Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Giáo dục phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (960.45 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THÙY ANH

GI¸O DôC PHßNG, CHèNG THAM NHòNG
ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THÙY ANH

GI¸O DôC PHßNG, CHèNG THAM NHòNG
ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8380101.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. ĐINH VĂN MINH

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ như trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo độ chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THÙY ANH


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, em xin cảm ơn đến tất cả các quý thầy cô đã giảng dạy
trong chƣơng trình Cao học Luật Hiến pháp và Luật Hành chính - Đại học
Quốc gia Hà nội, những ngƣời đã truyền đạt cho em những kiến thức hữu ích
làm cơ sở cho em thực hiện tốt luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn đến TS. Đinh Văn Minh đã tận tình hƣớng
dẫn em trong thời gian thực hiện luận văn. Thầy đã hƣớng dẫn, chỉ bảo cho
em rất nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, cô Khoa đào tạo Sau đại học –
Đại học Quốc gia Hà nội đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập.
Sau cùng, em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình, bạn bè những
ngƣời đã luôn bên em, động viên và khuyến khích em trong suốt quá trình
thực hiện luận văn.
Do thời gian có hạn và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học chƣa nhiều
nên luận văn còn nhiều thiết sót, rất mong nhận đƣợc ý kiến góp ý của

Thầy/Cô và các bạn học viên./.
Hà Nội, ngày … tháng … năm 2019
Học viên

Nguyễn Thùy Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM ..................................................................... 6
1.1. Những vấn đề chung của giáo dục phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam ................................................................................................... 6
1.2. Nội dung, hình thức, phƣơng pháp giáo dục phòng, chống
tham nhũng ............................................................................................. 26
1.3. Các yếu tố tác động đến hiệu quả của công tác giáo dục
phòng, chống tham nhũng ....................................................................... 31
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ GIÁO DỤC PHÒNG, CHÔNG THAM
NHŨNG Ở VIỆT NAM ................................................................................. 39
2.1. Thực trạng tham nhũng và phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam ..... 39
2.2. Nhận thức chung của ngƣời dân về tham nhũng và phòng,
chống tham nhũng ................................................................................... 45
2.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về tăng cƣờng công tác
giáo dục phòng, chống tham nhũng ........................................................ 51

2.4. Thực trạng giáo dục phòng, chống tham nhũng .............................. 55
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC
PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM ................................... 76
3.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng, chống
tham nhũng ............................................................................................. 76


3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng nội dung, hình thức, phƣơng
pháp giáo dục phòng, chống tham nhũng ............................................... 77
3.3. Giải pháp nâng cao chất lƣợng của giáo viên giảng dạy nội
dung phòng, chống tham nhũng .............................................................. 79
3.4. Nhóm giải pháp về tăng cƣờng trách nhiệm của cơ sở giáo dục
đào tạo và tổ chức đoàn, hội đối với công tác giáo dục phòng,
chống tham nhũng ................................................................................... 80
3.5. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện giáo dục phòng, chống
tham nhũng .............................................................................................. 82
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 88


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Tên biểu đồ

Số hiệu

Trang

Biểu đồ 2.1


Điểm CPI của Việt Nam qua các năm

46

Biểu đồ 2.2

Nhận thức về tính hiệu quả trong các hành động phòng,
chống tham nhũng của Chính phủ Việt Nam

49

Biểu đồ 2.3

Sự thay đổi trong nhận thức về tính hiệu quả trong các
hành động phòng, chống tham nhũng của Chính phủ ở
Việt Nam (201-2016)

Biểu đồ 2.4

50

Quan điểm của ngƣời dân cho rằng Chính phủ đang còn
yếu kém trong việc xử lý tham nhũng trong bộ máy
chính quyền – Kết quả các nƣớc ASEAN

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Theo thống kê của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, hàng năm, trên thế giới
có từ 20 đến 40 tỉ USD đƣợc sử dụng để “bôi trơn” các hoạt động đầu tƣ kinh
doanh hoặc thủ tục hành chính [33]. Hiện nay, tham nhũng đang trở thành
hiện tƣợng phổ biến, thành câu chuyện hàng ngày của đời sống chính trị và
thậm chí ở một số nƣớc, đã trở thành quốc nạn. Chính vì vậy, phòng và chống
tham nhũng đƣợc xem là một trong những ƣu tiên hàng đầu trong chính sách
phát triển bền vững tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Ở Việt Nam, tham nhũng đang diễn ra phổ biến, nghiêm trọng, phức
tạp và trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới. Do vậy,
phòng, chống tham nhũng luôn là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nƣớc và
toàn thể xã hội. Từ năm 1990, Nhà nƣớc ta đã đẩy mạnh công tác phòng
chống tham nhũng thông qua nhiều biện pháp. Việc ban hành Luật Phòng,
chống tham nhũng năm 2005 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2012), Nghị quyết
số 21/NQ-CP ngày 12-5-2009 của Chính phủ về Chiến lƣợc quốc gia phòng,
chống tham nhũng đến năm 2020, và việc phê chuẩn Công ƣớc phòng, chống
tham nhũng của Liên hợp quốc (UNCAC) tháng 6 năm 2009 của Nhà nƣớc
Việt Nam đã thể hiện quyết tâm ngày càng gia tăng của Nhà nƣớc trong công
tác phòng, chống tham nhũng. Theo đó, các biện pháp phòng ngừa tham
nhũng thông qua giáo dục và nâng cao nhận thức của toàn xã hội cũng đang
dần dần đƣợc chú trọng.
Cuối năm 2009, Chính phủ nƣớc ta đã phê duyệt Đề án đƣa nội dung
phòng, chống tham nhũng vào chƣơng trình giáo dục, đào tạo, bồi dƣỡng [25].
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo
dục và cƣỡng chế, trong đó lấy tuyên truyền, giáo dục là nền tảng, cơ sở.

