhiên liệu thiếu cẩn thận trong các

khâu kỹ thuật, không tuân thủ những quy tắc kỹ thuật trong bốc dỡ hàng là
dầu hoặc hóa chất độc hại.
Xét riêng nguồn ô nhiễm từ tàu biển hiện nay rất đa dạng và phức tạp
có thể do dầu (từ dầu sử dụng làm nhiên liệu, bôi trơn, thủy lực cho bản thân
tàu, cho đến nạp nhiên liệu cho tàu, dầu hàng do tàu vận chuyển...); ô nhiễm
do hóa chất lỏng chở xô trên tàu; ô nhiễm do các loại hàng nguy hiểm, các
chất thải độc hại (chất nổ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc…) vận chuyển
bằng tàu; ô nhiễm do rác thải; ô nhiễm do nước thải; ô nhiễm không khí (chất
làm suy giảm tầng ôzôn, ô xít lưu huỳnh, ô xít nitơ, ô xít cacbon, hơi của hợp
chất hữu cơ vận chuyển trên tàu, hoạt động của động cơ tàu, việc đốt các loại
chất thải trên tàu); ô nhiễm do sơn chống hà sử dụng cho thân tàu; ô nhiễm do
các vật liệu độc hại dùng để đóng tàu (amiăng, kim loại nặng, hóa chất); ô
nhiễm do sự di chuyển của các loài thủy sinh vật thông qua nước dằn tàu; các
bệnh truyền nhiễm lan truyền qua con đường hàng hải; ô nhiễm do hoạt động
cắt phá tàu cũ.
Tuy nhiên, trong các nguồn ô nhiễm này, ô nhiễm dầu do rò rỉ, sự cố
tràn dầu của các tàu thuyền trên biển thường chiếm 50% nguồn ô nhiễm dầu
trên biển. Ô nhiễm biển do dầu có nguồn gốc từ tàu biển lại xuất phát từ hai
nguồn chủ yếu gồm: Ô nhiễm từ các vụ tai nạn tàu chiếm khoảng 15% và từ
hoạt động của tàu chiếm khoảng 85% nguồn ô nhiễm từ tàu biển.
Tỷ lệ ô nhiễm biển do dầu từ tàu biển trong các vụ tai nạn chiếm tỷ lệ
nhỏ, nhưng là một nguồn ô nhiễm chứa đựng nguy hiểm cao, gây thiệt hại lớn
và việc khắc phục hậu quả ô nhiễm gặp rất nhiều khó khăn do đó đòi hỏi phải
có sự quan tâm đặc biệt và có những biện pháp kiểm soát nhất định. Vì vậy
cộng đồng quốc tế đã nhận thức rõ, trong các nguyên nhân đe dọa làm ô
nhiễm môi trường biển, ô nhiễm có nguồn gốc từ tàu biển và vấn đề phòng

9



chng nú c coi l khú khn nht, cn quan tõm, vỡ õy l ngun ụ nhim
cú th nhn thy rt rừ rng.
Biu 1.1: T l cỏc nguyờn nhõn gõy ụ nhim bin do tu du
t nm 1970-2009

3.5 5 2.6
26.7
30.7
2.6
3.1
21.1

4.6

Hoạt động khác
Cháy nổ
Nhận/Trả dầu
Hỏng thiết bị
Hỏng thân tàu
Mắc cạn
Tiếp cận nhiên liệu
Đâm va
Nguyên nhân khác

Ngun: ITOPF.
ễ nhim bin do nhn chỡm v trỳt b cht thi: Trc õy bin
c coi l ni cha cht thi rng ln do vy cỏc quc gia ó tin hnh
thi rt nhiu cht thi c hi mt cỏch cú ý thc v khụng cú ý thc mt
lng ln cỏc cht thi c hi nh cht thi phúng x, cht thi cụng nghip,
hoỏ cht bn vng nh DDT thm chớ nhiu quc gia trờn th gii ó bớ mt

