Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Người tiến hành tố tụng trong viện kiểm sát Nhân dân đối với các vụ án hình sự : Luận văn ThS. Luật: 60 38 40

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 102 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

nguyễn trọng nghĩa

ng-ời tiến hành tố tụng
trong viện kiểm sát nhân dân
Đối với các vụ án hình sự

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2010


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

nguyễn trọng nghĩa

ng-ời tiến hành tố tụng
trong viện kiểm sát nhân dân
Đối với các vụ án hình sự
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

: 60 38 40

luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Độ


Hà nội - 2010


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH

8

TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI
VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.

Khái niệm, vị trí, vai trò và nguyên tắc hoạt động của người
tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các
vụ án hình sự

8

1.1.1.


Khái niệm người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân

8

1.1.2.

Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm
sát nhân dân đối với các vụ án hình sự

9

1.1.3.

Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của người tiến hành
tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân

11

1.2.

Khái quát các quy định của pháp luật về người tiến hành tố
tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân từ
năm 1945 đến nay

17

1.2.1.

Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960


17

1.2.2.

Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 2002

21

1.2.3.

Giai đoạn từ năm 2002 đến năm nay

28

1.4.

Mối quan hệ của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm
sát nhân dân đối với các vụ án hình sự

32


1.4.1.

Mối quan hệ trong nội bộ ngành Kiểm sát

32

1.4.1.1. Mối quan hệ trong cùng một Viện kiểm sát nhân dân


32

1.4.1.2. Mối quan hệ giữa các Viện kiểm sát với nhau

35

1.4.1.3. Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát

38

quân sự
Mối quan hệ liên ngành

38

1.4.2.1. Mối quan hệ với cơ quan điều tra

38

1.4.2.2. Mối quan hệ với cơ quan Tòa án

40

1.4.2.

Chương 2: THỰC TRẠNG NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG

42


VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN
HÌNH SỰ

2.1.

Thực trạng các quy định của pháp luật về người tiến hành

42

tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án
hình sự
2.1.1.

Chức năng và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân

42

2.1.2.

Quyền và nghĩa vụ của Kiểm sát viên

46

2.1.3.

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó

57

Viện trưởng Viện kiểm sát

2.2.

Thực trạng về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát

59

nhân dân đối với các vụ án hình sự
2.2.1.

Số lượng người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân

59

dân đối với các vụ án hình sự
2.2.2.

Chất lượng người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong

60

Viện kiểm sát nhân dân
2.2.3.

Việc tuyển chọn bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Kiểm
sát viên, Viện trưởng và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân

63



2.3.

Những kết quả đạt được của người tiến hành tố tụng các vụ
án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân

65

2.3.1.

Kết quả công tác thực hành quyền công tố và Kiểm sát hoạt
động tư pháp

65

2.3.1.1. Kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra

65

2.3.1.2. Kết quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử

68

2.3.2.

Các vụ án Viện kiểm sát, Toà án trả hồ sơ điều tra bổ sung

72

2.3.3.


Các vụ án Viện kiểm sát phải đình chỉ

73

2.4.

Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên

74

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU

80

Chương 3:

QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC
VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1.

Đổi mới về cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát, Kiểm sát viên

80

3.2.

Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự


82

3.3.

Nâng cao trình độ, năng lực của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên

84

3.4.

Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền
và sự phối hợp của các ngành liên quan trong hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân

86

3.5.

Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và chế độ
chính sách đối với Kiểm sát viên

88

KẾT LUẬN

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


93


Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu

Tªn b¶ng

Trang

Thống kê kết quả công tác bồi dưỡng cán bộ kiểm sát từ

61

b¶ng
2.1

năm 2005 đến tháng 4/2008
2.2

Kết quả hoạt động điều tra, truy tố trong 5 năm (2005-2009)

67

2.3

Kết quả kiểm sát xét xử 5 năm (2005-2009)

