Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Chế độ tử tuất trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 từ thực tiễn tỉnh Nghệ An: Luận văn ThS. Luật: 603801

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 99 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ MINH NGA

CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT
TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRỊNH THỊ MINH NGA

CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT
TRONG LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu

HÀ NỘI - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kì công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã
thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn
Tôi xin chân thành cám ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trịnh Thị Minh Nga


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỬ TUẤT VÀ CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT ..... 6
1.1. Chế độ tử tuất ............................................................................................. 6
1.1.1. Thuật ngữ tử tuất ..................................................................................... 6
1.1.2. Khái niệm chế độ tử tuất ......................................................................... 7
1.1.3. Đặc điểm của chế độ tử tuất .................................................................... 8
1.1.4. Nguyên tắc chế độ tử tuất...................................................................... 14
1.1.5. Nội dung chế độ tử tuất ......................................................................... 19
1.1.6. Ý nghĩa chế độ tử tuất ........................................................................... 23
1.2. Chế độ tử tuất trong pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và những

gợi mở cho Việt Nam ...................................................................................... 24
1.2.1. Công ước của ILO về chế độ tử tuất ..................................................... 24
1.2.2. Chế độ tử tuất trong pháp luật của một số nước ................................... 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 33
Chƣơng 2 THỰC TRẠNG CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT TRONG LUẬT BẢO
HIỂM XÃ HỘI NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN TẠI TỈNH NGHỆ AN ..... 34
2.1. Thực trạng các quy định về chế độ tử tuất trong Luật Bảo hiểm xã hội
năm 2014 ......................................................................................................... 34
2.1.1. Thực trạng quy định chế độ tử tuất trong loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc ... 34
2.1.2. Thực trạng quy định chế độ tử tuất trong loại hình bảo hiểm xã hội
tự nguyện ........................................................................................................ 45
2.2. Những điểm mới của chế độ tử tuất trong luật BHXH năm 2014 ........... 49


2.3. Thực tiễn thi hành chế độ tử tuất tại tỉnh Nghệ An.................................. 54
2.3.1. Khái quát điều kiện kinh tế - xã hội tại tỉnh Nghệ An .......................... 54
2.3.3. Nhận xét chung về thực thi chế độ tử tuất trên địa bàn tỉnh Nghệ An . 60
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 69
Chƣơng 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN
THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN ............................................................. 70
3.1. Những yêu cầu đặt ra cần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế
độ tử tuất.......................................................................................................... 70
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ
tử tuất............................................................................................................... 74
3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ tử tuất trên
địa bàn tỉnh Nghệ An ...................................................................................... 79
3.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về chế độ tử tuất ............................ 79
3.3.1. Về nâng cao hiệu quả thực hiện chế độ trên địa bàn tỉnh Nghệ An...... 83
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 86

KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 89
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

BHYT:

Bảo hiểm y tế

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động

NLĐ:

Người lao động


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ra đời đã trở thành xương sống của hệ thống
an sinh xã hội và được tất cả các quốc gia thừa nhận là một trong những
quyền con ngƣời, điều đó được thể hiện rất rõ trong Tuyên ngôn nhân quyền
của Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948: “Tất cả mọi

người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội”.
Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế thị
trường - nơi mà có những nhóm người gặp rủi ro, bất hạnh, bị giảm hoặc mất
thu nhập, rơi vào tình trạng không tự lo được cuộc sống hoặc bị rơi vào vị trí
yếu thế trong xã hội. Ở Việt Nam, BHXH là trụ cột trong hệ thống an sinh xã
hội, đóng vai trò to lớn trong việc góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho
cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động. Bên cạnh việc quy định các
chế độ ưu việt cho người trực tiếp tham gia, thì BHXH còn góp phần hỗ trợ,
ổn định đời sống đối với đối tượng thụ hưởng gián tiếp. Một trong số các chế
độ đó chính là chế độ tử tuất, đây là khoản trợ cấp đối với nhân thân, gia đình
người tham gia BHXH đã mất nhằm mục đích hỗ trợ một phần chi phí mai
táng, trợ cấp cho những người mà khi còn sống, người tham gia BHXH có
trách nhiệm, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng. Việc quy định chế độ tử tuất
nằm trong hệ thống chế độ BHXH thể hiện tính ưu việt của chế độ, đã và
đang phát huy nhiều mặt tích cực, đảm bảo an sinh xã hội, góp phần ổn định
và nâng cao đời sống nhân dân. Chế độ tử tuất là một chế độ nằm trong hệ
thống các chế độ của BHXH có số lượng đối tượng thụ hưởng chiếm tỷ lệ lớn.
Theo số liệu báo cáo của BHXH Việt Nam, kết quả thực hiện 5 năm sau khi
Luật Bảo hiểm xã hội 2006 có hiệu lực 2007 - 2012, có bình quân 21.048
người/ năm hưởng trợ cấp tuất hàng tháng, 26.788 người hưởng trợ cấp tuất
1


một lần. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 tiếp tục dành 8 Điều (từ Điều 66 đến
Điều 71, Điều 80 và Điều 81) để quy định về chế độ tử tuất, bộ luật đã tiếp
thu, sửa đổi những hạn chế, bất cập trong Luật Bảo hiểm xã hội 2006, ở thời
điểm tác giả nghiên cứu về chế độ tử tuất thì Luật Bảo hiểm 2014 đã có hiệu
lực và bước đầu thể hiện sự phù hợp, đáp ứng được những yêu cầu cấp thiết
đặt ra trong tình hình kinh tế hiện thời, tuy nhiên với sự phát triển rất đa dạng
của đời sống xã hội sẽ không tránh khỏi những bất cập trong những quy định

