Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1020.31 KB, 156 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

PHAN TRUNG TÚ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN NHO THÌN

HÀ NỘI - NĂM 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình luận văn “Tổ chức và hoạt động của
HĐND cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam”
là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Trần Nho
Thìn.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Phan Trung Tú

2


MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH
TRONG ĐIỀU KIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

7

Đặc điểm, yêu cầu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam

7

1.1.1. Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam

7


1.1.2. Yêu cầu của bộ máy nhà nước trong Nhà nước pháp quyền

12

1.2.

Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam

15

1.2.1. Vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong bộ máy
nhà nước

15

1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong bộ
máy nhà nước

16

1.2.3. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong Nhà nước pháp quyền

17

1.3.

Kinh nghiệm tổ chức cơ quan dân cử trong mô hình chính
quyền địa phương của một số nước trên thế giới


19

1.3.1. Mô hình cơ quan dân cử trong bộ máy chính quyền địa phương
của Trung Quốc

20

1.3.2. Mô hình tổ chức cơ quan dân cử trong tổ chức chính quyền địa
phương của Inđônêxia

23

1.3.3. Mô hình cơ quan dân cử trong tổ chức chính quyền địa phương
của Hoa Kỳ

24

1.3.4. Bài học kinh nghiệm vận dụng vào thực tiễn Việt Nam

25

1.1.

3


Chương 2. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN

28


DÂN CẤP TỈNH QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP VÀ THỰC TRẠNG
HIỆN NAY

2.1.

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh qua
Hiến pháp năm 1946 và các văn bản pháp luật về Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh giai đoạn 1945 - 1958

28

2.1.1. Về tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

28

2.1.2. Về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

31

2.2.

34

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh qua
Hiến pháp năm 1959 và những văn bản pháp luật về Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh giai đoạn 1959 - 1979

2.2.1. Về tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh


34

2.2.2. Về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

36

2.3.

38

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh qua
Hiến pháp năm 1980 và những văn bản pháp luật về Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh giai đoạn 1980 - 1991

2.3.1. Về tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

38

2.3.2. Về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

41

2.4.

45

Tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh qua
Hiến pháp năm 1992 và các quy định của pháp luật về Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh giai đoạn 1992 đến nay và thực
trạng hiện nay


2.4.1. Về tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

45

2.4.2. Về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

57

Chương 3. QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN

74

THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
CẤP TỈNH TRONG ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN Ở VIỆT NAM

3.1.

Quan điểm, nguyên tắc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

74

3.1.1. Quan điểm

74

3.1.2. Nguyên tắc


75

4


3.2.

Giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân cấp tỉnh

79

3.2.1. Giải pháp đổi mới tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

79

3.2.2. Giải pháp đổi mới hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh

83

3.2.3. Giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và
hoạt động của HĐND cấp tỉnh

92

3.2.4. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về Hội đồng nhân dân

93

KẾT LUẬN


101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

102

PHỤ LỤC

108

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. HĐND: Hội đồng nhân dân
2. UBND: Ủy ban nhân dân
3. VKSND: Viện Kiểm sát nhân dân
4. TAND: Tòa án nhân dân

6


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân;
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua Quốc hội và HĐND
các cấp. HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, thực hiện ba

chức năng là: Đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương;
quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương và chức năng giám sát.
Chế định HĐND gắn liền với chế độ dân chủ của Nhà nước ta trong
gần 70 năm qua ngay sau khi nước ta dành được độc lập năm 1945. Trong quá
trình hình thành, phát triển, HĐND có vai trò, vị trí hết sức quan trọng trong
bộ máy chính quyền địa phương, có những đóng góp quan trọng đối với sự ổn
định và phát triển trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng… của địa phương và của cả nước. Tuy nhiên, tổ chức và hoạt
động của HĐND hiện nay cũng bộc lộ một số bất cập, hạn chế, chưa phát huy
được đầy đủ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền; hoạt động của
HĐND vẫn còn mang tính hình thức, ảnh hưởng tới hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy chính quyền địa phương các cấp.
Trong thực tiễn công tác cũng như quá trình đóng góp ý kiến về sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 thời gian qua cũng đã có nhiều ý kiến khác
nhau đối với tổ chức chính quyền địa phương như xác định vị trí, tính chất
của HĐND các cấp là cơ quan đại diện và quyền lực ở địa phương hay cần
được quan niệm là cơ quan đại diện và tự quản ở địa phương?; tổ chức
HĐND trong mô hình chính quyền đô thị; nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND
trong điều kiện tăng cường phân cấp và cải cách hành chính, bảo đảm tính

