Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật về xử lý vi phạm của công ty chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.45 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ NGỌC

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM CỦA CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ NGỌC

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM CỦA CÔNG TY
CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thuận

Hà Nội – 2017




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Ngọc


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN,
VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN .................................8
1.1. Công ty chứng khoán ...........................................................................................8
1.1.1 Khái niệm ...........................................................................................................8
1.1.2 Đặc điểm ..........................................................................................................11
1.1.3 Phân loại Công ty chứng khoán .......................................................................15
1.1.4 Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán ..........................17
1.2. Vi phạm pháp luật của công ty chứng khoán .....................................................20

1.2.1. Khái niệm ........................................................................................................20
1.2.2. Đặc điểm .........................................................................................................20
1.2.3. Phân loại các vi phạm .....................................................................................22
1.3. Xử lý vi phạm pháp luật của công ty chứng khoán............................................23
1.3.1 Khái niệm .........................................................................................................23
1.3.2 Đặc điểm ..........................................................................................................23
1.4. Pháp luật về xử lý vi phạm của công ty chứng khoán. ......................................24
1.4.1. Khái niệm ........................................................................................................24
1.4.2 Nội dung pháp luật về xử lý vi phạm của công ty chứng khoán ......................25
1.5. Vai trò của pháp luật về xử lý vi phạm ..............................................................27
1.6. Pháp luật về xử lý vi phạm của công ty chứng khoán ở một số nước. .....................28
1.6.1.Pháp luật Mỹ ....................................................................................................28
1.6.2. Pháp luật Trung quốc ......................................................................................28
1.6.3.Pháp luật Hàn Quốc .........................................................................................29
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM
CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM .............................................32
2.1.Thực trạng các quy định pháp luật về xử lý vi phạm của CTCK .......................32
2.1.1. Xử lý vi phạm nghĩa vụ dân sự .......................................................................32


2.1.2.Xử phạt vi phạm hành chính ............................................................................35
2.1.3.Xử lý vi phạm hình sự ......................................................................................45
2.2 Thực trạng thực thi pháp luật ..............................................................................50
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT
NAM .........................................................................................................................58
3.1.Yêu cầu phải hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm của công ty chứng khoán. ....58
3.2.Nội dung hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm của CTCK...................................60
3.3.Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm của CTCK ........................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................70

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. CTCK:

Công ty chứng khoán

2. TTCK:

Thị trường chứng khoán

3. UBCKNN:

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước

4. LCK

:

Luật Chứng khoán

5. TNHH

:

Trách nhiệm hữu hạn



DANH MỤC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.2

Bảng các trƣờng hợp vi phạm đã bị xử phạt hành
chính trong năm 2014, 2015, 2016

51


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công ty chứng khoán (CTCK) là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói
riêng. CTCK là cầu nối giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư, là nhân tố
tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt, cung cấp cơ chế giá cả cho giao
dịch và tạo ra tính thanh khoản cho các chứng khoán đồng thời là nhà tạo
lập TTCK. Bởi lẽ, CTCK đóng vai trò vừa mua và vừa bán chứng khoán
cho chính mình, vừa mua chứng khoán cho khách hàng, vừa làm tư vấn
cho doanh nghiệp niêm yết, vừa tư vấn cho nhà đầu tư và bảo lãnh phát
hành cho tổ chức phát hành chứng khoán… Với đội ngũ hành nghề là các
chuyên gia kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán, có nghiệp vụ chuyên
môn cao, lành nghề và tổ chức bộ máy chặt chẽ để thực hiện vai trò trung
gian trên thị trường chứng khoán (TTCK).

Với chức năng và vai trò quan trọng như trên cộng với xung đột lợi
ích giữa CTCK và nhà đầu tư qua nghiệp vụ mua, bán chứng khoán cho
chính mình nên vi phạm đạo đức kinh doanh cũng như vi phạm quy định
pháp luật về kinh doanh chứng khoán của CTCK khó tránh khỏi. Các
quốc gia có TTCK phát triển lâu đời như Anh, Mỹ, Đức… đều có các quy
định và chế tài xử lý vi phạm đối với chủ thể này hết sức chặt chẽ và rắn
để hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi vi phạm nhằm ổn định và phát
triển TTCK, ổn định nền kinh tế.
Tại Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập CTCK, Chính phủ Việt Nam cũng
chủ trường và đề cao quan điểm này. Ngay từ khi Nghị định 48/1998/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 11 tháng 07 năm 1998 về chứng khoán và thị trường chứng
khoán cũng đưa ra những hành vi bị cấm để hạn chế vi phạm của các chủ thể
1