69



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng và Nhà nước ta đã
nhận thấy công cuộc cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của
cơ quan tư pháp, trong đó có cơ quan Viện kiểm sát nhân dân là một đòi hỏi
có tính cấp bách và chiến lược, nên đã xác định: "Viện kiểm sát nhân dân tập
trung thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp".
Điều này đã được tái khẳng định và làm rõ tại Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X: "Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020. Cải cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ... thực hiện cơ chế
công tố gắn liền với hoạt động điều tra" [8].
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong
việc giải quyết các vụ án hình sự là hai chức năng quan trọng nhất của Viện
kiểm sát nhân dân, bảo đảm việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình
sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội, đồng
thời không để sót lọt tội phạm, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân…
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hoạt động này, ngày 02/01/2002, Bộ
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW
về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó
nhấn mạnh:
Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp... Nâng
cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm
tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác. Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt, giam


1


giữ, bảo đảm đúng pháp luật; Những trường hợp chưa cần bắt, tạm
giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ,
tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong
bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê
chuẩn của mình [5].
Để đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trên, trong thời gian qua ngành
kiểm sát đã không ngừng nâng cao chất lượng trong việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình, đặc biệt là việc giải quyết các vụ án hình sự. Kết quả cho
thấy, ngành Kiểm sát nhân dân đã thực hiện tốt chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các các hoạt động tư pháp, góp phần không nhỏ vào công
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, công tác thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân
dân vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nhất định, như: việc Tòa án, Viện kiểm
sát phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, điều tra lại nhiều lần; việc bắt, tạm giữ,
tạm giam, thi hành án hình sự còn nhiều oan sai, đình chỉ vụ án vì bị can, bị
cáo không có tội…nhiều trường hợp viện kiểm sát đã phải bồi thường cho
người bị oan, sai theo Nghị quyết số 388 ngày 17/3/2003 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại nêu trên, trong đó
có nguyên nhân từ nhận thức, trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng
trong Viện kiểm sát nhân dân; từ các quy định của pháp luật có liên quan đến
địa vị pháp lý, tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, người tiến
hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân… Nhưng cho dù là nguyên nhân
nào, thì những hạn chế đó cũng mang lại hậu quả rất lớn, không những gây
ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị oan sai mà còn làm
mất uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật, đồng thời làm giảm lòng tin của

nhân dân đối với công lý và pháp luật.

2


Trước tình hình đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những
vấn đề lý luận và thực tiễn về người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân đối các vụ án hình sự, từ đó đưa ra kiến giải lập pháp là mô hình lý
luận và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của những người này trong
quá trình giải quyết các vụ án hình sự, không những có ý nghĩa lý luận - thực
tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là
lý do luận chứng cho việc chúng tôi quyết định chọn đề tài "Người tiến hành
tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự " làm luận
văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi có Bộ luật Tố tụng hình sự 1988 và cả sau khi Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 ra đời, đã có một số công trình nghiên cứu về người tiến hành tố
tụng và cơ quan tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra như: Đề tài nghiên
cứu "Cơ quan điều tra, Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên" của tác
giả Đỗ Ngọc Quang, Nhà xuất bản Công an nhân dân, 2000; Luận án tiến sĩ
Luật học của Đào Hữu Dân: "Mối quan hệ giữa Cơ quan cảnh sát điều tra với
Viện kiểm sát trong điều tra vụ án hình sự", 2006; nhưng chưa có một công
trình nghiên cứu riêng biệt và toàn diện về người tiến hành tố tụng các vụ án
hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân.
Năm 2009, tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, tác giả Trần Mạnh
Đông đã công bố luận văn thạc sĩvới đề tài: "Tăng thẩm quyền cho Kiểm sát
viên trong quá trình tố tụng hình sự - Một yêu cầu tất yếu của tiến trình cải
cách tư pháp ở Việt Nam", nhưng luận văn này chỉ nghiên cứu về tăng thẩm
quyền của Kiểm sát viên theo Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự theo nội dung cải cách tư pháp. Ngoài ra, còn một số đề

tài nghiên cứu có liên quan, như đề tài nghiên cứu khoa học tại Trường đào
tạo bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát về: "Nâng cao chất lượng tranh tụng của
Kiểm sát viên tại phiên toà hình sự" năm 2003; Luận văn thạc sĩ Luật học