7


thống nhất của nền hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; mối quan
hệ giữa HĐND với UBND và cơ quan nhà nước cấp trên… Đây là những vấn
đề bức thiết đặt ra cần nghiên cứu giải quyết cả về phương diện lý luận và
thực tiễn.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đang triển khai thực hiện nhiều
chính sách, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính
quyền địa phương nói chung và của HĐND nói riêng trong điều kiện xây

dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam như thực hiện thí điểm không tổ chức
HĐND huyện, quận, phường tại 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thí
điểm Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND cấp huyện, cấp xã; triển khai
xây dựng Đề án thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị.v.v... Kết quả từ
các việc làm thí điểm này đã phần nào được đúc rút và đưa vào Dự thảo sửa
đổi Hiến pháp năm 1992 (chương về chính quyền địa phương).
Trong điều kiện tổ chức và hoạt động của HĐND còn nhiều vấn đề nổi
cộm và đang có nhiều ý kiến khác nhau, cần có sự nghiên cứu, hoàn thiện thì
việc nghiên cứu đề tài: “Tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” là cần thiết, góp
phần đề xuất, kiến nghị các giải pháp đổi mới về tổ chức và hoạt động nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của HĐND, để cơ quan này đáp ứng
được yêu cầu đặt ra trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về tổ chức và hoạt động của HĐND trong Nhà nước pháp quyền, đã có
nhiều tác giả nghiên cứu trong các luận văn, luận án; các công trình, đề tài,
bài viết nghiên cứu trên những góc độ khác nhau. Cụ thể như: Đề tài “Cơ sở
lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân” năm 2004 do Giáo sư, viện sỹ Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm

8


đề tài; Đề tài “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp”
của Văn phòng Quốc hội năm 2003 … Bên cạnh đó, có một số cuốn sách, các
bài viết nghiên cứu về vấn đề này như “Hội đồng nhân dân – Quá trình hình
thành và biến đổi”, sách chuyên khảo của tác giả Vũ Hùng; “Một số vấn đề về
tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay”,
sách chuyên khảo của tác giả PGS.TS Bùi Tiến Quý; “Đổi mới, hoàn thiện bộ
máy nhà nước trong giai đoạn hiện nay”, sách chuyên khảo của PGS.TS Bùi

Xuân Đức; “Mô hình tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam”, sách chuyên khảo của GS.TSKH Đào Trí Úc; bài viết
“Chính quyền địa phương và các mô hình của nó” của GS.TS Nguyễn Đăng
Dung; bài viết: “Bàn về đối tượng giám sát của Hội đồng nhân dân” của tác
giả Nguyễn Hải Long; bài viết: “Vai trò của chính quyền đô thị trong xây
dựng trật tự vệ sinh môi trường đô thị và huy động sự tham gia của cộng
đồng” của tác giả Ngô Thị Tám; “Những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa đối với việc đổi mới mô hình bộ máy nhà nước” của PGS,TS
Lê Minh Thông… Tuy nhiên những bài viết, đề tài trên đều chưa đề cập một
cách toàn diện cũng như chuyên sâu về tổ chức và hoạt động của HDND cấp
tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Do đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu "Tổ chức và hoạt động của
HĐND cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam" sẽ làm rõ thêm tình hình tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
qua đó góp phần đề xuất các kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các văn
bản pháp luật có liên quan đến HĐND và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của HĐND.

9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Mục đích của luận văn là nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về tổ chức
và hoạt động của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam, góp phần làm rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ
của HĐND cấp tỉnh, khắc phục những tồn tại, bất cập trong tổ chức và hoạt
động của HĐND cấp tỉnh nói riêng và của HĐND các cấp nói chung, từ đó đề
xuất các kiến nghị sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, các văn bản pháp luật có liên

quan đến HĐND và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của HĐND trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
Nghiên cứu về quan điểm, đường lối, chính sách Đảng; pháp luật của
Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân;
Nghiên cứu về bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong Nhà nước pháp quyền;
Nghiên cứu vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ; lịch sử hình thành và
phát triển của HĐND;
Nghiên cứu kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương ở một số nước trên thế giới để có những bài học kinh nghiệm vận
dụng vào thực tiễn Việt Nam;
Nghiên cứu tổ chức và hoạt động của HĐND ở những tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương nơi đang thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND
huyện, quận, phường; nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền đô thị, trên cơ