1


Ngƣời nói: “Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là
chính, trừng phạt là phụ” [10, tr.497]. Tuy nhiên, công tác giáo dục phòng,

chống tham nhũng ở Việt Nam vẫn còn nhiều điểm hạn chế, chƣa phổ biến
đƣợc với mọi đối tƣợng. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Giáo dục phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình, để qua đó nghiên cứu sâu
hơn về kinh nghiệm giáo dục phòng, chống tham nhũng của nhiều quốc gia
trên thế giới, đƣa ra những đề xuất kiến nghị phù hợp với điều kiện kinh tế,
chính trị xã hội ở Việt Nam, góp phần tăng cƣờng giáo dục phòng, chống
tham nhũng ở Việt Nam nói riêng và ủng hộ công tác phòng, chống tham
nhũng nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm trở lại đây, tham nhũng ngày càng trở thành vấn đề
nóng hổi và đƣợc dƣ luận quan tâm, do đó có rất nhiều tài liệu nghiên cứu ở
nhiều cấp độ và phạm vi khác nhau về các khía cạnh của tham nhũng cũng
nhƣ phòng, chống tham nhũng
Với nội dung là nâng cao nhận thức và vai trò của xã hội trong phòng,
chống tham nhũng, một số đề tài đã đƣợc triển khai nghiên cứu nhƣ:
- Luận cứ khoa học cho việc xây dựng Chiến lược quốc gia về phòng,
chống tham nhũng tại Việt Nam, Thanh tra Chính phủ, đề tài độc lập cấp nhà
nƣớc năm 2005
- Vai trò của xã hội trong phòng, chống tham nhũng, Thanh tra Chính
phủ, đề tài cấp bộ, năm 2009
- Vai trò của người cao tuổi trong phòng, chống tham nhũng, Thanh tra
Chính phủ, đề tài cấp bộ năm 2007, …
Những sách chuyên khảo có thể kể đến nhƣ: Ngân hàng thế giới, Kiềm
chế tham nhũng hướng tới một mô hình xây dựng trong sạch quốc gia, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2002; Ngân hàng thế giới, Việt Nam đấu tranh

2


với tham nhũng, năm 2002; Thanh tra Chính phủ, Một số vấn đề cơ bản về

phòng ngừa và chống tham nhũng, NXB Tƣ pháp, năm 2004; Thanh tra
Chính phủ, Với công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng, NXB Tƣ
pháp, năm 2004;…
Ngoài ra có nhiều bài báo nghiên cứu về tham nhũng, phòng chống
tham nhũng đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành nhƣ: Bàn về cuộc
đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta của TS. Vƣơng Trọng, Tạp chí cộng
sản số 21 (11-2001); Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay
của TS. Đỗ Ngọc Ninh, Tạp chí lý luận chính trị số 12-2001; Thế giới chống
tham nhũng của Vũ Hiên, Tạp chí cộng sản số 21 (11-2001); Khắc phục tệ
quan liêu tham nhũng từ góc độ bảo vệ cách mạng của Lê Văn Cƣơng, Tạp
chí thông tin lý luận số 4; Tiếp tục cuộc đấu tranh chống tệ quan liêu, tham
nhũng bài của Hoàng Kim Sơn, Tạp chí cộng sản số 1 (tháng 1 năm 2002)…
Các đề tài kể trên đều đã nêu ra đƣợc nguyên nhân tham nhũng, nhận diện
các hành vi tham nhũng trên thực tế, các giải pháp phòng, chống tham nhũng …
Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy, chƣa có một đề tài khoa học nào
nghiên cứu trực tiếp về giáo dục phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện
nay. Việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức về phòng, chống tham nhũng có ý
nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là đối với thế hệ tri thức trẻ, nhũng chủ nhân
tƣơng lai của đất nƣớc. Thông qua giáo dục phòng, chống tham nhũng sẽ góp
phần hình thành nên văn hóa phòng, chống tham nhũng trong cộng đồng. Đây
cũng là lí do mà đề tài này đƣợc lựa chọn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là đề xuất các giải pháp cụ thể trong việc nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
Để đạt đƣợc mục đích nhƣ vậy, đề tài có nhiệm vụ nhƣ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của hoạt động giáo dục phòng, chống tham