3


năm 2008 của Nguyễn Trọng Hải về đề tài "Người tiến hành tố tụng trong Cơ
quan điều tra - những vấn đề lý luận và thực tiễn".
Như vậy, có thể nói cho đến nay, đã có một số công trình nghiên cứu
về người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự, nhưng mỗi
công trình đó mới chỉ dừng lại ở một số lĩnh vực hoặc trên phạm vi nghiên
cứu chung về người tiến hành tố tụng ở tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng
hoặc người tiến hành tố tụng trong Cơ quan điều tra, mà chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về người tiến hành tố tụng trong
Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự.
Trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nhất là khi thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, vấn đề này
cần được làm sáng tỏ hơn về mặt lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật có liên quan, đồng thời nâng cao hiệu quả
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đáp ứng yêu cầu cấp bách về cải cách tư
pháp mà Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu: "người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân đối với các vụ án hình sự" nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống
về mặt lý luận những nội dung cơ bản liên quan đến người tiến hành tố tụng
tại Viện kiểm sát nhân dân và việc áp dụng chế định này trong thực tiễn, từ đó
xác định những điểm hạn chế, vướng mắc về lý luận cũng như thực tiễn, để đề

xuất kiến giải lập pháp bằng việc đưa ra mô hình lý luận của các quy phạm về
người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân, cũng
như đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của người tiến hành tố
tụng trong Viện kiểm sát nhân dân khi giải quyết các vụ án hình sự.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả luận văn đặt cho mình các
nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu sau:
Về mặt lý luận:
+ Luận giải về vị trí, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình
sự, được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân, Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân và các
văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác. Mối quan hệ giữa những người tiến
hành tố tụng trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân.
+ Nghiên cứu thực trạng về đội ngũ và hoạt động của Kiểm sát viên
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
+ Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự ở nước
ta, đặc biệt là việc cơ cấu, tổ chức lại cơ quan Viện kiểm sát nhân dân theo tinh
thần Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị mà trước hết là nâng cao hiệu quả công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của Kiểm sát viên
trong giải quyết các vụ án hình sự.
Về mặt thực tiễn:
+ Nghiên cứu, đánh giá lại thực tiễn hoạt động của Viện trưởng, Phó
viện trưởng và Kiểm sát viên trong việc giải quyết các vụ án hình sự ở nước

ta trong thời gian qua, xác định địa vị pháp lý đúng đắn cho người tiến hành
tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân những năm tiếp theo.
+ Nghiên cứu, tìm hiểu nguyên nhân tác động tiêu cực đến hoạt động
đúng đắn của người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân, từ đó có
những kiến giải hữu hiệu xây dựng đội ngũ này thực sự lớn mạnh và hoạt

5


động chỉ tuân theo pháp luật, củng cố niềm tin của nhân dân vào pháp luật và
các cơ quan bảo vệ pháp luật.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư
pháp, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử
pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp luật, luật hình
sự, tội phạm học, luật tố tụng hình sự và triết học, những luận điểm khoa học
trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên
tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự và tố tụng hình sự.
Luận văn sử dụng một số phương pháp tiếp cận cụ thể để làm sáng tỏ
về mặt khoa học từng vấn đề tương ứng, đó là các phương pháp nghiên cứu
như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê; nghiên cứu hồ sơ vụ án,
báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ngoài ra, tác giả cũng tiếp thu có chọn lọc kết quả của của các công trình đã
công bố; các đánh giá, tổng kết của cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về
những vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động của người tiến hành tố
tụng trong Viện kiểm sát nhân dân.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả luận văn góp phần xây dựng một cái nhìn toàn
diện về địa vị pháp lý và hoạt động của người tiến hành tố tụng trong Viện

kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự, đồng thời thấy được trách nhiệm
cũng như vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong công cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm hiện nay.
Về thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên
cứu, học tập trong các cơ sở đào tạo, trong hoạt động nghiệp vụ của Kiểm sát
viên và lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân. Những đề xuất, kiến nghị của luận

6


văn sẽ cung cấp các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về tổ chức, hoạt động của người
tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong cơ quan Viện kiểm sát nhân dân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của uận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề về lý luận về người tiến hành tố tụng trong
Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân đối với các vụ án hình sự.
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của
người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ án hình sự.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ


1.1. KHÁI NIỆM, VỊ TRÍ, VAI TRÒ VÀ NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG
CỦA NGƢỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI
VỚI CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm ngƣời tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân
Quá trình tố tụng hình sự được chia thành nhiều giai đoạn khác nhau
căn cứ vào các đặc điểm của những hoạt động tố tụng hình sự. Tương ứng với
các giai đoạn đó, pháp luật quy định các cơ quan nhất định thực hiện những
hoạt động tố tụng, các cơ quan này được gọi là cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong mỗi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người có
thẩm quyền tiến hành các hành vi tố tụng trong một giai đoạn tố tụng. Những
người đó được gọi là người tiến hành tố tụng.
Người tiến hành tố tụng là một trong các chủ thể của tố tụng hình sự,
có vai trò quan trọng mang tính quyết định trong quá trình chứng minh, giải
quyết vụ án hình sự. Những người tiến hành tố tụng có chức năng riêng, nhưng
hoạt động trong mối liên hệ mật thiết, thống nhất với nhau và đều có trách
nhiệm là nhằm phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời
mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội,
bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo quy định tại Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì
người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát đối với các vụ án hình sự là một
trong ba nhóm chủ thể của tố tụng hình sự, bao gồm: Viện trưởng, Phó Viện
trưởng và Kiểm sát viên.

8


Chức năng cơ bản của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự là thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình

sự. Chức năng này được thực hiện bởi những người tiến hành tố tụng trong viện
kiểm sát. Hệ thống tổ chức Viện kiểm sát ở nước ta gồm có: Viện kiểm sát nhân
dân tối cao; Các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Các Viện kiểm sát nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các
Viện kiểm sát quân sự (sau đây được gọi chung là Viện kiểm sát nhân dân).
Một người để được bổ nhiệm trở thành người tiến hành tố tụng trong
Viện kiểm sát nhân dân, cần phải đáp ứng những yêu cầu về trình độ, thâm
niên, năng lực công tác và sức khỏe theo quy định của pháp luật. Như vậy, có
thể nêu khái niệm về người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự trong Viện
kiểm sát nhân dân như sau:
Người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân đối với các vụ
án hình sự, bao gồm Kiểm sát viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát, những người được bổ nhiệm và có những nhiệm vụ, quyền hạn xác định
theo quy định của pháp luật để thực hiện nhiệm vụ thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm phát hiện, xử lý kịp thời tội phạm và
người phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, bảo đảm
lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
1.1.2. Vị trí, vai trò của ngƣời tiến hành tố tụng trong Viện kiểm
sát nhân dân đối với các vụ án hình sự
Về mặt lý luận, vị trí, vai trò của một chủ thể quan hệ pháp luật như
cơ quan, tổ chức, cá nhân… được hiểu là tổng hợp các quy định của pháp luật
làm cơ sở cho sự tồn tại, tổ chức, hoạt động cũng như thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của chủ thể đó; làm căn cứ để phân biệt, tạo nên sự độc lập của chủ
thể đó so với các chủ thể khác.
Vị trí, vai trò của người tiến hành tố tụng trong việc kiểm sát, về
nguyên tắc, phải thống nhất, không thể tách rời vị trí, vai trò của hệ thống cơ

9



quan Viện kiểm sát nhân dân nói chung. Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, quá
trình hoạt động để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát
nhân dân không thể triển khai tác nghiệp tập thể mà phải thông qua những cá
nhân đại diện thường xuyên. Những cá nhân này chính là Viện trưởng, Phó
Viện trưởng và những Kiểm sát viên được phân công thực hiện nhiệm vụ
trong từng giai đoạn, từng công việc cụ thể thuộc trách nhiệm của Viện kiểm
sát [10, tr. 9].
Viện kiểm sát nhân dân có vị trí, vai trò rất quan trọng trong tố tụng
hình sự. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và đã được cụ thể hóa bằng
Bộ luật Tố tụng hình sự thì Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố
tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp
thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật Tố tụng
hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc
cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều
phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội.
Các quy định của pháp luật nêu trên cho phép Viện kiểm sát nhân dân
trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tố tụng
hình sự có trách nhiệm áp dụng các biện pháp pháp lý nhằm đảm bảo việc
điều tra truy tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, góp phần đẩy
mạnh công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong thực hiện chức năng
của mình, Viện kiểm sát nhân dân mà đại diện trực tiếp là các Kiểm sát viên
giữ vị trí vai trò đầu mối và là chủ thể xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án từ
khi kiểm sát hoạt động xử lý tố giác, tin báo về tội phạm của Cơ quan điều tra
đến khi xét xử, thi hành án.