10


sở đó có những nhận xét, đánh giá đối với việc thí điểm về những kết quả đạt
được và những tồn tại, hạn chế, để có những kiến nghị, đề xuất trong việc đổi
mới, hoàn thiện tổ chức của HĐND cấp tỉnh.
Đề xuất các nội dung cụ thể đối với việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp
năm 1992; sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003; sửa
đổi, bổ sung Quy chế hoạt động của HĐND và các quy định của pháp luật có
liên quan đến HĐND.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích trên, luận văn được thực hiện trên cơ sở phương

pháp luận của triết học Mác – Lê nin, lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước ta về HĐND.
Các phương pháp cụ thể mà tác giả đã áp dụng trong quá trình thực
hiện đề tài là:
Thu thập các tài liệu, văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội
dung nghiên cứu.
Phân tích, so sánh và đánh gíá về thực trạng hoạt động của HĐND các
cấp. Tổng hợp vấn đề và biên tập hiệu đính tài liệu tổng kết.
5. Ý nghĩa của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” để có những đóng góp
vào cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện tổ chức, hoạt động của
HĐND các cấp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Cụ thể là:

11


- Trên cơ sở nghiên cứu, làm rõ về mặt lý luận địa vị pháp lý của cơ
quan dân cử ở địa phương trong bối cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt
Nam qua các bản Hiến pháp.
- Phân tích, đánh giá hiện trạng tổ chức và hoạt động của HĐND cấp
tỉnh với các kết quả đánh giá và cập nhật thông tin, số liệu mới nhất; nêu ra
những ưu điểm và những tồn tại bất cập của HĐND, trong đó tập trung HĐND
cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
- Đề xuất, kiến nghị được các nội dung cụ thể trong việc sửa đổi, bổ
sung Hiến pháp năm 1992, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Quy
chế hoạt động của HĐND năm 2005 và các quy định pháp luật có liên quan
cũng như đề xuất ban hành các đạo luật mới để điều chỉnh tổ chức và hoạt

động của HĐND, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về HĐND.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục tài
liệu tham khảo, phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
Chương 2. Tổ chức và hoạt động của HĐND cấp tỉnh qua các bản hiến
pháp và thực trạng hiện nay.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
HĐND cấp tỉnh trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.

12


Chương 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH TRONG
ĐIỀU KIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
1.1. Đặc điểm, yêu cầu Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.1.1. Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền là một trong những giá trị
chung được tích lũy được trong lịch sử đấu tranh của nhân loại. Ngay từ thời
cổ đại, các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã được hình thành, nhưng phải
đến nhà nước tư sản thì các tư tưởng đó mới được ghi nhận cụ thể và thực
hiện trong thực tế. Quan niệm chung của thuyết Nhà nước pháp quyền tư sản
thì Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà quyền lực của nó thuộc về nhân
dân; được tổ chức và hoạt động theo pháp luật với nguyên tắc phân quyền;
quản lý xã hội bằng pháp luật; kiểm soát và hạn chế quyền lực nhà nước, bảo
đảm các quyền công dân và quyền con người. Những giá trị phổ biến này thể
hiện những đặc điểm cơ bản của một Nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, khi
vận dụng cần xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia [45].

Trong Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vécxây năm
1919, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có kiến nghị: “Bảy xin Hiến pháp ban hành.
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Tiếp nối tư tưởng đó, ngay từ buổi
đầu thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và trong suốt quá trình
xây dựng và phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của một Nhà nước
pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam lần đầu tiên được đặt ra tại Hội
nghị lần thứ 2 Ban chấp hành trung ương khóa VII ngày 29 tháng 11 năm
1991 như một mục tiêu cần phải hướng tới. Tiếp đó, các văn kiện của Đảng,
các Nghị quyết đại hội Đảng, đặc biệt là trong Báo cáo chính trị của Ban chấp

13


hành Trung ương Đảng khóa VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã
nêu rõ “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng” [30; tr490]; Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI tiếp tục khẳng
định chủ trương: “…hoàn thiện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa...” [31, tr322].
Thể chế Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, tại kỳ họp thứ 10 của
Quốc hội khóa X năm 2001 đã thông qua Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ
sung), trong đó bổ sung nội dung về Nhà nước pháp quyền:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền
lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp [38, Điều 2].
Thực tiễn trong những năm qua cho thấy, việc xây dựng Nhà nước

pháp quyền là một chủ trương đúng đắn nhằm xây dựng một Nhà nước thực
sự của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công
bằng, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà
nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân
Nhà nước ta do nhân dân lập ra và giám sát mọi hoạt động của Nhà
nước; Nhà nước phải luôn luôn hoạt động vì lợi ích nhân dân, lấy phục vụ
nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ

14


thông qua người đại diện do nhân dân bầu ra trong cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất là Quốc hội và các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương
là HĐND các cấp. Đồng thời, nhân dân cũng thực hiện quyền làm chủ trực
tiếp của mình trong đời sống hàng ngày ở địa phương. Toàn bộ cơ quan nhà
nước phải tôn trọng nhân dân, nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân.
Nhân dân có quyền giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, có quyền bãi
miễn những đại biểu không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước phải hướng đến xây dựng một Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, gắn bó với nhân dân, thể hiện được ý chí,
nguyện vọng của nhân dân, có biện pháp thu hút nhân dân tham gia rộng rãi
vào việc quản lý nhà nước và xã hội, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực nhà
nước đều thuộc về nhân dân.
Thứ hai: Quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất
trên cơ sở có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
Một trong những quan điểm cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quyền lực nhà nước thống nhất trên cơ sở
phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan có quyền lập hiến, lập pháp và
quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước, giám sát tối cao đối
với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Chủ tịch nước là nguyên thủ
quốc gia, là người thống lĩnh các lực lượng vũ trang, giữ chức chủ tịch Hội
đồng Quốc phòng và an ninh, có thẩm quyền nhất định liên quan đến các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thống nhất điều hành trên
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối
15


ngoại. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; Viện Kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Sự thống nhất giữa 3 quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp là nền tảng, sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
là phương thức để đạt được sự thống nhất của quyền lực nhà nước.
Thứ ba: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thừa nhận và
thể hiện vị trí tối thượng của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội; tổ chức
và hoạt động của Nhà nước thực hiện trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính
trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến
pháp. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao
nhấtm quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an
ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện
quan trọng nhất bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân. Như
vậy, Hiến pháp là điều kiện để bảo đảm sự chính đáng về mặt pháp lý của các

thiết chế quyền lực nhà nước.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp nước ta là
cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì và thực hiện quyền lực nhà nước, cho
sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để
xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như
các quyết sách khác của nhà nước [45].
Thứ tư: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện mối
quan hệ qua lại giữa Nhà nước với công dân, Nhà nước và xã hội, tôn trọng,
bảo đảm quyền con người, quyền công dân

16


Nhà nước là người đại diện cho lợi ích công, công dân đại diện cho các
lợi ích cá nhân. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền, vì vậy, gắn với vấn đề xã
hội công dân. Cùng với sự ra đời của xã hội công dân, lần đầu tiên trong lịch
sử loài người mọi người được thừa nhận là bình đẳng trong xã hội, bất kể họ
là ai về thành phần và nguồn gốc xuất thân, có các quyền và tự do được pháp
luật thừa nhận, có khả năng tự biểu hiện nhân cách và ý chí, tự chịu trách
nhiệm về hành vi của mình và các hậu quả của hành vi đó. Công dân có thể
làm tất cả những gì luật không cấm. Còn cán bộ, công chức nhà nước và các
cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật quy định.
Thứ năm: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo
thực hiện nghiêm chỉnh và có thiện chí các cam kết quốc tế
Đường lối đó liên quan đến quan hệ của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với các quốc gia, các khu vực, các tổ chức và cộng đồng quốc
tế. Và để thực hiện được đường lối đó, chúng ta ph với những viên
chức đó và để tiết kiệm nhiều hơn, có một phong trào tại các tỉnh, thành ở Mỹ
nhằm thay đổi địa vị của các Thị trưởng. Từ bước thành công lúc đầu tại Mỹ
năm 1908 phong trào này thường được gọi là "cử người quản trị thành phố”.

Theo hình thức hành chánh đó, hội đồng do các khu tuyển cử hay toàn thể đô
thị bầu ra bổ nhiệm một viên quản đốc chuyên môn và giao cho viên quản đốc
ấy hầu hết các quyền hạn hành chánh của địa phương. Viên quản đốc ấy chịu
trách nhiệm với hội đồng thành phố về những kết quả các công việc của ông
ta và có thể bị hội đồng cách chức hoặc cho nghỉ việc trước khi mãn hạn hợp
đồng, nếu công việc của ông ta không làm vừa lòng hội đồng. Công việc của
địa phương được điều hành như một công ty do một Ban giám đốc chịu trách
nhiệm trước Hội đồng thực hiện. Trong trường hợp không thực hiện được,
Hội đồng sẽ huỷ bỏ hợp đồng và có thể thuê Ban giám đốc khác.
- Các hình thức cai trị bằng uỷ hội và bằng những phiên họp: Hai
hình thức cai trị thành phố sau cùng ít được thi hành tại nước Mỹ là cai trị
bằng những uỷ hội và bằng những phiên họp. Lối cai trị bằng những uỷ hội
được áp dụng trước hết tại Galveston, trong tiểu bang Texas, năm 1900 và
bành trướng một cách mau lẹ trong mấy trăm thành thị trước năm 1917. Theo
lối cai trị này thì các cử tri bầu cử năm uỷ viên họp lại thành uỷ hội hành
chánh tỉnh. Các uỷ hội cùng cai trị chung, nhưng về thực tế thì mỗi uỷ viên
phụ trách cai quản một ngành hành chính chẳng hạn như các công viên, an
ninh công cộng, luật pháp, tu bổ đường sá và tài chính.
139