3



nhũng ở trong nƣớc, tập trung vào các nội dung sau: i) Nội dung giáo dục
phòng, chống tham nhũng; ii) Phƣơng pháp, hình thức giáo dục phòng, chống
tham nhũng; iii) Ý nghĩa của giáo dục phòng, chống tham nhũng
- Khái quát thực trạng nhận thức của ngƣời dân về tham nhũng và phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam, cũng nhƣ nội dung, hình thức, phƣơng pháp giáo
dục phòng, chống tham nhũng đang đƣợc áp dục tại các cơ sở giáo dục đào tạo
trong nƣớc. Trên cơ sở đó, đƣa ra những đánh giá của ngƣời viết về ƣu điểm,
nhƣợc điểm của công tác giáo dục phòng, chống tham nhũng hiện nay.
- Những khuyến nghị khoa học để: i) Xác định nội dung, hình thức,
phƣơng pháp giáo dục phòng, chống tham nhũng; cũng nhƣ trách nhiệm của
các cơ sở giáo dục đào tạo và tổ chức đoàn hội trong công tác này; ii) Các giải
pháp có tính khả thi trong việc nâng cao hiệu quả công tác giáo dục phòng,
chống tham nhũng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là hoạt động giáo dục phòng, chống
tham nhũng (nội dung, hình thức, phƣơng pháp giáo dục)
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu nhận thức của học sinh,
sinh viên, ngƣời đang theo học tại các cơ sở giáo dục, đào tạo về tham nhũng,
pháp luật phòng, chống tham nhũng và tình hình giáo dục phòng, chống tham
nhũng thông qua các số liệu thống kê của một số tổ chức phi chính phủ, và
đối tƣợng là ngƣời Việt Nam.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phƣơng pháp chung trong nghiên cứu khoa học xã
hội nhân văn, trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, kết
hợp chặt chẽ phƣơng pháp lịch sử và logic, lý luận và thực tiễn, phân tích và
tổng hợp, điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa luận và thực tiễn của đề tài
Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở để xây dựng nội dung

4



chƣơng trình giáo dục phòng, chống tham nhũng trong các cơ sở giáo dục và
đào tạo cũng nhƣ xác định hình thức, phƣơng pháp triển khai
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu đề
tài gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Cơ sở lý luận của giáo dục phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng về giáo dục phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp tăng cƣờng công tác giáo dục phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam.

5


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Ở VIỆT NAM
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
1.1.1. Khái niệm về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng
Trƣớc hết, muốn nhận thức đƣợc toàn diện về giáo dục phòng, chống
tham nhũng thì cần nắm đƣợc quan niệm cơ bản về tham nhũng và phòng,
chống tham nhũng
Tham nhũng là một hiện tƣợng xã hội gắn liền với sự hình thành giai
cấp và sự ra đời, phát triển của Nhà nƣớc. Tham nhũng diễn ra ở tất cả các
nƣớc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, xảy ra ở mọi lĩnh vực có
liên quan đến hoạt động quản lý xã hội. Đồng thời, tham nhũng cũng gây ra
những hậu quả vô cùng tai hại về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và là kẻ
thù của mọi tầng lớp nhân dân.

Tham nhũng có thể đƣợc coi nhƣ là biểu hiện của sự “tha hóa quyền lực
của Nhà nƣớc”, là căn bệnh cố hữu khó tránh khỏi của các chế độ. Montesquiers
đã chỉ rõ: “Mọi ngƣời có quyền lực đều có khuynh hƣớng lạm dụng nó, hình
thức và nội dung tham nhũng thay đổi theo bối cảnh kinh tế, chính trị xã hội,
phụ thuộc vào mối quan hệ giữa sự quan tâm của xã hội đối với vấn đề tham
nhũng và nền dân chủ” [14].
Hiện nay, có rất nhiều cách tiếp cận về khái niệm tham nhũng. Có
nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng nhƣ:
- Theo Tổ chức Minh bạch Thế giới (Transperancy International – TI),
tham nhũng là hành vi “của ngƣời lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm
trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”. Ngân hàng Thế giới (World Bank
– WB) cho rằng tham nhũng là “sự lạm dụng chức vụ công để tƣ lợi”