, nhn chỡm cht thi ht nhõn, húa hc ra bin.
ễ nhim bin t bu khớ quyn: ễ nhim khụng khớ cú tỏc ng
mnh m ti ụ nhim bin. Nng CO 2 cao trong khụng khớ s lm cho
lng CO2 hũa tan trong nc bin tng. Nhiu cht c hi v bi kim loi
nng c khụng khớ mang ra bin. S gia tng nhit ca khớ quyn trỏi
t do hiu ng nh kớnh s kộo theo s dõng cao mc nc bin v thay i
mụi trng sinh thỏi bin.
ễ nhim bin t t nhiờn: Bờn cnh cỏc ngun ụ nhim nhõn to
trờn, bin cú th b ụ nhim bi cỏc quỏ trỡnh t nhiờn nh nỳi la phun, tai
bin bóo lt, s c rũ r du t nhiờn v.v...

10


1.1.3 Nguy cơ ô nhiễm môi trƣờng biển Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia biển, "có chiều dài bờ biển hơn 3.260 km và
một vùng biển rộng hơn 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền" [15]. Hoạt
động khai thác, sử dụng biển đã diễn ra trên nhiều lĩnh vực: nghề cá, khai thác
dầu khí, du lịch biển và giao thông vận tải biển, là những hướng phát triển
kinh tế biển của Việt Nam hiện nay. Bên cạnh những lợi ích kinh tế thu được
từ việc khai thác biển Việt Nam cũng đang phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm
môi trường biển gia tăng do những hoạt động gây ô nhiễm biển của con người
có thể điểm ra do những nguyên nhân sau: phá hủy rừng, đặc biệt là rừng đầu
nguồn làm tăng lượng phù sa đổ ra biển và tăng xói mòn bờ biển; xả chất thải
công nghiệp vào sông ngòi; sử dụng hóa chất và thải chất nông nghiệp; xả
nước thải vào cống rãnh đô thị ra sông; đổ chất thải rắn ra biển; quai đê lấn
biển; phá rừng ngập mặn và đất ngập nước để nuôi tôm và trồng lúa; hoạt
động giao thông vận tải thủy; phát triển và khai thác cảng; khai thác khoáng
sản; thăm dò và khai thác dầu khí; nuôi trồng thủy sản; phát triển du lịch biển;
đô thị hóa; đánh bắt hải sản...

Tình trạng Ô nhiễm biển Việt Nam hiện nay là khá đa dạng với các
nguồn ô nhiễm khác nhau như: Ô nhiễm do dầu mỏ và các sản phẩm của nó
(vùng biển miền Trung); ô nhiễm bởi kim loại nặng từ các hoạt động công
nghiệp ("tác nhân chính gây ô nhiễm là NH+4, kẽm, đồng và coliform tại Nha
Trang, Cửa Lò, Sầm Sơn..." [9, tr. 30]); ô nhiễm bởi các hợp chất hữu cơ khó
phân hủy, đặc biệt là các hợp chất clo hữu cơ như PCB, DDT, Dioxin... ô
nhiễm bởi phóng xạ của các chất thải qua các nhà máy điện nguyên tử; ô
nhiễm do hóa chất độc như sơn chống hà pha thiếc TBT cho các tàu biển; ô
nhiễm bởi phú dưỡng gây hiện tượng thủy triều đỏ.
1.1.4. Ô nhiễm môi trƣờng biển do dầu
Vùng biển nước ta cũng như khu vực biển Đông đang đứng trước
nguy cơ ô nhiễm do dầu tràn, gây ô nhiễm môi trường bởi hoạt động khai