mới này, gây ra sự bỡ ngỡ và ít nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện hoạt
động quản lý nhà nước cũng như đảm bảo chế độ cho người có đủ điều kiện
hưởng. Việc nghiên cứu về chế độ tử tuất không chỉ là một chế độ nằm trong
hệ thống các chế độ BHXH mà còn dưới góc độ khoa học, nhằm đánh giá một
cách toàn diện, thống nhất về chế độ này là rất cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay
chưa có một công trình nghiên cứu nào cụ thể về vấn đề này. Do đó, để góp
phần vào việc hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
chế độ tử tuất, học viên lựa chọn đề tài: “Chế độ tử tuất trong luật Bảo hiểm
xã hội hiện hành từ thực tiễn tỉnh Nghệ An” làm đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chế độ tử tuất tuy không phải là một nội dung mới trong hệ thống
BHXH, tuy nhiên hiện nay trên thực tế, chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách toàn diện về chế độ này. Chế độ này mới chỉ được
nghiên cứu như là một thành tố nằm trong hệ thống các chế độ BHXH như:
cuốn sách “Pháp luật an sinh xã hội- những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Tiến sĩ Nguyễn Hiền Phương; Luận văn thạc sĩ của Phạm Lan Hương “Pháp
luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ”; Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Lan Hương “Pháp luật về bảo hiểm
xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam hiện nay”; Luận văn thạc sĩ của
2


Nguyễn Thị Hà “Pháp luật về Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay”; hoặc
đề tài này mới chỉ được đề cập đến một số bài viết, chuyên đề của các nhà
khoa học trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành như Tạp chí Bảo
hiểm xã hội, Tạp chí Luật học, Tạp chí Lao động - Xã hội, một số các báo
cáo, chuyên đề tại các hội thảo chuyên ngành Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bảo hiểm xã hội,…
Việc luận văn đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện về chế độ tử tuất là

một trong số các chế độ thuộc hệ thống pháp luật BHXH Việt Nam, đánh giá
những ưu điểm, những hạn chế về quy định pháp luật về chế độ tử tuất và việc
thực thi chế độ này trong thực tế, từ đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện
quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về chế độ tử tuất
là cần thiết và không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào trước đây.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Luận văn làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận về chế độ tử tuất và
sự điều chỉnh của pháp luật về chế độ tử tuất. Ngoài ra, luận văn rút kinh
nghiệm pháp luật về chế độ tử tuất trong pháp luật của một số nước trên thế
giới để từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam cũng được tác giả luận văn đề
cập đến.
- Luận văn đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về chế độ tử
tuất, thực trạng thực hiện các quy định này trong thực tiễn để từ đó đưa ra một
số nhận xét về chế độ tử tuất cả về thành công và hạn chế. Luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về chế độ tử
tuất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện trong thực tiễn chế độ tử tuất từ
thực tiễn tỉnh Nghệ An.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về chế độ tử tuất
3


trong hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện trong Luật BHXH
năm 2014 và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Nghệ An.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung vào các vấn đề lý luận của pháp luật về chế độ tử
tuất nói chung và các điểm mới trong Luật Bảo hiểm xã hội 2014, và các văn
bản hướng dẫn. Ngoài ra, trên cơ sở so sánh với những ưu điểm và tồn tại của
Luật Bảo hiểm 2006, đồng thời đánh giá sự phù hợp của Luật Bảo hiểm 2014

với thực tiễn thực hiện từ đó rút ra những tồn tại và hạn chế của quy định pháp
luật và đưa ra một số đề xuất giải quyết những tồn tại đó cũng như giải pháp
tăng cường thực thi pháp luật về chế độ tử tuất từ thực tiễn tỉnh Nghệ An.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Các phương pháp khác: trên cơ sở phương pháp luận, luận văn sử
dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so
sánh, phương pháp thống kê và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên
cứu những vấn đề thuộc nội dung của đề tài.
- Luận văn cũng kế thừa, tham khảo một số tài liệu, một số cuộc khảo
sát, các báo cáo liên quan đến phạm vi nghiên cứu của đề tài từ năm 2013 đến
năm 2016.
6. Những đóng góp của đề tài
Luận văn đã nghiên cứu một cách đầy đủ các vấn đề lý luận về chế độ
tử tuất như khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật đối với
chế độ tử tuất; nghiên cứu chế độ tử tuất theo quy định pháp luật quốc tế và
một số nước trên thế giới từ đó rút kinh nghiệm đối với thực tiễn ở Việt Nam.
Luận văn cũng đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về chế độ tử
tuất hiện hành, thực tiễn thực thi các quy định đó và từ đó đưa ra các đề xuất
4


mới mang tính xây dựng, góp phần hoàn thiện, tăng cường đưa pháp luật về
chế độ tử tuất được thực thi tối đa trong thực tiễn, nâng cao hiệu quả công tác
quản lý nhà nước và đảm bảo an sinh xã hội trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho tất cả cán bộ, công chức làm việc trong hệ thống cơ quan Bảo hiểm xã
hội, ngành Lao động - Thương binh và Xã hội trên phạm vi toàn quốc. Luận
văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, học