6


- Ban Tổng thƣ ký Liên hợp quốc cho rằng:
Tham nhũng bao hàm:
Một là: Hành vi của những ngƣời có chức, có quyền ăn cắp, tham ô
và chiếm đoạt tài sản của Nhà nƣớc.
Hai là: Lạm dụng chức quyền để trục lợi bất hợp pháp thông qua
việc sử dụng các quy chế chính thức một cách không chính thức.
Ba là: Sự mâu thuẫn, không cân đối giữa các lợi ích chính đáng do
thực hiện nghĩa vụ xã hội với những món tƣ lợi riêng [34].
Chủ tịch Hồ Chí Minh không sử dụng danh từ “tham nhũng”, nhƣng
Ngƣời thƣờng nói nó là tham ô – biểu hiện đặc trƣng nhất của tham nhũng:
“Tham ô là gì?”
- Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là:
Ăn cắp của công làm của tƣ; Đục khoét của nhân dân; Ăn bớt của bộ đội.
Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ

riêng cho địa phƣơng mình, đơn vị mình, cũng là tham ô.
- Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian,
lậu thuế.
Ngƣời đồng thời khẳng định: “Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi
đê tiện nhất trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm
của tƣ” [7, tr.89, tr.490, 495].
Theo nghĩa rộng, tham nhũng đƣợc hiểu là hành vi của bất kỳ ngƣời
nào có chức vụ, quyền hạn hoặc đƣợc giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ đƣợc giao để vụ lợi. Theo Từ điển Tiếng
Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân lấy của [15].
Tài liệu hƣớng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham
nhũng (năm 1969) định nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi
dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng…

7


Theo nghĩa hẹp và là khái niệm đƣợc pháp luật Việt Nam quy định,
tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ,
quyền hạn đó vì vụ lợi [17, tr.8]. Ngƣời có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở
những ngƣời làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc hệ thống chính
trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn,
tài sản của Nhà nƣớc. Việc giới hạn nhƣ vậy nhằm tập trung đấu tranh chống
những hành vi tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng
tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp dụng các biện pháp phòng, chống tham
nhũng nhƣ: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ
quan, tổ chức, đơn vị xử lý trách nhiệm của ngƣời đứng đầu.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc
trƣng cơ bản nhƣ sau:
Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn

Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là ngƣời có
chức vụ, quyền hạn. Ngƣời có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công
chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ,
sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn – kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nƣớc; cán
bộ lãnh đạo, quản lý ngƣời đại diện phần vốn góp của Nhà nƣớc tại doanh
nghiệp; ngƣời đƣợc giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khu
thực hiện nhiệm vụ, công vụ [17].
Nhìn chung, nhóm đối tƣợng này có đặc điểm đặc thù so với các nhóm
đối tƣợng khác nhƣ: họ thƣờng là những ngƣời có quá trình công tác và cống
hiến nên có nhiều kinh nghiệm; đƣợc đào tạo có hệ thống, là những chuyên
gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau, là những ngƣời có quan hệ rộng và có uy
tín xã hội nhất định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này

8


của chủ thể hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát
hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng.
Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trƣng thứ hai của tham
nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức
vụ, quyền hạn của mình” nhƣ một phƣơng tiện để mang lại lợi ích cho mình,
cho gia đình mình hoặc cho ngƣời khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định
hành vi tham nhũng. Một ngƣời có chức vụ, quyền hạn nhƣng không lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó thì không thể có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên,
không phải mọi hành vi của ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn đó đều đƣợc coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa
giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lƣu ý khi phân

biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác [13].
Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý [30]. Mục đích của hành vi tham
nhũng là vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó
không là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây đƣợc hiểu là lợi ích vật chất hoặc
lợi ích tinh thần mà ngƣời có chức vụ, quyền hạn đã đạt đƣợc hoặc có thể đạt
đƣợc thông qua hành vi tham nhũng. Nhƣ vậy, khi xử lý về hành vi tham
nhũng, không bắt buộc chủ thể tham nhũng phải đạt đƣợc lợi ích.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức
độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định
những lợi ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt đƣợc để từ đó quyết định mức
độ xử lý. Lợi ích vật chất hiện nay trong cơ chế thị trƣờng thể hiện ở rất nhiều
dạng khác nhau, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi đƣợc
để đánh giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt đƣợc thì sẽ là không đầy đủ. Thêm
nữa, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt; ví dụ nhƣ:

9


việc dùng tài sản của Nhà nƣớc để khuếch trƣơng thanh thế, gây dựng uy tín
hay các mối quan hệ để thu lợi bất chính. Trong trƣờng hợp này, mục đích
của hành vi vừa là lợi ích vật chất, vừa là lợi ích tinh thần…
Mặc dù đƣợc diễn đạt khác nhau, song hầu hết các quan điểm trên đều
giống nhau ở chỗ cho rằng tham nhũng là hành vi của những ngƣời có chức
vụ, quyền hạn hoặc đƣợc giao thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhƣng đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn hoặc công vụ, nhiệm vụ đó để trục lợi cá nhân.
Vì vậy, có thể đƣa ra quan niệm về tham nhũng là hành vi trái pháp luật
của ngƣời có chức vụ, quyền hạn hoặc đƣợc giao thực hiện công vụ, nhiệm vụ
nhƣng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc công vụ, nhiệm vụ đó để vụ lợi
cá nhân, làm thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nƣớc,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Nhận diện đƣợc tham nhũng một cách đầy đủ về cả nguồn gốc, nguyên
nhân phát sinh cũng nhƣ hình thức biểu hiện là điều kiện quan trọng trong
công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ví nhƣ bắt đúng bệnh mà chọn
đúng thuốc. Song bởi đây là căn bệnh nan y, một điểm nguy hại mà đến thời
điểm này đƣợc xem nhƣ quốc nạn thì việc khẩn trƣơng tìm phƣơng thuốc hữu
hiệu lại cần thiết hơn bao giờ hết. Từ trƣớc đến nay, Đảng ta đã ban hành rất
nhiều chỉ thị, nghị quyết để lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, Nghị
quyết số 14/NQ/TW ngày 15-5-1996 về quan điểm chỉ đạo và một số giải
pháp để đấu tranh chống tham nhũng của Bộ Chính trị khóa VII đã chỉ rõ:
Đấu tranh chống tham nhũng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn
bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng và nhân dân ta hiện nay [2]. Nó
góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cƣờng hiệu quả quản lí Nhà
nƣớc, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà nƣớc trong sạch, vững mạnh,
thực hiện quyền dân chủ của nhân dân… Đấu tranh chống tham nhũng phải
gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị,