10


Việc xác định vị trí, vai trò của Kiểm sát viên và của Viện kiểm sát
trong việc giải quyết vụ án hình sự xuất phát từ vị trí của Viện kiểm sát nhân
dân trong bộ máy nhà nước, chức năng đặc thù của ngành này, vừa thực hành
quyền công tố vừa kiểm sát việc tuân thủ pháp luật trong các hoạt động tư
pháp hình sự. Viện kiểm sát nhân dân là một hệ thống cơ quan nhà nước có
bộ máy tổ chức từ trung ương đến địa phương theo ngành dọc, do Quốc hội cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thành lập và giao quyền. Với chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát
nhân dân có phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý rộng lớn trong việc
giải quyết các vụ án hình sự.
Xuất phát từ vị trí, vai trò này, tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới nhấn mạnh: Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công
tố và kiểm sát viện tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động
công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình
tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm
oan người vô tội, xử lý kịp thời sai phạm của những người tiến hành tố tụng
trong thi hành nhiệm vụ… Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những
oan sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
1.1.3. Các nguyên tắc trong hoạt động tố tụng của ngƣời tiến hành
tố tụng các vụ án hình sự trong Viện kiểm sát nhân dân
Các nguyên tắc của luật tố tụng hình sự trong hệ thống các quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự chiếm một vị trí quan trọng, thể hiện bản chất của tố
tụng hình sự, là cơ sở cho mọi hoạt động tố tụng hình sự. Nguyên tắc của
pháp luật tố tụng hình sự là tư tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản được
thể hiện trong pháp luật tố tụng hình sự cũng như trong việc giải thích và
trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thông qua một hay nhiều
quy phạm (chế định) của nó [2, tr. 13]. Do đó, người tiến hành tố tụng trong


11


Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ giải quyết các vụ án
hình sự cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc đó, trong đó cần chú trọng các
nguyên tắc sau:
Nguyên tắc thứ nhất, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa (Điều 3 Bộ
luật Tố tụng hình sự).
Đây là nguyên tắc pháp lý cơ bản nhất trong hoạt động của cơ quan
nhà nước và công dân được ghi nhận tại Điều 12 Hiến pháp năm 1992.
Nguyên tắc này là nguyên tắc bao trùm, được thể hiện trong tất cả các giai
đoạn giải quyết một vụ án hình sự từ khi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết
tin báo tố giác tội phạm, kiến nghị khởi tố cho đến giai đoạn cuối cùng là
kiểm sát xét xử và thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa
án nhân dân.
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm bảo cho cuộc đấu
tranh chống tội phạm được kiên quyết, triệt để, kịp thời, bảo đảm giáo dục
người thực hiện hành vi phạm tội, đồng thời ngăn chặn việc làm oan sai cho
người vô tội và ngăn ngừa việc hạn chế các quyền tự do dân chủ của công dân
một cách trái pháp luật.
Khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố đối với các vụ án
hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên phải tuân thủ nghiêm
chỉnh các quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, bảo đảm
tất cả hành vi tội phạm phải được truy cứu trách nhiệm hình sự; việc truy tố
phải bảo đảm tính khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Khi
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều
tra, xét xử, thi hành án của Cơ quan điều tra, tòa án và cơ quan thi hành án,
người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát nhân dân không chỉ tự mình phải
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, mà còn đảm bảo để những người tiến hành

tố tụng khác cũng phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự, tuân thủ nghiêm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.