tập, nghiên cứu hoặc bất kỳ ai quan tâm đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chế độ tử tuất.
Chương 2: Thực trạng chế độ tử tuất trong luật BHXH năm 2014 và
thực tiễn thực tại tỉnh Nghệ An.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả thực hiện chế độ tử tuất trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỬ TUẤT VÀ CHẾ ĐỘ TỬ TUẤT
1.1. Chế độ tử tuất
1.1.1. Thuật ngữ tử tuất
Trong xã hội, con người là trung tâm của mọi sự phát triển xã hội, vừa
là đối tượng trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội, vừa là đối tượng tiêu dùng.
Con người có nhiều nhu cầu khác nhau và để thỏa mãn những nhu cầu đó phụ
thuộc nhiều vào khả năng tài chính của mỗi người. Tuy nhiên, trong thực tế
cuộc sống cũng như quá trình sản xuất ngoài những điều kiện thuận lợi, con
người sẽ gặp phải nhiều rủi ro như: ốm đau, tai nạn, bệnh tật, dịch bệnh, mất
việc làm, mất khả năng lao động, già cả, bị chết…. Để vượt qua những khó
khăn tác động đến bản thân, gia đình con người cần có sự đùm bọc, chia sẻ từ
xã hội. Trong quy luật phát triển của mỗi người, luôn trải qua các giai đoạn:
sinh - lão - bệnh - tử, vì vậy, cuộc đời mỗi người, không phân biệt tôn giáo,
chủng tộc, màu da, điều kiện kinh tế cuối cùng đều phải đối mặt với cái chết,
tuy nhiên, việc cuộc đời mỗi người dài hay ngắn, và rủi ro xảy đến với mỗi
người có thể vào bất kì giai đoạn nào và với mỗi hoàn cảnh thì rủi ro đó lại có
những tác động khác nhau đến những người thân của họ.

Tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau trong lúc hoạn nạn, khó khăn đã
trở thành phong tục, truyền thống ngàn đời của dân tộc ta. Theo từ điển Tiếng
Việt, “tử” nghĩa là chết, “tuất” nghĩa là rủ lòng thương mà cửu giúp. Tử tuất
mang hàm ý hỗ trợ, cứu giúp gia đình, người thân của người đã chết. Việc
giúp đỡ gia đình của người đã chết thể hiện qua việc hỗ trợ tổ chức ma chay,
hỗ trợ thân nhân của người chết khi họ mất một phần thu nhập trong gia đình
là việc làm cần thiết để có thể giúp họ ổn định bước đầu khi khó khăn mới
xảy ra. Tinh thần này không chỉ bỏ hẹp trong phong tục, hương ước làng xã
6


mà đã được luật hóa nhằm huy động sự chung tay, góp sức của cả cộng đồng
xã hội. Như vậy có thể hiểu khái quát rằng, “tử tuất” chính là một phần của
chính sách an sinh xã hội mà mỗi nhà nước, mỗi quốc gia đều thể chế hóa
thành quy định pháp luật nhằm tạo nên những quy định chung mang tinh thần
nhân văn và kết nối giữa những người cùng sống chung trong cộng đồng, xã
hội, thể hiện tinh thần và trách nhiệm đối với thành viên trong xã hội mình.
1.1.2. Khái niệm chế độ tử tuất
Chế độ tử tuất là chế độ bảo hiểm xã hội đối với thân nhân của người
được bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết. Chế độ tử tuất bao gồm: trợ
cấp tiền mai táng và tiền tuất. Các nước còn gọi chế độ này là “bảo hiểm đối
với người còn sống” (survivos insurance).
Trong Công ước 102 (năm 1952) và Công ước số 128 (năm 1967) đều
quy định là: người chết (nam hoặc nữ) phải có thời gian đóng bảo hiểm xã hội
ít nhất 15 năm trở lên thì thân nhân mới được quyền hưởng trợ cấp tiền tuất.
Trường hợp người lao động chết vì tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thì
không đòi hỏi số năm đã đóng bảo hiểm xã hội của người chết, thân nhân
được hưởng chế độ tử tuất theo quy định của pháp luật quốc gia, thậm chí với
người vợ (chồng) góa hưởng chế độ tiền tuất thì không cần điều kiện về tuổi
đời và khả năng lao động.

Đối với các con của người lao động chết, Công ước số 102 (năm 1952)
và Công ước số 128 (năm 1967) đều định nghĩa là: con dưới 15 tuổi hoặc
dưới độ tuổi học hết giáo dục phổ cập bắt buộc, tùy theo quy định của pháp
luật từng quốc gia, bao gồm con đẻ và con nuôi mà người chết đã được trực
tiếp nuôi dưỡng khi còn sống. Con đẻ có thể là con chung của vợ hoặc chồng,
có thể là con riêng của chồng hay của vợ nhưng đều sống chung trong gia
đình, kể cả con ngoài giá thú vì trong bảo hiểm xã hội không có sự phân biệt
mà vẫn được xếp vào hàng thân nhân để xét hưởng tiền tuất theo quy định của
7


chế độ tử tuất. Nhiều nước giới hạn tuổi của các con được xét hưởng tiền tuất
khoảng 14 tuổi trở xuống hoặc thấp dưới 18 tuổi nếu con còn đi học. Đối với
trẻ em tàn tật thì thường không có giới hạn tuổi.
Do đó, khi người lao động chết, gia đình sẽ nhận khoản trợ cấp nhằm
bảo đảm và ổn định cuộc sống khi họ không còn tồn tại. Bảo hiểm xã hội với
bản chất là bảo hiểm cho thu nhập của người lao động trong trường hợp bị
giảm hoặc mất khả năng lao động nên cũng sẽ có trách nhiệm trợ giúp cho
thân nhân của người lao động - những đối tượng được hưởng từ thu nhập của
người lao động tham gia bảo hiểm khi còn sống.
Có quan điểm cho rằng: “Chế độ tử tuất là chế độ bảo hiểm xã hội đối
với thân nhân của người lao động đang tham gia lao động hoặc đã tham gia
quan hệ lao động nay đang hưởng bảo hiểm, đang chờ hưởng bảo hiểm mà bị
chết.” (1)
Có quan điểm khác cũng cho rằng: “Chế độ tử tuất là chế độ do quỹ
bảo hiểm xã hội chi trả chi phí mai táng người lao động khi chết cho người
đứng ra lo mai táng và nuôi dưỡng những người mà khi còn sống người lao
động phải có trách nhiệm nuôi dưỡng.” (2).
Theo tôi, chế độ tử tuất là: chế độ do quỹ bảo hiểm xã hội chi trả, gồm:
chi phí mai táng cho người lao động khi chết mà người lo mai táng chịu trách