10


tăng cƣờng đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lƣợc
là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra nhiều chủ
trƣơng, giải pháp nhằm đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng,
trong đó xác định “Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một
nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thƣờng
xuyên của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội”. Đại hội yêu cầu: “Thành lập
các ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng trung ƣơng và địa phƣơng đủ
mạnh, có thực quyền, hoạt động có hiệu quả”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Hội nghị lần

thứ ba Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa X đã ra Nghị quyết về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí [3]. Đây là Nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng đề
cập một cách toàn diện, tập trung về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí. Nghị quyết Trung ƣơng 3 khóa X đã đƣa ra những nhận định, đánh giá về
công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; chỉ ra những nguyên nhân chủ
yếu của những thiếu sót, khuyết điểm trong phòng, chống tham nhũng, lãng
phí; đề ra những mục tiêu, quan điểm chỉ đạo công tác phòng, chống tham
nhũng, lãng phí [4].
Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ đƣợc các quốc gia trên thế giới
quan tâm thực hiện. Phòng, chống tham nhũng đƣợc hiểu là các hoạt động
“phòng ngừa tham nhũng” và phát hiện, xử lý tham nhũng nhằm thực hiện
mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng tham nhũng.
Phòng, ngừa tham nhũng là biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa sự phát
sinh các hành vi tham nhũng (không để tham nhũng xảy ra). Tùy theo điều
kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi nƣớc có những cách thức,
biện pháp phòng ngừa khác nhau. Trong đó đáng kể nhất là các biện pháp tiền

11


đề đƣợc các quốc gia trên thế giới áp dụng, đó là tăng cƣờng tính công khai,
minh bạch đối với các hoạt động của nhà nƣớc; minh bạch tài sản, thu nhập
của công chức; kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của những ngƣời có chức
vụ, quyền hạn; cải cách thủ tục hành chính, đƣa ứng dụng công nghệ vào quản
lý; thực hiện tốt thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao trách nhiệm của
ngƣời đứng đầu, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp;
tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc, quản lý kinh tế xã hội trên các lĩnh
vực. Việc thực hiện các biện pháp này là điều kiện cần thiết để đề phòng,
ngăn ngừa các hành vi tham nhũng nảy sinh trên thực tế.

Đi đôi với phòng ngừa tham nhũng, các quốc gia trên thế giới đều sử
dụng các công cụ để phát hiện và xử lý những ngƣời có hành vi tham nhũng.
Phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng là biện pháp quan trọng nhất trong đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, thể hiện thái độ phản ứng của nhà nƣớc đối
với tham nhũng.
Phát hiện tham nhũng là quá trình tìm ra các hành vi tham nhũng đƣợc
thực hiện bởi các chủ thể cụ thể. Do chủ thể tham nhũng thƣờng là những
ngƣời có chức vụ, quyền hạn và một số trƣờng hợp đƣợc che đậy bằng các
thủ đoạn hết sức tinh vi, thậm chí còn đƣợc các công cụ quyền lực bảo vệ,
che chắn, do đó việc phát hiện tham nhũng là một trong những công việc hết
sức khó khăn. Để phát hiện tham nhũng, các quốc gia trên thế giới đã áp
dụng nhiều cách thức, nhƣng chủ yếu là thông qua các nhánh quyền lực,
trong đó, có những công cụ phát hiện của nhà nƣớc nhƣng cũng có công cụ
từ xã hội. Công cụ chính để phát hiện tham nhũng mà nhiều quốc gia trên
thế giới áp dụng đó là thông qua hoạt động của cơ quan chức năng, chuyên
trách về phòng, chống tham nhũng nhƣ: thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều
tra, kiểm sát. Ngoài ra, trên thực tế hiện nay có nhiều hành vi tham nhũng
đƣợc phát hiện xuất phát từ nguồn cung cấp thông tin từ phía tổ chức, cá