12


Nguyên tắc thứ hai, tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công
dân (Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, khi tiến hành tố tụng,
Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên trong phạm vi trách nhiệm
của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân; có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của
những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp
đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên chỉ được áp biện pháp
ngăn chặn hoặc phê chuẩn việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khi có căn cứ
pháp luật. Khi kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm giam, nếu thấy lệnh, quyết định
của Cơ quan điều tra không có căn cứ pháp luật thì Viện kiểm sát kiên quyết
không phê chuẩn hoặc ra quyết định hủy bỏ, đồng thời phải trả tự do ngay cho
người bị bắt, tạm giữ, tạm giam.
Trong tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, ngoài chắc
năng thực hành quyền công tố, Viện kiểm sát nhân dân mà đại diện là Viện
trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên phải thực hiện tốt chức năng kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Cơ quan điều tra, tòa án để bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của bị can, bị cáo, những người tham gia tố tụng và của cá nhân
khác không bị xâm phạm. Kiểm sát việc giải thích quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện; bảo
đảm mọi quyền lợi hợp pháp của họ được tôn trọng theo quy định của pháp luật.
Để áp dụng nguyên tắc này, người tiến hành tố tụng trong Viện kiểm sát
nhân dân trước hết phải tôn trọng và bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân

thể của công dân; bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm
của công dân; bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư
tín, điện tín của công dân. Việc hạn chế các quyền và tự do nói trên chỉ được
tiến hành trên cơ sở và trong sự phù hợp với các quy định của pháp luật.

13


Nguyên tắc này được coi trọng trong tố tụng hình sự, bởi lẽ nhà nước
ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, coi con người luôn là yếu tố trung
tâm, là chủ thể quan trọng nhất, việc tôn trọng và đảm bảo các quyền cơ bản
của công dân là một trong những nhiệm vụ quan trọng của người tiến hành tố
tụng và các cơ quan tiến hành tố tụng được nhà nước giao.
Nguyên tắc thứ ba, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (Điều 52
Hiến pháp năm 1992 và Điều 5 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật xác định vị trí
của mọi người như nhau trong lĩnh vực hoạt động xã hội cũng như trong hoạt
động tố tụng hình sự, không phân biệt đối xử.
Pháp luật tố tụng hình sự quy định mọi công dân đều bình đẳng trước
pháp luật, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, thành phần,
địa vị xã hội. Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên trong phạm vi
chức năng, nhiệm vụ của mình phải bảo đảm rằng: Bất cứ người nào thực
hiện hành vi phạm tội đều bị xử lý theo quy định của pháp luật; không để lọt
tội phạm và không làm oan người vô tội.
Pháp luật không quy định cho từng công dân cụ thể mà quy định chung
và được áp dụng cho tất cả mọi người. Tài sản và địa vị xã hội không mang
lại đặc quyền trước tòa án và trước pháp luật. Do vậy, người tiến hành tố tụng
trong Viện kiểm sát nhân dân phải "công minh, chính trực, khách quan, thận
trọng" để việc giải quyết vụ án và hậu quả pháp lý của những người thực hiện
hành vi trái pháp luật giống nhau phải chịu mức hình phạt như nhau.

Nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng
hình sự còn được thể hiện cụ thể hơn như: bất kỳ người nào khi tham gia tố
tụng với tư cách là bị can, bị cáo thì họ đều có quyền và nghĩa vụ được đi
định tại Điều 49, 50 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nếu họ tham gia tố tụng hình sự
với tư cách là người bị hại thì họ đều có quyền và nghĩa vụ được quy định tại
Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự.

14


Nguyên tắc thứ tư, bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của công dân (Điều 7 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm và tài sản của công dân là
những giá trị xã hội cao nhất được ghi nhận trong hiến pháp và các văn bản
pháp luật khác. Hiến pháp nước ta quy định "công dân có quyền được pháp
luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm". Bộ luật Tố tụng
hình sự nước ta quy định đó là nguyên tắc quan trọng của tố tụng hình sự.
Hoạt động tố tụng hình sự phải được tiến hành trên cơ sở tôn trọng và
bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm, tài sản của công dân. Việc
hạn chế quyền nói trên chỉ có thể được tiến hành trên cơ sở và trong sự phù
hợp của pháp luật [47, tr. 22].
Khi giải quyết vụ án hình sự, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm
sát viên Viện kiểm sát nhân dân căn cứ chức năng, nhiệm vụ của mình có
trách nhiệm áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ người bị hại, người
làm chứng và những người tham gia tố tụng khác cũng như người thân thích
của họ khi tính mạng, sức khỏe của người đó bị đe dọa, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của họ bị xâm phạm.
Nguyên tắc thứ năm, xác định sự thật khách quan của vụ án (Điều 10
Bộ luật Tố tụng hình sự).
Theo nội dung của nguyên tắc này, Viện trưởng, Phó Viện trưởng và

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp
để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm
rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình
tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị
cáo. Kiểm sát viên không được thiên vị, để tình cảm cá nhân chi phối khi làm
nhiệm vụ. Nếu không đảm bảo tính vô tư khách quan khi giải quyết một vụ án
hình sự thì Kiểm sát viên đó phải được phân công, thay đổi bằng một Kiểm
sát viên khác.