nhiệm và trợ cấp nuôi dưỡng những người khi còn sống người lao động hoặc
người đang đang hưởng bảo hiểm, đang chờ hưởng bảo hiểm khi còn sống có
trách nhiệm nuôi dưỡng (chu cấp).
1.1.3. Đặc điểm của chế độ tử tuất
Từ khái niệm chế độ tử tuất đã phân tích ở trên, đặt trong tổng thể mối
quan hệ giữa chế độ tử tuất và các chế độ khác trong hệ thống bảo hiểm xã
hội. Chế độ tử tuất là hình thức bảo đảm có tính xã hội cao và mang những
đặc điểm cơ bản như sau:
8


Thứ nhất, đối tượng tham gia chế độ tử tuất là người lao động và người
sử dụng lao động. Chế độ tử tuất là chế độ bảo hiểm có sự tham gia của NLĐ
và NSDLĐ nhằm mục đích mang lại lợi ích trước tiên cho NLĐ, kể cả khi họ
không còn sống, chính vì lẽ đó, chế độ tử tuất hướng đến đối tượng là NLĐ và
người thân của họ. Nói cách khác, khi đã tham gia vào chế độ bảo hiểm tử
tuất, NLĐ được bảo vệ trực tiếp quyền lợi của bản thân và gia đình họ thông
qua việc bảo đảm thu nhập cho đến cả sau khi chết. Khi còn làm việc, người
lao động được đảm bảo khi bị ốm đau, lao động nữ được trợ cấp thai sản khi
sinh con; người bị tai nạn lao động được trợ cấp tai nạn lao động; khi không
còn làm việc nữa thì được hưởng tiền hưu trí, khi chết thì được tiền chôn cất
và gia đình được hưởng trợ cấp tuất… Đây là đặc trưng riêng của chế độ tử
tuất khác biệt hẳn so với các chế độ bảo hiểm xã hội khác.
Thứ hai, đối tượng thụ hưởng chế độ tử tuất là thân nhân người lao
động. Trong các loại hình chế độ BHXH, tất cả các chế độ khác đều hướng
đến đối tượng thụ hưởng là người trực tiếp tham gia bảo hiểm - NLĐ còn chế
độ tử tuất lại có sự phân biệt giữa người tham gia và người thụ hưởng chế độ.
Đối tượng được bảo hiểm là thu nhập của NLĐ và khi phát sinh rủi ro dẫn đến
bảo hiểm thì gia đình được hưởng các khoản bù đắp khi NLĐ thực hiện đầy
đủ các nghĩa vụ đóng bảo hiểm và đáp ứng điều kiện do luật định. Sự kiện

làm căn cứ phát sinh chế độ tử tuất là rủi ro dẫn đến cái chết của người tham
gia bảo hiểm. Do những sự kiện và rủi ro này mà người lao động và những
người được họ chu cấp bị giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Vì vậy, những
người phụ thuộc một phần (hoặc hoàn toàn) vào thu nhập của người lao động
cần phải có khoản thu nhập khác bù vào để ổn định cuộc sống và sự bù đắp
này được thông qua các trợ cấp tiền tuất. Tuy nhiên, để đám bảo sự công
bằng, tất yếu phải có các điều kiện làm phát sinh quyền lợi đối với bên thụ
hưởng chế độ. Đây là đặc thù riêng của chế độ tử tuất so với các chế độ khác
9


trong hệ thống bảo hiểm xã hội. Bởi vì, chế độ tử tuất có thể được xem là chế
độ bảo hiểm gián tiếp - dành cho người còn sống mà người đó không nhất
thiết phải là đối tượng tham gia bảo hiểm. Mỗi quốc gia có những quy định
riêng về điều kiện được nhận trợ cấp tuất đối với thân nhân người lao động
chết tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của quốc gia đó, tuy nhiên tất cả
các quy định này đều được xây dựng dựa trên các tiêu chí đánh giá sự tổn thất
của gia đình khi người lao động chết đi và mức độ phụ thuộc của từng thân
nhân vào người lao động khi họ còn sống.
Thứ ba, sự đóng góp của các bên tham gia chế độ tử tuất, bao gồm
người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước là nguồn hình thành cơ
bản của quỹ BHXH nói chung, trong đó có quỹ hưu trí, tử tuất. Mọi người lao
động khi tham gia BHXH trong đó có chế độ tử tuất có quyền được thanh
toán trợ cấp tuất khi chết, tuy nhiên quyền này chỉ có thể trở thành hiện thực
khi họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng BHXH. Điều này xuất phát từ nguyên
tắc chính của bảo hiểm xã hội là “có thu có hưởng”. Người chủ sử dụng lao
động cũng phải có trách nhiệm đóng BHXH cho người lao động mà mình
thuê mướn. Nhà nước đóng góp vào quỹ tử tuất với hai tư cách: là NSDLĐ
đóng góp vào quỹ tử tuất cho đội ngũ cán bộ hưởng lương từ ngân sách nhà
nước và với tư cách là chủ thể bảo hộ chế độ tử tuất có trách nhiệm đóng góp