12


nhân, trong đó không thể không nói đến vai trò của các cơ quan thông tấn
báo chí và việc tố cáo hành vi tham nhũng của công dân. Để phát huy vai trò
của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, nhà nƣớc cũng xây dựng cơ chế để
mọi công dân có điều kiện tham gia vào việc phát hiện tham nhũng thông
qua nhiều hình thức, nhất là cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng cho
các cơ quan chức năng của nhà nƣớc.
1.1.2. Khái niệm về giáo dục phòng, chống tham nhũng
Phòng chống tham nhũng là một vấn đề cấp thiết đối với thế giới nói

chung cũng nhƣ Việt Nam nói riêng, vấn đề tham nhũng hay công tác phòng
chống tham nhũng luôn đƣợc nhà nƣớc ta chỉ đạo và đề cập mạnh mẽ trong
công tác quản lý nhà nƣớc.
Nhằm giáo dục nhận thức, đạo đức liêm chính cho mọi ngƣời dân, nhất
là đối với đội ngũ cán bộ công chức, cán bộ lãnh đạo, Chính phủ nhiều nƣớc
đã chủ trƣơng thực hiện các biện pháp cơ bản nhƣ: Đƣa nội dung phòng,
chống tham nhũng vào giảng dạy trong các trƣờng học để giáo dục ngay từ
nhỏ về đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, cách ứng xử văn minh, lịch
thiệp đối với thế hệ trẻ; Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về tham nhũng cũng
nhƣ hậu quả, tác hại của nó đến mọi ngƣời dân để ngƣời dân nhận diện đƣợc
các hành vi tham nhũng, có thái độ lên án và tinh thần kiên quyết đấu tranh
chống tham nhũng; Ban hành các văn bản, đạo luật qui định cụ thể về đạo đức
của cán bộ công chức, đặc biệt là những viên chức cấp cao trong từng ngành,
từng lĩnh vực, qua đó để nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống tham
nhũng... Điển hình nhƣ Mỹ, việc thực hiện chế độ liêm chính đối với cán bộ,
công chức nhà nƣớc đã đƣợc triển khai từ rất sớm. Năm 1978, Hoa Kỳ đã ban
hành đạo luật về Đạo đức Chính phủ và thành lập Văn phòng Đạo đức Chính
phủ (OGE) - một cơ quan hành pháp của Chính phủ nhằm thực hiện sứ mệnh
ngăn ngừa xung đột lợi ích, bảo vệ liêm chính, củng cố lòng tin của nhân dân.

13


Đầu năm 1989, Chính phủ Mỹ đã ký sắc lệnh ban hành 14 nguyên tắc đạo đức
đối với công chức Liên bang. Trong đó, qui định những việc công chức đƣợc
làm, không đƣợc làm nhằm thực hiện tính liêm chính trong quan hệ công tác
và xã hội. Bên cạnh đó, Chính phủ Mỹ còn ban hành các văn bản khác liên
quan đến qui định đạo đức của công chức nhƣ: Quy định các chuẩn mực quy
tắc đạo đức đối với công chức; 10 nguyên tắc đạo đức hàng đầu của Bộ
Thƣơng mại... Ở Australia, Chính phủ đã xây dựng bộ quy tắc ứng xử của cán

bộ công chức, cán bộ lãnh đạo, gồm: Tính trung thực, liêm chính trong công
việc của mình; hoạt động thận trọng, tuân thủ luật pháp, tập quán quy định
của cơ quan; ứng xử với mọi ngƣời tận tuỵ, nhã nhặn, có văn hoá; bảo đảm
tính bảo mật trong ứng xử với nhân viên và cấp trên; sử dụng nguồn lực liên
banh phù hợp; không cung cấp những thông tin giả, lạc hƣớng, không sử dụng
một cách không phù hợp những thông tin nội bộ, tận dụng những công việc,
vị trí đang có để tƣ lợi hoặc đem lại lợi ích cho bản thân, hoặc ngƣời quen
biết; mọi lúc, mọi nơi phải tuân thủ các giá trị của đơn vị, đặc biệt tính liêm
chính của cán bộ công chức nếu công tác ở nƣớc ngoài lúc nào cũng phải lịch
sự để duy trì uy tín tốt đẹp, không đƣợc phép để lộ những thông tin nội bộ
gián tiếp hoặc trực tiếp; mọi công chức đều phải tiết kiệm, kê khai tài sản
trung thực; tự kiểm tra, tăng thêm tính giải trình, tính minh bạch... Trong khi
đó, Hồng Kông, một trong những vấn đề rất quan trọng đƣợc Chính phủ xác
định trong các giải pháp chống tham nhũng là giáo dục cho công chúng về tác
hại của tham nhũng và tìm kiếm sự ủng hộ, tham gia tích cực của công chúng;
Hàn Quốc đã đƣa nội dung chống tham nhũng vào giảng dạy trong các trƣờng
học để giúp học sinh hiểu rõ đƣợc tác hại của tham nhũng ngay khi còn ngồi
trên ghế nhà trƣờng. Giáo dục về phòng, chống tham nhũng đóng một vai trò
rất quan trọng đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Thực tế hiện nay ở
nƣớc ta cho thấy công tác giáo dục về phòng chống tham nhũng chƣa thực sự