11


thác, chế biến và sử dụng sản phẩm dầu. Trong các tác nhân gây ô nhiễm thì
sự nhiễm bẩn do dầu mỏ và các sản phẩm dầu đang được lưu tâm nhất.
Nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm biển do dầu ở Việt Nam là từ đất liền, hoạt
động hàng hải và khai thác dầu khí như dầu từ các con tàu gây ra trong các vụ
tại nạn, đâm va, mắc cạn hoặc từ các sự cố rò rỉ dầu từ các dàn khoan, công
trình trên biển.
Điển hình là sự cố tràn dầu xảy ra tại Việt Nam như vụ tàu Neptune
Aries đâm vào cầu cảng Cát Lái - Thành phố Hồ Chí Minh (tràn 1.864 tấn dầu
DO); tàu Kasco Monrovia tại Cát Lái (tràn 518 tấn dầu DO); tàu Ðức Trí chở
1.700 tấn dầu FO đã bị chìm tại vùng biển Bình Thuận trong khi vào khu vực
Mũi Né (Phan Thiết). Đa phần các sự cố tràn dầu là do tại nạn, đâm va của tàu
dầu, trong đó: 56% số vụ < 700 tấn và 100% số vụ > 700 tấn (phụ lục 6).
Ngoài các vụ ô nhiễm biển do dầu xác định được nguồn gốc, biển Việt
Nam còn chịu tác động của ô nhiễm dầu chưa rõ nguồn gốc tại khu vực biển

miền Trung và miền Nam. Từ năm 1987 đến năm 2008, có hơn 90 vụ tràn dầu,
"đặc biệt trong hai năm 2006 và 2007 tại ven biển đã xảy ra một số sự cố tràn
dầu nhất là từ tháng 1/2007 đến tháng 6/2007, có rất nhiều vệt dầu trôi dạt dọc
bờ biển của 20 tỉnh từ đảo Bạch Long Vĩ xuống tới mũi Cà Mau" [5, tr. 225].
Ví dụ như 19/4/2007 dầu loang đổ bộ vào các bãi tắm ở trung tâm thành phố
Nha trang- Khánh Hòa; Ngày 20-4-2007 tại khu vực biển Bình Sơn (Phan
Rang - Tháp Chàm); "vụ tràn dầu ở biển Đà Nẵng, Quảng Nam vào ngày
31/01/2007 đã thu gom được gần 2.000 bao dầu (mỗi bao khoảng 50-70kg),
tuy nhiên dầu FO vẫn vón thành từng cục lớn theo sóng biển tiếp tục tấp vào
bờ, tính đến ngày 07/02/2007 đã có 24 huyện thị, 57 xã phường thị trấn ven
biển miền Trung của sáu tỉnh từ Thừa Thiên - Huế đến Bình Định bị ô nhiễm
nghiêm trọng do dầu tràn vào bờ. Tổng lượng dầu thô được thu gom ước tính
1.172 tấn dầu được các địa phương thu gom trên biển. Trong đó, Quảng Nam
bị nặng nhất với lượng dầu thu gom 660 tấn" [21].

12


Bên cạnh đó, vùng biển nước ta có khoảng 340 giếng khoan thăm dò
và khai thác dầu khí, ngoài việc thải nước lẫn dầu với khối lượng lớn, trung
bình mỗi năm hoạt động này còn phát sinh khoảng 5.600 tấn rác thải dầu khí,
trong đó có 20 - 30% là chất thải rắn nguy hại còn chưa có bãi chứa và nơi xử lý.
"Theo thống kê số liệu quan trắc tại các khu vực như Hạ
Long - Hải Phòng, nồng độ dầu trong nước trung bình 0,26mg/l, tại
khu vực Vũng Tàu - Đà Nẵng nồng độ dầu trong nước trung bình
0,29mg/l. Tại Bà Rịa-Vũng Tàu nồng độ dầu trong nước dao động
trong khoảng 0,14 đến 0,52mg/l đều vượt giới hạn Tiêu chuẩn Việt
Nam. Nhìn chung, chất lượng nước biển ven bờ chỉ đạt được mức B
và C theo QCVN 10:2008/BTNMT [13].
Có thể nói hiện nay, hàm lượng dầu trong nước biển đều vượt giới hạn