nhằm bảo toàn sự hoạt động của quỹ. Vì vậy để được bảo đảm quyền lợi khi
các rủi ro xảy đến với mình, người tham gia có trách nhiệm thực hiện nghĩa
vụ đóng góp theo quy định nhằm duy trì sự ổn định và bền vững của nguồn
quỹ chi trả chế độ cho họ. Mặt khác, ngoài ra nguồn thu từ các đối tượng
tham gia bảo hiểm còn có thể đến từ các nguồn khác như lợi nhuận từ đầu tư
phần nhàn rỗi tương đối của quỹ; khoản nộp phạt của các doanh nghiệp/đơn
vị chậm nộp BHXH theo quy định của pháp luật và các nguồn thu hợp pháp
khác. Quỹ tử tuất dùng để chi trả các trợ cấp về chế độ tử tuất và chi phí cho
10


các hoạt động quản lý của bộ máy thực hiện chế độ. Như vậy, có thể thấy quỹ
tử tuất là một bộ phận của quỹ BHXH và về mặt bản chất tài chính, quỹ này
có thể vừa là quỹ tài chính, vừa là quỹ phát triển…
Thứ tư, hoạt động của chế độ tử tuất nhằm mục đích phi lợi nhuận. Các
hình thức bảo hiểm trong thực tế hoạt động với mục đích mang lại lợi nhuận
cho nhà đầu tư, tuy nhiên sự tồn tại của chế độ tử tuất và hệ thống bảo hiểm
xã hội lại nhằm mục tiêu xã hội. Trên thực tế, chức năng này được thể hiện
thông qua tổ chức quản lý bảo hiểm xã hội, đây là tổ chức dịch vụ công do
Nhà nước thành lập và hoạt động nhằm phục vụ mục đích do nhà nước đặt ra.
Qũy tử tuất được quản lý tập trung thống nhất, việc đầu tư quỹ tử tuất không
nhằm mục đích kinh doanh, không mang lại lợi ích cho cá nhân khi thực hiện
hoạt động đó và mục tiêu cuối cùng là nhằm phục vụ sự nghiệp bảo hiểm xã
hội nói chung.
Thứ năm, các hoạt động chế độ tử tuất được thực hiện trong khuôn khổ
pháp luật. Nhà nước quản lý và bảo hộ các hoạt động của chế độ tử tuất. Mối
quan hệ trong chế độ tử tuất dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên:
bên tham gia bảo hiểm, bên thực hiện bảo hiểm và bên thụ hưởng chế độ. Bên
tham gia chế độ tử tuất gồm: NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước có nghĩa vụ đóng
góp vào quỹ tử tuất. Bên thực hiện chế độ tử tuất là bên nhận tiền đóng vào

quỹ tử tuất từ những người tham gia và có trách nhiệm chi trả các khoản trợ
cấp cho các bên được hưởng chế độ khi có sự kiện phát sinh, đồng thời còn có
nghĩa vụ đầu tư phát triển quỹ tử tuất. Bên được hưởng chế độ là thân nhân của
người lao động nhận các khoản trợ cấp tiền tuất khi phát sinh nhu cầu bảo hiểm.
Việc tham gia vào quỹ tử tuất còn chịu sự giám sát chặt chẽ của người
lao động (thông qua tổ chức công đoàn) và người sử dụng lao động (thông
qua tổ chức của giới chủ) theo cơ chế ba bên. Đây cũng là đặc trưng rất riêng
của chế độ các chế độ BHXH trong đó có chế độ tử tuất. Tất cả những khía
11


cạnh đã nêu trên, một lần nữa cho thấy, chế độ tử tuất được lập ra là để tác
động vào thu nhập theo lao động của người lao động tham gia BHXH. Nói
cách khác, chế độ tử tuất nhằm bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho người
lao động trong trường hợp người này bị chết nhằm thỏa mãn những nhu cầu
sinh sống thiết yếu cho thân nhân của họ.
Các mối quan hệ của chế độ tử tuất với những đặc điểm nêu trên, có
mối quan hệ rất đa dạng và nhiều chiều, nhiều tầng; có những mối quan hệ
bên trong của chế độ tử tuất và quan hệ giữa chế độ tử tuất với các chế độ
khác trong hệ thống BHXH.
* Mối quan hệ nội tại của chế độ tử tuất: Mối quan hệ xuyên suốt
trong mọi hoạt động là mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi
của các bên tham gia và bên thụ hưởng chế độ. Khác với bảo hiểm thương
mại, trong mối quan hệ này dựa trên quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên:
bên tham gia chế độ, bên thực hiện chế độ và bên được thụ hưởng chế độ. ở
đây cũng cần làm rõ, ba bên trong chế độ tử tuất khác với ba bên trong quan
hệ lao động. Nếu như trong quan hệ lao động, ba bên bao gồm Nhà nước,
người sử dụng lao động và người lao động, thì trong quan hệ chế độ tử tuất ba
bên này chỉ là một bên tham gia chế độ là bên có trách nhiệm đóng góp vào
quỹ tử tuất theo quy định của pháp luật. Bên tham gia BHXH, như đã nêu,

gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước (trong một số
trường hợp). Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình
trên cơ sở san sẻ rủi ro của số đông người lao động khác. Người sử dụng lao
động có trách nhiệm phải bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn.
Khi tham gia chế độ tử tuất, người sử dụng lao động còn vì lợi ích của chính
họ và người thân họ.
Nhà nước tham gia trong mối quan hệ chế độ tử tuất với hai tư cách.
Thứ nhất, Nhà nước tham gia với tư cách là người sử dụng các công chức và
12