14


đƣợc đẩy mạnh để phát huy đƣợc hiệu quả của nó. Muốn ngăn chặn đƣợc
những hành vi tham ô, tham nhũng, phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các hành
vi lạm quyền tƣ lợi thì ta phải có những biện pháp đẩy mạnh tuyên truyền,
giáo dục về phòng chống tham nhũng cho ngƣời học nhằm huy động tối đa sự
tham gia của xã hội vào công tác ngăn chặn, phòng ngừa hành vi tham nhũng.
Để công tác này phát huy tính tích cực và mang lại hiệu quả cho hoạt

động phòng, chống tham nhũng thì cần phải đẩy mạnh việc xây dựng
chƣơng trình học tập cũng nhƣ các chính sách nhằm thúc đẩy việc nâng cao
nhận thức của ngƣời học đối với công tác phòng, chống tham nhũng. Đảng
và Nhà nƣớc ta đã có những chính sách chú trọng nhằm đẩy mạnh công tác
giáo dục về phòng, chống tham nhũng trong các cơ sở giáo dục, đào tạo
trên phạm vi cả nƣớc.
Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ƣơng
Đảng khóa X về đƣa nội dung Luật phòng, chống tham nhũng vào chƣơng
trình giáo dục; Đề án 137 với mục tiêu “nâng cao nhận thức, trách nhiệm và
xây dựng thái độ, ý thức tự giác cho cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên
trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; phát huy vai trò của xã hội, các cơ
quan nhà nƣớc, qua đó tạo ra phong trào sâu rộng đấu tranh phòng, chống
tham nhũng, từng bƣớc hình thành văn hóa phi tham nhũng”[23].
Việc đƣa nội dung giáo dục phòng, chống tham nhũng vào các cơ sở
giáo dục, đào tạo nhằm mục tiêu thay đổi nhận thức. Việc tổ chức giảng dạy
nội dung phòng, chống tham nhũng tại các trƣờng học đƣợc thực hiện theo
phƣơng pháp lồng ghép, tích hợp vào các môn học đƣợc qui định phù hợp với
từng cấp học.
Từ sự đề cập các khía cạnh nêu trên, có thể định nghĩa nhƣ sau:
Giáo dục phòng, chống tham nhũng là quá trình hoạt động có mục đích,
có tổ chức, tuân theo kế hoạch, tƣơng ứng với những nội dung và thông qua

15


các phƣơng pháp, hình thức đa dạng tác động đến tất cả mọi ngƣời nhằm
trang bị kiến thức cơ bản, nâng cao nhận thức, sự hiểu biết về phòng, chống
tham nhũng; xây dựng thái độ, ý thức tự giác của họ đối với công tác phòng,
chống tham nhũng, qua đó giúp cho mọi ngƣời tham gia phối hợp với các cơ
quan chức năng trong công tác phòng, chống tham nhũng.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác giáo dục phòng, chống tham
nhũng, kể từ năm 1998 trở lại đây, công tác này luôn đƣợc Đảng và Nhà nƣớc
dành sự quan tâm đặc biệt hơn so với giai đoạn trƣớc đó. Sự quan tâm đặc
biệt này là một tất yếu khách quan nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc xây
dựng và không ngừng hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Tham nhũng là hành vi nguy hiểm cho xã hội xuất phát từ lòng tham
của con ngƣời, ngƣời thực hiện hành vi tham nhũng không chỉ làm ảnh hƣởng
đến lợi ích của một ngƣời, hay một nhóm ngƣời nhất định, mà còn làm ảnh
hƣởng đến lợi ích chung của toàn xã hội, vì vậy ngƣời thực hiện hành vi tham
nhũng sẽ phải chịu những hình phạt nghiêm khắc theo qui định của pháp luật.
Giáo dục phòng, chống tham nhũng không chỉ nhằm cung cấp nhận thức cơ
bản về tham nhũng, tác động đến tính tự giác của mỗi ngƣời mà còn giúp họ
thấy đƣợc trách nhiệm, hình phạt mà bản thân phải nhận sau khi thực hiện
hành vi tham nhũng. Vì vậy, có thể khẳng định: Giáo dục phòng, chống tham
nhũng bao gồm hai nội dung: giáo dục đạo đức liêm chính và giáo dục pháp
luật phòng, chống tham nhũng.
* Giáo dục đạo đức liêm chính
Ý thức đạo đức là một trong số các hình thái của ý thức xã hội, bao
gồm những nguyên tắc và chuẩn mực xã hội, mà dựa vào đó con ngƣời điều
chỉnh hành vi, ứng xử của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, của
xã hội trong mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với xã hội.