tham gia TTCK trong đó có CTCK. Theo đó, Nghị định 22/2000/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 10 tháng 07 năm 2000 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực chứng khoán và thị trường chứng khoán, đây là nghị định đầu tiên về xử lý
vi phạm hành chính về các hành vi trên TTCK trong đó có nhiều điều quy định
về CTCK. Cùng với sự lớn mạnh của TTCK, CTCK thì các hành vi vi phạm
pháp luật về chứng khoán và TTCK ngày càng tinh vi hơn.
Theo đó, để quản lý TTCK và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro từ
vi phạm pháp luật của các chủ thể trên TTCK trong đó có CTCK thì Chính
phủ Việt Nam đã ban hành và thay thế hàng loạt các văn bản điều chỉnh về
vấn đề này như: Nghị định 161/2004/NĐ-CP ngày 07/09/2004 của Chính phủ
thay thế Nghị định 22/2000/NĐ-CP, Nghị định số 36/2007/NĐ-CP ngày
08/03/2007 thay thế Nghị định số 161/2004/NĐ-CP, Nghị định 85/2010/NĐCP ngày 02/08/2010 thay thế Nghị định 36/2007/NĐ-CP, Nghị định
108/2013/NĐ-CP ngày 23/09/2013 thay thế Nghị định 85/2010/NĐ-CP.
Như vậy có thể nói, việc quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối
với các hành vi vi phạm của các chủ thể tham gia trên TTCK trong đó có

CTCK ở Việt Nam đã ban hành khá đầy đủ và càng ngày quy định mức xử
phạt càng được nâng cao nhằm răn đe các hành vi vi phạm, trong đó có các
quy định tại các tội phạm trong Bộ luật Hình sự. Để đảm bảo sự phát triển ổn
định của TTCK, đảm bảo sự an toàn, minh bạch trong các giao dịch và quyền
lợi của các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của TTCK, các hành vi vi phạm ngày
càng tinh vi do mức xử phạt quá nhẹ, không mang tính răn đe, việc xử lý vi
phạm còn hạn chế. Vì vậy, việc ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật chứng
khoán và thị trường chứng khoán là cần thiết phải được xem xét lại nên tác
giả xin chọn đề tài: “ Pháp luật về xử lý vi phạm của CTCK ở Việt Nam”
nhằm góp phần đóng góp ý kiến, đê xuất cho các nhà làm luật hoàn thiện các
2


quy phạm pháp luật, điều chỉnh có hiệu quả hoạt động kinh doanh chứng
khoán của CTCK.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Về vấn này, tác giả được biết hiện tại có một số công trình và bài viết
như: Pháp luật về công ty chứng khoán ở Việt Nam, Lê Thị Thu Thủy, Nhà
xuất bản Tư pháp năm 2011; Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm trên thị
trường chứng khoán ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Bùi Thanh Ngà, 2007; Vi
phạm, xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán tại
Việt Nam, Luận văn thạc sỹ, Nguyễn Ngọc Lương; Pháp luật về công ty
chứng khoán ở Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ, Nguyễn Hồng Nhung, khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay –
thực trạng và giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội ,
2009; Pháp luật về xử lý vi phạm chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt
Nam, Khóa luận tốt nghiệp Vũ Mai Hoa, Hà Nội, 2011; Quá trình xây dựng và
hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán ở

Việt Nam, Lê Thị Thu Thủy, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc
hội, số 12/2007; Một số vấn đề pháp lý về công ty chứng khoán theo Luật
chứng khoán năm 2006, NCS. Vũ Văn Cương, Tạp chí Luật học, Đại học Luật
Hà Nội số tháng 08/2006; Những bất cập trong quy định về xử phạt vi phạm
trong lĩnh vực chứng khoán và các kiến nghị sửa đổi, bổ sung, Ths. Phan
Phương Nam, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, ngày 5/1/2015; Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán ở Việt Nam, TS. Lê Thị Thu Thủy, Tạp chí
Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế - Luật, số 24 (2008); Luật Hình
sự và việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán, Ths. Phạm Hồng Giang,
Văn phòng UBCKNN, 2005; Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm phát
triển bền vững thị trường chứng khoán ở Việt Nam, Lê Thị Thu Thủy, Đỗ Minh
3


Tuấn, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 28 (2012),
254-264; Công tác thanh tra và xử lý vi phạm thị trường chứng khoán nhìn lại
năm 2010 và mục tiêu, nhiệm vụ năm 2011, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số
147+148, tháng 1+2 năm 2011; Công tác xử lý vi phạm trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán và các biện pháp hạn chế phòng ngừa vi
phạm, Tạp chí Chứng khoán Việt Nam số 141, tháng 7 năm 2010.
Pháp luật về xử lý vi phạm chứng khoán và thị trường chứng khoán ở
Việt Nam là lĩnh vực rất rộng, điều chỉnh tất cả các chủ thể tham gia vào thị
trường chứng khoán trong đó có CTCK. Các công trình khoa học trên mới
dừng lại ở mức độ nghiên cứu các nghiệp vụ kinh doanh, hoạt động của
CTCK, pháp luật về xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán nói chung nên
việc tiếp cận chuyên sâu về pháp luật xử lý vi phạm của công ty chứng khoán
còn bỏ ngỏ. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật về xử lý
vi phạm của công ty chứng khoán là việc cần thiết cả về lý luận và thực tiễn
nhằm tìm hiểu, nghiên cứu một cách hệ thống, chỉ ra những điểm bất cập