những người hưởng lương từ ngân sách. Khi đó, Nhà nước phải tham gia
đóng góp vào quỹ tử tuất thông qua kinh phí từ ngân sách, với tỷ lệ đóng góp
tương đương người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp. Thứ hai, Nhà
nước tham gia hoạt động BHXH với tư cách là người bảo hộ cho các hoạt
động của quỹ tử tuất, bảo đảm giá trị đồng vốn, và hỗ trợ cho quỹ tử tuất
trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra, Nhà nước tham gia chế độ tử tuất
còn với tư cách chủ thể quản lý, định ra những chế độ, chính sách, định hướng
cho các hoạt động bảo hiểm tử tuất .
Bên thực hiện chế độ tử tuất, đó là bên nhận tiền đóng góp vào quỹ tử
tuất từ những người tham gia. Bên thực hiện chế độ thường là một số tổ chức
(cơ quan…) do Nhà nước lập ra (ở một số nước có thể do tư nhân, tổ chức
kinh tế - xã hội lập ra theo quy định của pháp luật) và được Nhà nước bảo trợ,
nhận sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ tử
tuất theo quy định chặt chẽ của pháp luật. Bên thực hiện chế độ có trách
nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên được thụ hưởng chế độ khi có nhu cầu
phát sinh và có trách nhiệm quản lý và đầu tư cho quỹ tử tuất phát triển.
Bên thụ hưởng chế độ tử tuất, là bên được quyền nhận các loại trợ cấp
khi phát sinh nhu cầu được bảo hiểm, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các
loại sự kiện, rủi ro được bảo hiểm gây ra. Trong chế độ tử tuất, bên thụ hưởng

là nhân thân của người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật, khi họ
có phát sinh nhu cầu và đáp ứng các điều kiện được do pháp luật quy định.
Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nghĩa vụ, trách nhiệm và
quyền lợi, trên cơ sở các quy định của pháp luật (khác với bảo hiểm thương
mại là trên cơ sở hợp đồng). Nếu không thực hiện đúng các quy định về nghĩa
vụ, trách nhiệm đóng góp (của bên tham gia bảo hiểm) cũng như trách nhiệm
đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng (của bên thực hiện bảo hiểm), thì đều
là vi phạm pháp luật về BHXH.
13


* Mối quan hệ bên ngoài: Với tư cách là một chính sách, chế độ tử
tuất có mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác của hệ thống bảo hiểm
xã hội mỗi quốc gia mà trước hết là với chính sách về an sinh xã hội và các
chính sách xã hội. Trong hệ thống bảo hiểm xã hội của một quốc gia, gồm các
bộ phận: chế độ hưu trí, chế độ ốm đau, chế độ thai sản, chế độ tai nạn lao
động - bệnh nghề nghiệp, chế độ tử tuất… Trong đó, chế độ tử tuất là một
trong những chế độ cơ bản nhất hình thành trên rủi ro tất yếu mà ai cũng sẽ
trải qua theo quy luật của tự nhiên là sinh ra - chết đi, quỹ tử tuất cũng là
nguồn quỹ chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu chung của quỹ BHXH. Chính sách
về chế độ tử tuất có mối quan hệ hữu cơ hoặc chịu ảnh hưởng bởi các chính
sách xã hội khác như chính sách dân số; chính sách lao động - việc làm; chính
sách chăm sóc sức khỏe dân cư…Mỗi sự thay đổi của chính sách xã hội đều
có những ảnh hưởng nhất định hoặc tích cực, hoặc tiêu cực đến chính sách về
chế độ tử tuất.
1.1.4. Nguyên tắc chế độ tử tuất
Thứ nhất, nhà nước thống nhất quản lý bảo hiểm xã hội và đảm bảo
thực hiện chế độ tử tuất
Sự quản lý của nhà nước trước hết phải xuất phát từ chức năng của Nhà
nước. Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu cao nhất, người đại diện cho toàn

bộ xã hội phải thực hiện trách nhiệm đối với công dân của mình, quản lý toàn
bộ các quan hệ BHXH, trong đó có chế độ tử tuất. Chỉ có Nhà nước mới có
đầy đủ các điều kiện, khả năng thực hiện trọng trách này. Mặt khác, sự tham
gia của nhà nước khi quản lý chế độ tử tuất trong BHXH thể hiện sự tiến bộ
và tinh thần nhân đạo của pháp luật nước ta.
Việc thống nhất quản lý về chế độ tử tuất trước hết thể hiện bằng việc
nhà nước định ra các chính sách, cụ thể hóa bằng việc ban hành hệ thống pháp
luật điều chỉnh trực tiếp, chi tiết các quan hệ bảo hiểm, trong đó có quan hệ về
14


chế độ tử tuất, quy định về cơ chế quản lý quỹ hưu trí và tử tuất, tổ chức thực
hiện, kiểm tra việc thực hiện trong thực tế, xử phạt đối với cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến chế độ tử tuất. Vai trò quản lý nhà
nước còn thể hiện bằng việc nhà nước tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, bộ
máy cơ quan BHXH để thống nhất quản lý trong phạm vi toàn quốc.
Với vai trò là chủ sử dụng của những người lao động trong khu vực nhà
nước đóng góp vào quỹ hưu trí và tử tuất, Nhà nước còn có vai trò là người
bảo trợ, hỗ trợ tài chính cho quỹ nhằm bảo toàn sự tăng trưởng của quỹ này
cũng như các loại quỹ khác trong BHXH.
Thứ hai, mọi người lao động đều có quyền tham gia chế độ tử tuất và
thân nhân của họ được hưởng chế độ tử tuất
Cơ sở của nguyên tắc xuất phát từ mục đích ra đời của chế độ tử tuất,
đảm bảo bù đắp một phần thu nhập cho những rủi ro khi người lao động chết,
không có sự phân biệt giữa các thành phần xã hội. Quyền được hưởng chế độ
bảo hiểm xã hội nói chung đã được quy định trong Tuyên ngôn về nhân quyền
của Liên hiệp quốc 10/12/1948 “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên
của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội”. Ở Việt Nam, quyền tham gia và
hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, trong đó có chế độ tử tuất được ghi nhận trong
Hiến pháp năm 1992 (Điều 56) và Bộ Luật lao động (Điều 7) [ 3 ]