Lối cai trị bằng uỷ hội hơi giống lối cai trị bằng văn phòng quận và
bằng cách tuyển lựa một số uỷ viên hành chính trong chế độ cai trị bằng phiên
họp. Những tỉnh, thành đầu tiên ở New England áp dụng lối hội họp những cử
tri có đủ tư cách trong những phiên họp được triệu tập thường xuyên để giải
quyết các vấn đề hành chính địa phương. Sau vì dân số càng ngày càng tăng
và công việc hành chính trở nên liên tục, đồng thời số cử tri tăng lên qua
quyền tuyển cử được nới rộng, nên những phiên họp trở nên tương đối vô
hiệu và phiền phức. Những phiên họp của thành phố đó, tuy gần là hoàn toàn
tự trị nhưng không lúc nào tránh khỏi sự thể bị một thiểu số, một nhóm gia

đình hoặc một nhóm có thế lực chính trị chi phối. Kết quả là nhiều tỉnh đông
dân cư bỏ lối cai trị bằng những phiên họp và thay thế bằng những đại diện cử
tri do các khu phố bầu lên. Những đại diện ấy cũng hội họp giống những
phiên họp trước bầu ra ban quản đốc và những quản trị viên để quản lý địa
phương.
Khi soạn thảo Hiến pháp năm 1787 của mình, các lập hiến Mỹ quốc
đã không đả động đến hệ thống chính quyền đa cấp và đa dạng này. Trong khi
vẫn coi cơ cấu quố gia là quan trọng nhất, họ đã khôn khéo thừa nhặn sự cần
thiết một loạt các cấp chính quyền có quan hệ trực tiếp hơn đến dân chủ và
thích ứng một cách nhậy bén hơn với các nhu cầu của họ. Do vậy các chức
năng nhất định, như quốc phòng, quản lý tiền tệ, và các quan hệ đối ngoại, chỉ
có thể kiểm soát bằng một chính quyền mạnh. Nhưng những vấn đề khác, như
hệ thống vệ sinh, giáo dục và giao thông vận tải địa phương, thì chủ yếu thuộc
phạm vi quyền hạn của địa phương.
Đặc điểm của mô hình Anh – Mỹ là tính chịu trách nhiệm của quyền
lực nhà nước được thực hiện một cách triệt để hơn, vì các chính quyền địa
phương được phân quyền triệt để và đày đủ. Trong phạm vi thẩm quyền các

140


địa phương có toàn quyền giải quyết và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đó
là sự chịu trách nhiệm của quyền lực nhà nước.
b) Mô hình của Pháp (French model): có đặc điểm là chính quyền
địa phương bị song trùng giám sát của đại diện chính quyền trung ương và
của chính quyền cấp trên. Mô hình này được phát triển từ những năm của chế
độ quân chủ chuyên chế mà hình thành nên. Thuở ban đầu của chế độ phong
kiến, chính quyền địa phương chỉ là các quan cai trị do Nhà Vua cử về địa
phương chỉ nhằm mục đích thực hiện hay giám sát sự thực hiện các quyết
định của Nhà Vua, mà không tính đến các điều kiện hoàn cảnh của đại

phương, hoặc thậm chí cai trị theo cách riêng của quan chức được cử về. Sau
dần với sự đấu tranh của dân chủ, các lãnh đạo địa phương có một thẩm
quyền nhất định cho việc giải quyết các công việc của địa phương, trong đó
có cả các việc có liên quan đến đời sống của nhân dân địa phương, và cuối
cùng các quan chức được cử về chỉ làm mỗi một chức năng giám sát việc thực
hiện các quyết định của cấp trên và các văn bản luật của trung ương, mà
không còn có quyền hành như trước đây nữa. Tại tất cả các tỉnh ở Pháp đều
có những Thị trưởng do hội đồng thành phố bầu cử và ở dưới quyền kiểm soát
của các tỉnh trưởng. Thị trưởng vừa chăm nom đến những quyền lợi địa
phương vừa quan tâm đến những quyền lợi của trung ương.
c) Mô hình của Cộng hoà Liên bang Đức (Germanic model): có
đặc điểm giống của Pháp quốc nhưng không có cơ quan đại diện của chính
quyền cấp trên xuống giám sát chính quyền cấp dưới. Đây là một mô hình mà
chính quyền liên bang phụ thuộc vào chính quyền bang, chính quyền bang
phụ thuộc vào chính quyền địa phương trong việc quản lý và cung cấp các
dịch

vụ

cho

dân.