trong quy định của pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trên thị trường chứng
khoán để đưa ra kiến nghị, phương hướng hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung cũng như pháp luật
về xử lý vi phạm của công ty chứng khoán nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là tìm hiểu các hành vi vi phạm quy định pháp luật
về kinh doanh chứng khoán, nguyên tắc xử lý vi phạm, các hình thức xử phạt vi
phạm, thẩm quyền xử phạt vi phạm, pháp luật về xử lý vi phạm của công ty
chứng khoán, thực tiễn vi phạm pháp luật về chứng khoán của công ty chứng
khoán và xử lý vi phạm pháp luật của công ty chứng khoán, chỉ ra những bất

4


cập, vướng mắc còn tồn tại nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm của
công ty chứng khoán để phát triển thị trường chứng khoán ổn định và bền vững.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ đặt ra:
Một là, cần làm rõ một số vấn đề lý luận về công ty chứng khoán và
pháp luật về xử lý vi phạm của công ty chứng khoán ở thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng. Cụ thể, tìm hiểu các khái niệm, đặc điểm, phân loại
CTCK, vi phạm pháp luật của CTCK, pháp luật về xử lý vi phạm của CTCK.
Hai là, qua việc nghiên cứu đó để đánh giá thực trạng pháp luật điều
chỉnh việc xử lý vi phạm của công ty chứng khoán và thực trạng thực thi
pháp luật và xử lý vi phạm, rút ra các ưu điển, hạn chế, bất cập, tồn tại trong
các quy định hiện hành trên cơ sở so sánh với các quy định trước đây và đảm
bảo phù hợp với các quy định pháp luật, thông lệ quốc tế.
Ba là, đề xuất phương hướng và các giải pháp, kiến nghị để phù hợp với
thực tế hoạt động của các CTCK và phương hướng hội nhập quốc tế sâu rộng.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật hiện hành về xử lý
vi phạm pháp luật của CTCK ở Việt Nam, có sự so sánh với các quy định
trước đó và so sánh với quy định của một số quốc gia trên thế giới nhằm rút ra
bài học cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật Việt Nam cho phù hợp với
thông lệ quốc tế.
Người viết tập trung vào thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm của công
ty chứng khoán tại Việt Nam từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đươ ̣c nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điể m của Chủ nghiã Mác
– Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, ứng dụng cơ sở phương pháp luận duy vật
5


biê ̣n chứng, duy vâ ̣t lich
̣ sử. Nội dung của luận văn được phân tích dựa trên cơ
sở các đề tài nghiên cứu khoa học, các văn bản pháp luật, văn bản hướng dẫn
áp dụng pháp luật, các tài liệu pháp lý, tài liệu về hoạt động của CTCK và
pháp luật xử lý vi phạm của CTCK.
Bên ca ̣nh đó , luâ ̣n văn còn sử du ̣ng các phương pháp nghiên cứu khoa
học khác nh ư phương pháp phân tić h , so sánh , tổ ng hơ ̣p , phương pháp thu
thâ ̣p và đánh giá thông tin , phương pháp thố ng kê và mô ̣t số phương pháp
nghiên cứu khoa ho ̣c khác.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Phân tích những vấn đề lý luận về CTCK, về vi phạm pháp luật của
CTCK, xử lý vi phạm pháp luật của CTCK và pháp luật về xử lý vi phạm của
CTCK, đối chiếu các quy định của pháp luật hiện hành với thực tiễn để phân
tích, đánh giá làm rõ ưu điểm và hạn chế của các quy định, từ quy định của
pháp luật đến thực tiễn vi phạm và pháp luật xử lý vi phạm của công ty chứng

khoán để chỉ ra những điểm bất cập, khó khăn cần khắc phục.
Việc nghiên cứu các vi phạm và biện pháp xử lý vi phạm đối với CTCK
có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về hạn chế vi phạm và
kiểm soát vi phạm của các CTCK. Từ đó, mạnh dạn kiến nghị hướng sửa đổi,
hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm của công ty chứng khoán cho phù hợp
với thực tế và phù hợp với xu hướng hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về công ty chứng khoán, vi phạm pháp
luật của công ty chứng khoán và pháp luật về xử lý vi phạm của công ty
chứng khoán.