Nguyên tắc bảo đảm quyền tham gia chế độ tử tuất được thể hiện rõ
nhất ở việc quy định phạm vi đối tượng áp dụng chế độ tử tuất. Nguyên tắc
này được thể hiện trong các quy định cả BHXH bắt buộc và BHXH tự
nguyện, theo đó những đối tượng chưa thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc
sẽ thuộc diện tham gia BHXH tự nguyện và cả hai loại hình BHXH này đều
có chế độ tử tuất. [4]
Đối với người có quan hệ lao động, quyền tham gia chế độ tử tuất của
NLĐ được quy định cho chủ sử dụng lao động. NSDLĐ có NLĐ thuộc diện
15


tham gia bảo hiểm thì có nghĩa vụ đóng bảo hiểm cho NLĐ, đối với những
trường hợp không tuân thủ theo quy định thì sẽ bị xử phạt theo quy định của
pháp luật. Đối với những người không tham gia quan hệ lao động mà vẫn
trong độ tuổi lao động thì sẽ thuộc diện tham gia bảo hiểm tự nguyện. Đối với
những người đã từng tham gia quan hệ lao động nay đang được hưởng các trợ
cấp do mất sức lao động hoặc tuổi già cũng xem xét là người tham gia chế độ
tử tuất và thu nhập của họ cũng là đối tượng được bảo hiểm khi họ chết.
Thứ ba, chế độ tử tuất được chi trả trong mọi trường hợp người lao
động chết.
Là một chế độ quan trọng trong hệ thống các chế độ nhằm đảm bảo an
sinh xã hội, chế độ tử tuất không phân biệt nam, nữ, không phân biệt dân tộc,
tôn giáo, không phân biệt khu vực làm việc khi tham gia đóng góp BHXH nếu
đủ điều kiện theo những quy định đã đề ra thì người thân của họ đều được
hưởng quyền lợi về chế độ trên cơ sở mức đóng góp của người tham gia khi
còn sống. Nguyên tắc này tạo cơ sở pháp lý đảm bảo quyền lợi cho mọi người
lao động đồng thời khuyến khích mọi người lao động tham gia vào quỹ
BHXH.
Thứ tư, mức hưởng chế độ tử tuất dựa trên cơ sở thời gian đóng bảo
hiểm xã hội và chia sẻ giữa những người tham gia chế độ tử tuất

Bảo hiểm xã hội là một trong những hình thức phân phối lại thu nhập
giữa những người tham gia BHXH nên cần xác định một cách công bằng hợp
lý, tức mức hưởng căn cứ vào khoảng thời gian đóng góp vào quỹ BHXH.
Nằm trong nguyên tắc chung đó của BHXH, mức hưởng chế độ tử tuất cũng
cần có sự tương xứng với thời gian đóng góp, hạn chế sự bù đắp của nhà nước
đối với quỹ tử tuất, hạn chế sự bù đắp của Nhà nước vào quỹ tử tuất, tránh
tình trạng ngân sách Nhà nước phải bảo trợ cho những trợ cấp tiền tuất ở mức
cao; vì vậy mức đóng quỹ thường được khống chế ở mức trần nhất định.
16


Vai trò của bảo hiểm xã hội là nhằm mục đích chia sẻ rủi ro, mang tính
tương trợ cộng đồng, vì vậy, không phải ai tham gia đóng bảo hiểm xã hội
cũng đều được hưởng các loại hình trợ cấp tiền tuất và mức hưởng như nhau.
Trên cơ sở đó, các mức chi trả cho chế độ tử tuất được tính trên cơ sở thời
gian đóng không được cao hơn mức lương cơ sở khi người lao động đang làm
việc, tránh tình trạng gây khó khăn cho quỹ bảo hiểm xã hội trong việc cân
đối thu chi và tạo tâm lý ý lại của đối tượng thụ hưởng, trông chờ vào khoản
tiền BHXH. Việc kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc chia sẻ rủi ro trong cộng
đồng và mức hưởng trên cơ sở thời gian đóng bảo hiểm còn được thể hiện ở
việc điều chỉnh mức trợ cấp, tuy nhiên phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho
người lao động và gia đình họ.
Mặt khác, mức hưởng chế độ tử tuất phải được xây dựng trên cơ sở
điều kiện sống đáp ứng nhu cầu của dân cư và nhu cầu đặc biệt của người
không đủ khả năng tự nuôi sống bản thân như: người già, người tàn tật và trẻ
nhỏ. Đây cũng chính là một trong những đặc điểm đặc thù của chế độ tử tuất,
là hướng đến đối tượng được thụ hưởng chế độ không phải là người tham gia
nhưng lại có những điều kiện kinh tế đặc biệt nhằm giảm tải gánh nặng cho xã
hội và thể hiện trách nhiệm cộng đồng.
Như vậy, mức hưởng trợ cấp tiền tuất phải được tính toán hợp lý trên

cơ sở mức đóng, thời gian đóng và có chia sẻ cộng đồng, phải đảm bảo ý
nghĩa bù đắp thu nhập, cân đối tài chính giữa thu và chi đồng thời phải căn cứ
vào tình hình thực tế nền kinh tế - xã hội và các quy định chung của luật pháp
quốc tế.
Thứ năm, chế độ tử tuất được thực hiện trên cơ sở lấy số đông bù số ít
Quỹ tử tuất là một quỹ thành phần nằm trong quỹ BHXH, là một quỹ
tài chính tập trung được tồn tích dần bởi sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và
có sự hỗ trợ một phần của Nhà nước. Tuy nhiên, NSDLĐ đóng vào quỹ
17