Điểm đặc trưng nhất của mô hình của Đức là tính phân quyền. Đây là hệ
thống quyền lực được phân theo nguyên tắc: cái gì địa phương làm tốt thì địa
141


phương làm, trung ương chỉ làm những gì mà địa phương làm không tốt hơn.
Vấn đề quan trọng trong hệ thống của Đức là ở đây phân rất rõ trách nhiệm

của từng cấp, cấp này làm thì cấp kia không làm. Và như vậy thì quyền của
mỗi cấp mang tính chủ động và được phân cấp; đồng thời được phân nhiệm
vụ thì cũng được phân ngân sách,tức là cấp đó sẽ có nguồn thu bảo đảm cho
việc thực hiện nhiệm vụ của mình. Mô hình của Đức, cũng giống như của
Pháp, có 5 cấp, trong đó một cấp không có cơ quan đại diện gọi là
Regierungsbezirke, ở Đức có liên bang, dưới liên bang có bang, dưới bang có
Regierungsbezirke, dưới đó là Kries và tiếp theo là Gemeinde.
d) Mô hình của Xô viết (Soviet model): có đặc điểm là đã là cấp
chính quyền thì phải có đầy đủ các cơ cấu, thành phần. Tức là phải có cả cơ
quan quyết nghị, có cả cơ quan chấp hành và có cả cơ quan xét xử và phải đặt
dưới sự lãnh đạo và trực thuộc của cơ quan dân cử. Chính quyền địa phương
là một bộ phận cấu thành của hệ thống nhà nước thống nhất, không có sự
phân chia quyền lực giữa các cấp chính quyền, mà chỉ có sự phân công, phân
nhiệm. Ngoài việc phải chịu sự lãnh đạo của chính quyền cấp trên, chính
quyền địa phương còn chịu sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của cấp uỷ đảng
địa phương.
Một trong những yêu cầu của việc tăng cường hiệu quả của chính
quyền địa phương là phải có những liên minh ổn định và một bộ máy hành
pháp có quyền lực khá mạnh và rõ ràng. Khả năng các cuộc bầu cử đem lại
một liên minh ổn định cao hơn nếu như cuộc bầu cử đó có đại đa số cử tri đi
bỏ phiếu. Các chính quyền địa phương bao gồm những liên minh ổn định sẽ
có khả năng cai quản địa phương tốt hơn những mối quan hệ cộng sự không
ổn định. Chẳng hạn những liên minh ổn định sẽ tiến hành những biện pháp
phát triển kinh tế - xã hội mạnh dạn hơn những liên minh không ổn định. Sự
tách rời các ngành hành pháp ra khỏi lập pháp trong chính quyền địa phương
142


và trực tiếp để cho nhân dân địa phương bầu ra người đứng đầu hành pháp
cũng có thể đem lại một sự cai quản hiệu quả hơn cho địa phương. Các thị

trưởng được người dân trực tiếp bầu ra dám thách thức thực trạng hơn những
thị trưởng được cấp trên bổ nhiệm. Tuyệt đại đa số các cuộc cải cách đô thị
lớn đều do các thị trưởng do dân bầu ra một cách trực tiếp khởi xướng. Nhưng
quá nhiều quyền lực trong tay thị trưởng cũng có thể là không thích hợp, nhất
là những nước chậm phát triển. Thị trưởng Moscow đã sửa đổi luật bầu cử
của thành phố này trái với nguyện vọng của hội đồng lập pháp.
Chính quyền địa phương không những được đặt dưới sự giám sát chặt
chẽ của cấp trên, giữa chính quyền cấp trên đối với cấp dưới, giữa trung ương
với địa phương, như các nước phương Tây phần Châu Âu lục địa, mà còn
chịu sự lãnh đạo trực tiếp toàn diện của cấp uỷ đảng địa phương, và của cơ
chế tập trung bao cấp. Nhân dân các địa phương thực hiện quyền lực nhà
nước thuộc về mình bầu ra các Xô viết, cơ quan quyết nghị của địa phương có
quyền quyết định các vấn đề quan trọng có liên quan đến nhân dân trong vùng
lãnh thổ địa phương. Xô viết địa phương được gọi là cơ quan quyền lực Nhà
nước ở địa phương thành lập ra các cơ quan chấp hành và hành chính Nhà
nước ở địa phương, có trách nhiệm tổ chức thực hiện các quyết định của Xô
viết các văn bản pháp luật và quyết định khác của các cơ quan Nhà nước cấp
trên. Các công việc hành chánh địa phương đều do những uỷ ban đảm nhiệm;
các cơ quan hành chánh địa phương thi hành những đường lối của cơ quan
nhà nước cấp trên.
2. Tổ chức chính quyền địa phương của một số nước trên thế giới
a) Tổ chức chính quyền địa phương ở Trung Quốc
Có thể nói các nước XHCN trước đây và hiện nay vẫn duy trì nguyên
tắc tập quyền trong tổ chức chính quyền địa phương. Theo cơ chế này các cơ