15


Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình
vô tội. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, viện
kiểm sát và tòa án.
Nguyên tắc thứ sáu, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng (Điều 12 Bộ luật Tố tụng hình sự).
Để nâng cao trách nhiệm của Kiểm sát viên, Viện trưởng, Phó Viện
trưởng viện kiểm sát, Bộ luật Tố tụng hình sự quy định nguyên tắc trách
nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện
những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi,
quyết định của mình.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Có thể nói đây là một đảm bảo pháp lý hết sức quan trọng giúp cho
hoạt động tố tụng hình sự được tiến hành đúng pháp luật, đặc biệt là với
những người bị tạm giữ, tạm giam khi mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ

dễ bị vi phạm nếu hoạt động tố tụng không được tiến hành đúng pháp luật.
Nguyên tắc thứ bảy, bảo đảm quyền được bồi thường của người bi
thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự gây
ra (Điều 30)
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, người bị thiệt hại do cơ
quan hoặc người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có
quyền được bồi thường thiệt hại. Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự phải bồi thường cho người bị thiệt hại; người đã gây thiệt hại có
trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

16


Để nâng cao trách nhiệm của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, tại Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ trọng tâm công
tác tư pháp cũng đã xác định: nơi nào để xảy ra tình trạng bắt, tạm giữ, tạm
giam oan sai, thì Viện kiểm sát nơi đó phải chịu trách nhiệm bồi thường. Cụ
thể hóa nội dung này, Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước năm 2009, có
hiệu lực từ 01/01/2010 cũng quy định rõ những trường hợp Viện kiểm sát
nhân dân phải bồi thường khi người tiến hành tố tụng các vụ án hình sự ở cơ
quan mình để xảy ra oan sai.
1.2. KHÁI QUÁT CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƢỜI TIẾN
HÀNH TỐ TỤNG CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ TRONG VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY

1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960
Ngay sau khi nước ta giành độc lập bằng cuộc tổng khởi nghĩa tháng 8
năm 1945, ngày 02/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc
lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản Tuyên ngôn độc lập là

một văn kiện chính trị pháp lý quan trọng, đánh dấu một chương mới trong
lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, là cơ sở để hàng loạt
các thiết chế của một Nhà nước mới được tạo lập.
Ngày 13/9/1945, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 33C về việc
thành lập tòa án quân sự, đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của nhà nước dân chủ
nhân dân, đánh dấu sự ra đời của hệ thống tòa án, đồng thời cũng là văn bản
pháp lý đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố trong
bộ máy nhà nước ta. Tại Điều V Sắc lệnh này quy định rõ chức năng công tố
được tổ chức trong Tòa án quân sự: "Đứng buộc tội là một Ủy viên quân sự
hay một Ủy viên của ban Trinh sát" [27].
Như vậy, theo Sắc lệnh 33C thì người tiến hành tố tụng thực hiện chức
năng công tố ở giai đoạn này là một Ủy viên quân sự hoặc một Ủy viên của

17


Ban trinh sát. Bằng việc ban hành Sắc lệnh này, lần đầu tiên chức năng công
tố nhà nước được quy định bằng một văn bản pháp lý do người đứng đầu Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ký ban hành. Tòa án quân sự là tòa án đầu
tiên có sự hiện diện của tổ chức công tố và quyền công tố, được thành lập ở cả
ba miền Bắc, Trung, Nam. Theo sắc lệnh này thì nội dung của quyền công tố
là "đưa một người phạm tội ra xét xử tại Tòa án và thực hiện việc buộc tội
trước Tòa án" [27].
Ngày 14/02/1946, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 21 thay thế sắc
lệnh số 33C, theo đó, Tòa án quân sự được quyền xét xử tất cả các tội xâm hại
đến nền độc lập của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, trừ các tội phạm do
binh sỹ thực hiện thì do tòa án binh xét xử. Thành phần Hội đồng xét xử của
Tòa án quân sự gồm Chánh án và hai Hội thẩm là ủy viên quân sự và ủy viên
chính trị đảm nhiệm. Chức năng công tố do một Công cáo ủy viên quyết định
truy tố một người phạm tội ra xét xử tại tòa án và thực hiện buộc tội trước tòa.