BHXH không phải trực tiếp cho bản thân họ mà cho NLĐ do mình sử dụng.
NLĐ đóng vào quỹ tử tuất để bảo hiểm cho người thân của mình. Tuy thế,
không phải bất kì ai tham gia đóng vào quỹ tử tuất đều được chi trả mức tiền
trợ cấp tuất giống nhau mà chỉ khi họ gặp rủi ro và người thân của họ đáp ứng
đầy đủ các điều kiện cụ thể do pháp luật quy định mới được hưởng. Thông
thường, mức chi cho trợ cấp tuất thường chiếm tỉ lệ nhỏ hơn tổng số mức
đóng mà người tham gia đóng góp, và trong số đông những người tham gia
đóng góp thì chỉ những người tham gia gặp rủi ro mới được hưởng chế độ.
Nhở đảm bảo nguyên tắc số đông bù số ít trên cơ sở hình thành quỹ
BHXH tập trung độc lập mà BHXH thực hiện được phương thức vốn có của
mình là chia sẻ rủi ro theo nhiều chiều, tạo điều kiện phân phối lại thu nhập,
trên cơ sở đó, mục đích BHXH được thể hiện. Nguyên tắc số đông bù số ít là
nguyên tắc thể hiện tính nhân đạo và cộng đồng của hoạt động BHXH, trong
đó có chế độ tử tuất, có tác dụng điều hòa thu nhập, tạo ra sự ổn định chung
cho xã hội, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách toàn diện và bền vững.
Thứ sáu, quỹ tử tuất là một bộ phận của quỹ BHXH được quản lý
thống nhất, dân chủ, công khai và hạch toán độc lập.
Chế độ tử tuất là một chính sách ảnh hưởng đến đời sống xã hội, chứa
đựng cả nội dung kinh tế, nội dung xã hội và nội dung pháp lý. Để đảm bảo

thực hiện hài hòa các nội dung trên và đạt được những mục tiêu đề ra thì một
trong những vấn đề cần quan tâm là việc quản lý và sử dụng quỹ. Việc quản
lý và sử dụng quỹ trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý, hạch toán theo quy
định của pháp luật, độc lập với ngân sách Nhà nước. Trong cơ cấu của quỹ
BHXH có nhiều bộ phận cấu thành và quỹ tử tuất là một quỹ thành phần có
yêu cầu sử dụng, đối tượng và chế độ hưởng khác biệt, do đó việc sử dụng
quỹ tử tuất phải đúng mục đích.
Đồng thời, quỹ tử tuất cũng được lập theo mô hình quỹ tồn tích cộng
18


đồng nên việc hạch toán của quỹ được hạch toán hàng năm và báo cáo định
kỳ với cơ quan quản lý. Về mặt tài chính, quỹ tử tuất là một dạng quỹ tài
chính độc lập tự thu, tự chi nằm trong tổng thể quỹ BHXH và độc lập với
ngân sách Nhà nước, có sự kiểm tra, giám sát của đại diện các bên tham gia:
NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước.
Thứ bảy, việc thực hiện chế độ tử tuất phải đơn giản, dễ dàng, thuận
tiện, bảo đảm thực hiện áp dụng chế độ đối với mọi đối tượng người lao động
Trong hoạt động quản lý nhà nước về BHXH, thực hiện chế độ BHXH
giữa cơ quan Bảo hiểm xã hội đối với đối tượng thụ hưởng chế độ cần phát
sinh những thủ tục, trình tự mang tính chất hành chính để giải quyết. Để tránh
tình trạng gây phiền hà, thủ tục nhiêu khê đối với đối tượng thụ hưởng, cần có
quy định về việc tạo điều kiện dễ dàng, thuận lợi, nhanh chóng trong quá trình
làm thủ tục thụ hưởng cho đối tượng thụ hưởng, vừa đảm bảo yêu cầu của
quản lý nhà nước, mặt khác phải đảm bảo thực hiện chế độ đối với mọi người
lao động, không phân biệt người lao động có tham gia loại hình BHXH bắt
buộc hay BHXH tự nguyện, bởi ở cả hai loại hình BHXH này Luật BHXH
đều có quy định về chế độ tử tuất cho người lao động tham gia BHXH.
1.1.5. Nội dung chế độ tử tuất
* Chế độ trợ cấp mai táng

Về thực chất thì chế độ này nhằm mục đích trợ giúp một phần cho
những phí tổn mà người thân của người lao động phải chi trả cho việc tang lễ,
chôn cất người lao động chết. Mặc dù hình thức, cách thức cũng như phương
thức tổ chức ma chay ở mỗi nước, mỗi địa phương là khác nhau, phụ thuộc
vào phong tục, tập quán nhưng cho dù ở bất cứ đâu khi người lao động qua
đời, người thân của họ dù ít hay nhiều đều phải bỏ ra một khoản chi phí nhất
định để tổ chức tang lễ. Do đó, khoản trợ cấp mai táng phí sẽ chia sẻ phần nào
gánh nặng về tài chính này. Ở bất kể xã hội nào không phải mọi người lao
19


×