143


quan hành chính địa phương không chỉ phải chấp hành Hiến pháp, pháp luật
mà còn phải chấp hành mọi quyết định, chỉ thị, mệnh lệnh của cơ quan nhà

nước trung ương và các cơ quan hành chính ở cấp trên.
Tổ chức bộ máy hành chính địa phương của Trung Quốc cũng như các
quốc gia khác là chia lãnh thổ quốc gia thành các đơn vị hành chính để cai
quản. ở Trung Quốc Chính phủ nhân dân các cấp ở địa phương là cơ quan
hành chính được lập ra theo các đơn vị hành chính lãnh thổ, gồm có 4 cấp, ở
tất cả các cấp đều thành lập Đại hội đại biểu nhân dân do nhân dân trực tiếp
bầu nên, còn Chính phủ nhân dân do Đại hội đại biểu nhân dân cùng cấp bầu
ra.
Trung Quốc hiện có 32 đơn vị hành chính cấp tỉnh (23 tỉnh, 5 khu tự
trị, 4 thành phố trực thuộc trung ương). Việc phân chia các đơn vị hành chính
ở Trung Quốc chủ yếu dựa vào truyền thống lịch sử mà không có sự tính toán
đến quy mô lãnh thổ, dân số. Do đó tỉnh của nước này rất lớn, như một quốc
gia nếu xét ở quy mô dân số.
Dưới cấp tỉnh là cấp khu. Từ 1983 đến nay, tại một số khu vực phát
triển ở Trung Quốc đã thành lập Chính phủ nhân dân thành phố cấp khu.
Ngoài ra ở Trung Quốc hiện nay còn có các châu tự trị, tương đương cấp địa
khu, châu tự trị được thành lập ở những vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu
số, đây là các địa phương tự trị dân tộc. Chính phủ nhân dân châu tự trị có
quyền hạn như Chính phủ địa khu, ngoài ra còn có những quyền hạn khác do
Hiến pháp và Luật tự trị khu vực dân tộc quy định.
Cấp thứ ba là cấp huyện, chủ yếu chỉ Chính phủ huyện, huyện tự trị,
thành phố cấp huyện và khu thuộc thành phố cấp tỉnh. Hiện nay ở Trung
Quốc có 2826 Chính phủ nhân dân cấp huyện và tương đương.

144


Bốn là cấp hương, trấn. Chính phủ nhân dân hương, trấn là cơ quan
chính quyền cơ sở đặt dưới sự lãnh đạo của Chính phủ nhân dân huyện, đồng
thời cũng là cấp chính quyền gần dân, là nền móng của hệ thống hành chính

nhà nước.
Chính phủ nhân dân các cấp ở địa phương là cơ quan chấp hành của
cơ quan quyền lực nhà nước và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
Chính những quy định này tạo nên cơ chế “song trùng trực thuộc” của các
Chính phủ địa phương một mặt trực thuộc vào Đại hội đại biểu nhân dân cùng
cấp, mặt khác trực thuộc Chính phủ địa phương cấp trên và tất cả chịu sự lãnh
đạo thống nhất của Quốc vụ viện Cộng hoà nhân dân Trung hoa.
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Trung Quốc về cơ bản
cũng giống như ở Việt Nam đều được thiết lập trên cở sở nguyên tắc tập
quyền, tập trung quyền quản lý vào các cơ quan nhà nước ở trung ương. Mô
hình này chứa đựng những mâu thuẫn nội tại của nó là trung ương muốn quản
lý tập trung nhưng dễ dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, không phát huy
được tính chủ động, sáng tạo của chính quyền địa phương, còn địa phương lại
ỷ nại vào cấp trên và cũng ít phải chịu trách nhiệm về những hoạt động của
mình vì đã có cấp trên bảo trợ về mọi mặt.
b) Tổ chức chính quyền địa phương ở Brunây
Mọi quyền lực của nhà nước trung ương đều thuộc về vua, quyền lực
ở các địa phương được phân chia cho các địa phương. Cấp địa phương của
Brunây chia thành 4 khu: brunây muara (trong đó có thủ đô Banđa seri
begaoan), belait (khu vựclớn nhất cả về diện tích và nền công nghiệp khí đốt,
dầu mỏ ở Brunây), tutông và tembu rông.
Bộ máy hành chính địa phương gồm các uỷ ban thành phố và uỷ ban
mặt trận. Các uỷ ban này có chức năng duy trì hoạt động ở các địa phương