Theo Sắc lệnh này thì người tiến hành tố tụng thực hiện chức năng công tố
như Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân hiện nay do một Công cáo ủy viên
tiến hành.
Ngày 17/11/1950, sắc lệnh số 155 do Chính phủ ban hành thay thế sắc
lệnh 21, theo đó thành phần hội đồng xét xử bao gồm: Chánh án chuyên trách
hoặc phó chánh án; Hội thẩm chính trị chuyên môn hoặc phó hội thẩm; Hội
thẩm chuyên môn chuyên trách hoặc phó hội thẩm chuyên môn phụ trách.
Chức năng công tố được giao cho Công tố uủyviên hoặc Phó Công tố ủy viên
phụ trách việc buộc tội.
Đối với tổ chức hoạt động của hệ thống công tố trong cơ quan tòa án
thường được quy định như sau: Theo Sắc lệnh số 13/SL ngày 21/01/1946 của
Chính phủ thì ngạch thẩm phán được chia thành hai ngạch: Thẩm phán sơ cấp
và thẩm phán đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm việc ở các toà án sơ cấp, còn
Tòa án đệ nhị cấp làm việc ở Tòa án đệ nhị cấp và Toà thượng thẩm. Về chức

18


năng thi được chia thanh hai loại thẩm phán, là thẩm phán buộc tội và thẩm
phán xét xử. Ở tòa thượng thẩm có Công tố viên do Chưởng lý đứng đầu và
chịu sự quả lý của Bộ trưởng Tư pháp. Ở Tòa đệ nhị cấp không có cơ quan
công tố mà chỉ có cán bộ làm công tác công tố đó là Biện lý, Tham lý. Thẩm
phán buộc tội hợp thành một bộ phận độc lập với bộ phận thẩm phán xét xử
và chịu sự lãnh đạo của người đứng đầu cơ quan công tố viện là Chưởng lý.
Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 quy định quyền hạn và nhiệm vụ của cán
bộ thuộc công tố viện, đó là: quyền tư pháp cánh sát, thực hiện sự buộc tội
của nhà nước; thực hiện những công việc hành chính như việc quản trị của tòa
án; thực hiện việc giám sát công tác điều tra của tư pháp cảnh sát và hoạt
động xét xử của tòa án. Các cán bộ công tố nằm trong hệ thống các cơ quan
tòa án và chịu sự quản lý về tổ chức của Bộ tư pháp.

Đến đầu những năm 1950, trong xã hội hình thành nhiều luồng tư
tưởng về tư pháp, trong đó điển hình là cuộc tranh cãi giữa hai luồng tư
tưởng, một là tư tưởng tư pháp tư sản cho rằng tư pháp phải tách rời chính trị.
Hai là tư tưởng cách mạng, cho rằng tư pháp phải phục vụ nhiệm vụ chính trị,
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, không thể xây dựng một nền tư pháp
tách rời chính trị.
Trước tình hình đó, yêu cầu của cuộc cách mạng là phải xây dựng
được một nhà nước dân chủ nhân dân, xây dựng một nền tư pháp mới. Bộ Tư
pháp đã mở Hội nghị về cải cách tư pháp lần đầu tiên ở nước ta. Kết quả hội
nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải
cách tư pháp và luật tố tụng hình sự; Sắc lệnh số 103/SL ngày 05/6/1950 quy
định mối liên hệ giữa Ủy ban kháng chiến hành chính với các cơ quan chuyên
môn. Vị trí, thẩm quyền và chức năng công tố pháp luật giao cho Biện lý có
quyền xem xét hồ sơ vụ án có cần phải thâm cứu thêm nữa hay không. Biện lý
chỉ giao hồ sơ sang phòng dự thẩm để thẩm cứu khi xét thấy thật cần thiết,
chứ không phải mọi trường hợp Biện lý bắt buộc phải đưa sang phòng dự
thẩm để thẩm cứu một số việc hình sự mặc dù xét thấy không cần thiết.

19


×