16


Liêm chính là một biểu hiện của đạo đức, tuy nhiên không phải lúc nào liêm
chính với đạo đức cũng đồng nhất.
Trong mỗi lĩnh vực, liêm chính lại đƣợc hiểu theo những cách khác
nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt, "liêm" là "không tham lam, trong sạch";

"chính" là "ngay thẳng, đúng đắn, trái với tà"; "liêm chính" là "trong sạch và
ngay thẳng" [32].
Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) cũng đƣa ra khái niệm: "Liêm chính"
là những ứng xử và hành động theo các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức hoặc
đạo lý đƣợc các cá nhân cũng nhƣ tổ chức chấp nhận nhằm ngăn chặn tham
nhũng [27]. Liêm chính bao gồm các yếu tố sau: Phẩm chất và đạo đức - hiểu
biết về khái niệm và các chuẩn mực hành vi; các nguyên tắc - khả năng phân biệt
đúng, sai; tuân thủ pháp luật - mức độ tuân thủ khung pháp lý do xã hội đặt ra.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, liêm là trong sạch, luôn
tôn trọng, giữ gìn của công, của dân, không xâm phạm một hạt thóc, một
đồng xu của nhà nƣớc, của nhân dân, không tham địa vị, tiền tài, không
tham sung sƣớng, không ham ngƣời tâng bốc mình, chỉ có một thứ ham là
ham học, ham làm, ham tiến bộ, vì vậy mà quang minh chính đại không bao
giờ hủ hoá [8, tr.636, 640]. Ngƣời cũng chỉ rõ ngƣợc lại với chữ liêm là tham
ô, là ăn cắp của công làm của tƣ, đục khoét nhân dân, tiêu ít mà khai nhiều.
Tham ô là trộm cƣớp, là kẻ thù của nhân dân. Muốn liêm thật sự thì phải
chống tham ô.
Chính là thẳng thắn, đứng đắn. Với bản thân, không tự cao tự đại, biết
vị trí, khả năng của mình, phát huy cái tốt, cái hay, sửa đổi cái dở; đối với
ngƣời khác, không xu nịnh ngƣời trên, coi thƣờng ngƣời dƣới, luôn có thái độ
chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không giả dối, bao che; đối với công việc,
luôn đề cao công việc của tập thể, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân,
không ngại khó ngại khổ. Bác từng nhấn mạnh: "Một ngƣời phải cần, kiệm,
liêm nhƣng còn phải chính mới là ngƣời hoàn hảo"[9, tr.643].

17


Từ những lí giải trên, có thể hiểu liêm chính theo những góc độ sau:
Về góc độ xã hội, đạo đức liêm chính là những nguyên tắc, chuẩn mực

điều chỉnh, chi phối hành vi của con ngƣời trong mối quan hệ giữa cá nhân
với nhau, giữa cá nhân với xã hội và với chính bản thân mình
Về góc độ cá nhân, đạo đức liêm chính là nhân cách trong sạch, ngay
thẳng, kỷ luật, ý thức trách nhiệm dựa trên nền tảng những nguyên tắc, chuẩn
mực xã hội và tuân thủ pháp luật của con ngƣời đƣợc chứa đựng trong ý thức,
tình cảm, ý chí biểu hiện qua thói quen, hành vi, ứng xử của mỗi ngƣời trong
mối quan hệ giữa cá nhân với nhau, giữa cá nhân với xã hội và với chính bản
thân mình.
Từ khi sinh ra, con ngƣời luôn đƣợc sống trong ba môi trƣờng chủ yếu
là gia đình, nhà trƣờng và xã hội. Để trƣởng thành, nuôi sống bản thân và gia
đình, góp sức lực vào công cuộc phát triển của xã hội, ngoài tri thức, con
ngƣời cần phải có đạo đức, nhân cách để điều chỉnh mọi hành vi của mình sao
cho phù hợp với chuẩn mực chung của xã hội.
Giáo dục đạo đức là giáo dục cho con ngƣời nhân cách sống, biết cƣ xử
đúng mực với ngƣời xung quanh, sống và làm việc theo pháp luật, hiểu và tôn
trọng tập tục truyền thống của ông cha, tránh thói hƣ tật xấu, có tính trách nhiệm,
công bằng, ghi nhớ bổn phận công dân. Theo nghĩa rộng, giáo dục đạo đức là
quá trình hình thành nhân cách, đƣợc tổ chức có mục đích, có kế hoạch thông
qua các hoạt động và quan hệ giữa ngƣời giáo dục với ngƣời đƣợc giáo dục,
nhằm mục đích truyền đạt những chuẩn mực của xã hội. Theo nghĩa hẹp, giáo
dục đạo đức đƣợc hiểu là hoạt động chuyên biệt nhằm hình thành phẩm chất,
quan điểm, niềm tin cho con ngƣời về phƣơng diện đạo đức. Hiểu một cách
chung nhất, giáo dục đạo đức là hoạt động tác động một cách có mục đích, có kế
hoạch đến sự phát triển thể chất, tinh thần của đối tƣợng nhất định, làm cho đối
tƣợng đƣợc giáo dục dần dần có đƣợc những phẩm chất nhƣ yêu cầu đề ra.

18



×