tiêu chuẩn Việt Nam và vượt rất xa tiêu chuẩn Hiệp hội các nước Đông Nam
Á (QCVN 10:2008/BTNMT Tiêu chuẩn chất lượng nước biển ven bờ là
0,2mg/l; "tiêu chuẩn ASEAN là 0,14mg/l" [4, tr. 308]). Đặc biệt, có những
thời điểm vùng nước khu vực cảng Cái Lân có hàm lượng dầu đạt mức 1,75
mg/l, gấp 6 lần giới hạn cho phép; vịnh Hạ Long có 1/3 diện tích biển hàm
lượng dầu thường xuyên từ 1 đến 1,73 mg/l.
Hậu quả của ô nhiễm biển do dầu gây ra tác động xấu cho môi trường
biển, đặc biệt đời sống của các sinh vật biển, gây trở ngại cho vận tải đường
biển, dịch vụ giải trí, du lịch biển... do dầu có thể lan đi rất xa, cặn dầu lắng
xuống đáy làm ô nhiễm trầm tích đáy biển làm ảnh hưởng cả một vùng biển
rộng lớn, hủy hoại nghiêm trọng chất lượng nước biển và làm chết các nguồn
sinh vật biển. Theo tính toán cứ một tấn dầu đổ ra biển có thể lan ra làm
nhiễm bẩn trên một diện tích tối thiểu 12km2 mặt biển với một lớp dầu dày từ
1/1000mm. Lớp dầu này ngăn cách nước với không khí cũng đủ làm cho sinh
vật sống trong nước bị chết ngạt. Dầu mỏ lan nhanh trên mặt biển do tính chất

13


lý - hóa học của nó, dưới tác động của dòng chảy, thủy triều và của gió, ảnh
hưởng lớn đến sinh hoạt và sự sống của các loài sinh vật, động vật sống ở
biển và thực vật của rừng ngập mặn.
1.1.5. Ô nhiễm biển từ tàu, cảng biển và công trình biển.
Ô nhiễm biển từ tàu: Việt Nam có vùng biển rộng lớn và nằm trên
tuyến hàng hải huyết mạch quốc tế nối hai đại dương lớn là Thái Bình Dương
và Ấn Độ Dương. Đây là một khu vực có tuyến hàng hải quốc tế quan trọng
nối liền các trung tâm xuất khẩu dầu lửa Trung Đông với các nước tiêu thụ
dầu lửa lớn ở bờ Bắc Thái Bình Dương, nơi có nhiều giàn khoan đang khai
thác dầu với số lượng lớn. Chính vì mật độ tàu thuyền qua lại lớn nên khả
năng ô nhiễm biển do dầu mà lượng tàu thuyền này gây ra cũng rất lớn.

Bảng 1.1: Cơ cấu đội tàu biển Việt Nam theo số lượng
Tỷ trọng so với tổng (%)

Năm

Tổng
(chiếc)

Tàu dầu

2001

631

8,72

1,74

59,74

29,80

2002

802

7,73

1,87


64,71

25,69

2003

925

7,89

1,95

64,32

25,84

2004

1.007

7,25

1,79

64,35

26,61

2005


1.084

7,38

1,85

65,87

24,90

2006

1.107

7,23

1,99

65,04

25,74

Tàucontainer Tàu hàng khô

Tàu khác

Nguồn: Cục Hàng Hải Việt Nam, 01/2007.
Do đó trong quá khứ cũng như tương lai, nguy cơ biển bị ô nhiễm do
dầu từ các hoạt động khai thác dầu khí và vận tải biển, đặc biệt là nguy cơ
tiềm ẩn từ các phương tiện chở dầu khi đi qua các vùng biển Việt Nam hoặc

từ các khu vực có thể gây ra sự cố tràn dầu do tai nạn, đâm va, mắc cạn đã và
sẽ là những mối lo thường trực trong công tác ngăn ngừa ô nhiễm môi trường
biển Việt Nam.