145


như một khu tự trị nhằm bảo đảm các dịch vụ xã hội, kỹ thuật và hành chính,
bao gồm cấp giấy phép kinh doanh, đường xá, cầu cống, môi trường, bảo vệ
thiên nhiên, hệ thống điện, nước… Người đứng đầu uỷ ban là Chủ tịch uỷ

ban, làm việc với các trưởng làng và người đứng đầu các cơ quan hành chính
địa phương. Các uỷ ban duy trì quyền lực của mình với những thẩm quyền do
Bộ Nội vụ giao, được thực hiện bởi hoạt động và sự giúp đỡ của các trường
làng.
c) Tổ chức chính quyền địa phương ở Inđônêxia
Chính quyền địa phương Inđônêxia được chia thành 4 cấp: Tỉnh
(thành phố); huyện (thành phố thuộc tỉnh); xã (thị trấn); làng (phường).
Người đứng đầu cấp hành chính và chính quyền địa phương là người
chấp hành cao nhất của chính quyền địa phương và là đại diện của Chính phủ
với thẩm quyền điều hành các hoạt động tại địa phương đó. Những vấn đề cụ
thể về cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương được thể hiện ở các cấp sau:
Tỉnh là cấp thứ nhất của chính quyền địa phương. Inđônêxia có 27
tỉnh, các tỉnh khác nhau rất lớn về diện tích và dân số. Chính quyền do tỉnh
trưởng đứng đầu, được Tổng thống bổ nhiệm trong thời hạn 5 năm theo đề
nghị của Hội đồng tư vấn nhân dân tỉnh. Hội đồng tư vấn nhân dân tỉnh làm
việc với tỉnh trưởng trong lĩnh vực lập pháp và ngân sách.
Tỉnh trưởng có một số các cơ quan giúp việc như: cơ quan kế hoạch
hoá của tỉnh, nhằm tư vấn cho tỉnh trưởng trong công tác kế hoạch, tổ chức và
điều phối tất cả kế hoạch trong tỉnh; cơ quan phát triển có trách nhiệm thực
hiện các chương trình phát triển tương tự, cơ quan tài chính có trách nhiệm về
ngân sách của tỉnh.
Chính phủ trung ương quản lý cấp tỉnh thông qua các ban. Các ban
này báo cáo đồng thời trước bộ chủ quản và tỉnh trưởng. Quan hệ giữa các cơ
146


quan đầu ngành cấp tỉnh và các cơ quan đại diện của các bộ, trên thực tế,
thông qua bộ chủ quản.
Huyện là cấp thứ hai trong hệ thống cơ quan chính quyền địa phương
có cơ cấu chính quyền và công việc hành chính gắn chặt với tỉnh. Giống như

cơ cấu tỉnh, ở huyện có văn phòng huyện, cơ quan kế hoạch huyện, cơ quan
tài chính và một số cơ quan khác. Một số cơ quan được thành lập ở cấp chính
quyền này, cùng với cơ quan đại diện cho ngành của cấp tỉnh cung cấp một số
dịch vụ cho huyện. Các cơ quan này báo cáo trước Huyện trưởng, đồng thời
báo cáo cho cơ quan chủ quản của mình ở cấp tỉnh.
Xã là cấp thứ ba trong hệ thống cơ quan chính quyền địa phương. Mỗi
xã có khoảng từ 20 đến 40 thôn, làng, người đứng đầu là xã trưởng và là công
chức nhà nước do huyện trưởng bổ nhiệm.
Xã cũng có một số cơ quan như y tế, nông nghiệp… Phụ trách các cơ
quan này báo cáo trước xã trưởng, đồng thời trước cơ quan chủ quản của
mình ở cấp huyện.
Làng là cấp thư tư trong hệ thống chính quyền địa phương. Mỗi làng
và mỗi khu phố có một người đứng đầu, là một công chức do huyện trưởng bổ
nhiệm.
Hệ thống chính quyền địa phương Inđônêxia hoạt động trên cơ sở các
nguyên tắc phân quyền, tản quyền và cùng quản lý.
Chức năng của chính quyền địa phương được quy định trong các văn
bản pháp luật. Luật số 5 của Inđônêxia quy định trách nhiệm và thẩm quyền
của mỗi cấp chính quyền. Từ năm 1993, có nhiều chức năng được trao cho
các cơ quan địa phương, công tác giáo dục, bảo vệ sức khoẻ, đường giao
thông tỉnh, huyện, canh nông, chăn nuôi, đánh bắt cá, trồng rừng…đã phân
quyền cho chính quyền tỉnh.
147


×