14


Bảng 1.2: Thống kê tai nạn hàng hải tại Việt Nam năm 2009
Phân loại tai nạn
Đâm va

Số vụ tai nạn
Đặc biệt nghiêm trọng

Nghiêm trọng

Ít nghiêm trọng

2

7

16

Va chạm

6

Mắc cạn


24

Cháy

1

2

Lật tàu
Chìm đắm

1
1

4

Tai nạn khác
Tổng cộng

4
1

4

13

52

Nguồn: Cục Hàng hải Việt Nam.
Đáng chú ý là tình trạng ô nhiễm biển có xu hướng gia tăng, phức tạp

hơn do số lượng tàu thuyền gắn máy loại nhỏ, công suất thấp, cũ kỹ và lạc
hậu tăng nhanh, nên khả năng thải dầu vào môi trường biển nhiều hơn. Ước
tính các tàu nhỏ chạy bằng xăng dầu đã thải ra khoảng 70% lượng dầu thải
vào biển. Tại vùng biển nước ta "theo số liệu ước tính của Cục Đăng kiểm
Việt Nam thì hoạt động hàng hải đã gây ô nhiễm tại vùng biển nước ta từ các
nguyên nhân sau: Do súc rửa hầm hàng 46%, từ nước lacanh, ballast 22%, từ
sự cố nhận dầu 3%, từ tràn dầu 24% và các nguyên nhân khác là 3%" [13].
Ô nhiễm do hoạt động tại cảng biển: Trong các vụ tràn dầu thì 90%
là trong quá trình nhận, trả hàng, tiếp nhận nhiên liệu và thường xảy ra trong
cảng hoặc tại bến nhận, trả hàng. Tại các cảng biển, hiện tượng ô nhiễm dầu
mỡ do các phương tiện để rò rỉ nước la canh, nước buồng máy, thậm chí bơm
trái phép ra biển vào ban đêm hoặc khi tàu bắt đầu rời cảng hay vào những lúc
thời tiết xấu. Việc cung cấp dầu mỡ, nhiên liệu cho tàu, sửa chữa nhỏ và vứt
bừa bãi các loại chất thải dính dầu mỡ cũng là nguyên nhân chính gây nên ô
nhiễm vùng nước cảng biển Việt Nam. Các sự cố như vỡ đường ống, tai nạn,
đâm va cũng dẫn đến ô nhiễm dầu tại các cảng biển. Theo số liệu quan trắc

15


nồng độ dầu ở tất cả các cảng đều vượt mức cho phép 0,2mg/l (QCVN
10:2008/BTNMT), cảng Hải Phòng 0,42mg/l; cảng Cái Lân 0,6mg/l; cảng
Vũng Tàu 0,52mg/l; cảng Vietso Petro 7,57mg/l. Đây là nguồn ô nhiễm hiện
hữu đang xảy ra tại các cảng biển của Việt Nam bởi các cảng không được
trang bị đầy đủ các thiết bị tiếp nhận chất thải cũng như công tác ngăn ngừa,
kiểm soát ô nhiễm còn chưa được hiệu quả.
Ô nhiễm bởi quá trình tiếp nhận và xử lý chất thải tại các thiết bị tiếp
nhận, thùng chứa nổi trên biển chứa các chất thải được bơm ra từ các bồn
chứa chất thải trên tàu biển. Công tác bảo dưỡng, bảo trì tàu biển thường sử
dụng hóa chất để tẩy rửa, mài mòn cũng như dùng loại sơn chống bám hà pha

dầu độc hại. Công việc sửa chữa tàu đã làm phát sinh ra các chất thải như: dầu
nhờn cũ, dầu động cơ, dung môi, ắc quy, một số loại hóa chất độc hại khác.
Ô nhiễm do các công trình trên biển: Hoạt động khai thác dầu khí
Việt Nam chủ yếu tập trung tại vịnh Bắc Bộ, vùng cửa Vịnh Bắc Bộ, vùng
biển Tây Nam, vịnh Thái Lan. Với sản lượng 362.000 thùng/ngày, Việt Nam
là một trong những nước có sản lượng dầu dẫn đầu trong khu vực Châu ÁThái Bình Dương nhưng bên cạnh những lợi ích mà khai thác dầu khí đạt
được, hệ quả ô nhiễm môi trường biển từ việc khai thác dầu khí như tràn dầu,
dò rỉ dầu từ các giàn khoan cũng góp phần làm cho môi trường biển Việt Nam
ngày càng xấu đi.
1.2. NỘI DUNG MỘT SỐ CÔNG ƢỚC QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN
NGĂN NGỪA Ô NHIỄM MÔI TRƢỜNG BIỂN

Các công ước quốc tế liên quan đến ngăn ngừa ô nhiễm môi trường
biển trước đây thường có phạm vi khá hẹp, nhưng đến nay đã được mở rộng
rất nhiều từ chỗ chỉ chủ yếu xác định các nghĩa vụ của các quốc gia trong việc
nghiên cứu và kiểm soát môi trường biển, đến việc xác định cả nghĩa vụ của
các quốc gia phải tiến hành các biện pháp làm giảm, ngăn ngừa các nguồn gây
ô nhiễm biển.

16


Để thực hiện việc BVMT biển, các Công ước có nhiều quy định: Xác
định các biện pháp nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm môi trường
biển; hợp tác trên phạm vi thế giới và khu vực, trợ giúp kỹ thuật cho các nước
đang phát triển trong việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển; giám sát các
hoạt động là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường biển...
1.2.1. Các Công ƣớc quốc tế liên quan đến ngăn ngừa ô nhiễm môi
trƣờng biển
Công ước quốc tế sẵn sàng, ứng phó và hợp tác đối với xử lý ô nhiễm

dầu (OPRC): Cũng như MARPOL, OPRC yêu cầu các quốc gia thành viên
phải thiết lập một hệ thống quy mô quốc gia hay thông qua hợp tác quốc tế để
thiết lập nên một mạng lưới toàn cầu về sẵn sàng ứng phó với những tai nạn
hay sự đe dọa của ô nhiễm do dầu. Các tàu phải có kế hoạch ứng cứu dầu
tràn, các dàn khoan trên biển thuộc quyền tài phán của các nước thành viên
cũng phải có kế hoạch hoặc một chương trình tương tự có sự phối hợp với hệ
thống của quốc gia nhằm phản ứng nhanh chóng và hiệu quả khi có tai nạn ô
nhiễm dầu. Các tàu phải có trách nhiệm báo cáo về những sự cố gây ô nhiễm
cho chính quyền nước ven biển và quy định chi tiết về những hành động phải
làm sau đó. Các nước thành viên của OPRC phải hỗ trợ các thành viên khác
trong trường hợp có tai nạn dầu tràn.
Công ước cũng yêu cầu quốc gia quy định cơ quan chịu trách nhiệm
về sẵn sàng và ứng phó với ô nhiễm dầu, địa chỉ cơ quan chịu trách nhiệm và
truyền những thông báo về ô nhiễm dầu, xây dựng một kế hoạch ứng cứu khẩn
cấp ở mức quốc gia, phối hợp với các cơ quan hữu quan khác trong việc cung
cấp, sử dụng trang thiết bị, tổ chức diễn tập huấn luyện ứng phó ô nhiễm dầu.
Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển do đổ các chất thải và những
vật liệu khác 1972 (London 1972) và Nghị định thư 1996: Mục tiêu cơ bản
của Công ước Lodon là ngăn chặn việc nhận chìm chất thải và các chất khác
có thể ảnh hưởng xấu tới môi trường biển. Trong cố gắng thúc đẩy việc kiểm

17


×