6


Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật về xử lý vi phạm của công ty
chứng khoán ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử
lý vi phạm của công ty chứng khoán ở Việt Nam.

7


CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN, VI
PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Công ty chứng khoán

1.1.1

Khái niệm

Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán
các loại chứng khoán trung và dài hạn. Để thị trường này hoạt động và phát
triển thì một điều kiện không thể thiếu là có sự tham gia của các chủ thể kinh
doanh trên thị trường chứng khoán và công ty chứng khoán là một trong
những chủ thể kinh doanh chứng khoán có vị trí quan trọng. Công ty chứng
khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung
và của thị trường chứng khoán nói riêng. Bởi lẽ, CTCK là cầu nối giữa nhà
đầu tư và tổ chức phát hành chứng khoán. Đây là tổ chức trung gian đóng vai
trò kết nối và thực hiện giao dịch giữa người mua và người bán trên thị trường
chứng khoán. CTCK là chủ thể làm nhiệm vụ cầu nối giữa nhà phát hành và
nhà đầu tư, một bên có nhu cầu về vốn và một bên là các nhà đầu tư có các
khoản tiền nhàn rỗi.
Nhờ các công ty chứng khoán mà chứng khoán được lưu thông từ nhà
phát hành tới người đầu tư và có tính thanh khoản, qua đó huy động nguồn
vốn từ nơi nhàn rỗi để phân bổ vào những nơi sử dụng có hiệu quả. Thông
qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán
có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành.
Hơn nữa, với nghiệp vụ chuyên môn cao và đội ngũ nhân viên lành
nghề, CTCK còn là trung gian về thông tin, cung cấp thông tin tư vấn, các sản
phẩm nghiên cứu nhằm hỗ trợ nhà đầu tư lựa chọn được các chứng khoán cho
danh mục đầu tư của mình, giúp nhà đầu tư giảm được chi phí và thời gian

8


giao dịch. CTCK được hiểu khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Cụ thể, pháp

luật của mỗi nước đưa ra khái niệm CTCK như sau:
Theo Luật Chứng khoán nhân dân Trung Hoa ban hành ngày
19/12/1998, đưa ra định nghĩa công ty chứng khoán như sau: “ CTCK là một
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần làm nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán”.
Còn Luật Chứng khoán và Giao dịch Hàn Quốc thì quy định: “ CTCK là
công ty cổ phần được Bộ Tài chính và kinh tế cấp phép kinh doanh chứng
khoán”.
Luật Chứng khoán Thái Lan định nghĩa CTCK là: “ CTCK là công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hữu hạn đại chúng hoặc tổ chức tài chính được
cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán”.
Luật Chứng khoán Nhật Bản thì quy định: “CTCK là bất kỳ một công ty
cổ phần nào đó được Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp phép kinh doanh chứng
khoán”.
Luật Chứng khoán của Liên minh Châu âu EU mở rộng các hình thức
pháp lý, loại hình doanh nghiệp được phép kinh doanh lĩnh vực chứng khoán
quy định: “Công ty chứng khoán là pháp nhân hoặc không phải pháp nhân
thực hiện các dịch vụ đầu tư kinh doanh chứng khoán cho bên thứ ba như là
nghiệp vụ của chính mình”.
Luật chứng khoán Mỹ cho phép CTCK được thành lập dưới cả ba hình
thức đó là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh.
Tựu chung lại, pháp luật của các quốc gia đều quy định rõ về hình thức pháp
lý của CTCK có thể là mô hình trách nhiệm hữu hạn, cổ phần hoặc hợp danh
được cấp phép kinh doanh và hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Không ngoại lê, pháp luật Việt Nam về chứng khoán đưa ra định nghĩa
CTCK tại Điều 2 khoản 13 Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày
9


11 tháng 7 năm 1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán là: “Công ty

cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được phép thực hiện một hoặc một số
loại hình kinh doanh chứng khoán”. Nghị định này cũng quy định rõ công ty
chứng khoán phải là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, đáp
ứng các điều kiện theo pháp luật quy định và được Ủy ban chứng khoán cấp
phép hoạt động.
Trên cơ sở kế thừa Nghị định 48/1998/NĐ-CP, ngày 24 tháng 04 năm
2007 Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 27/2007/QĐ- BTC về việc Ban
hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Công ty chứng khoán đưa ra khái
niệm công ty chứng khoán bị thu hẹp hơn so với Nghị định 48/1998/NĐ-CP,
cụ thể: “Công ty chứng khoán là tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động
kinh doanh chứng khoán, bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động
môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán”.
Tiếp đó, tại Thông tư 210/2012/TT-BTC ngày 30 tháng 11 năm 2012 của
Bộ Tài chính hướng dẫn về thành lập và hoạt động công ty chứng khoán tại
khoản 1 Điều 2 có định nghĩa công ty chứng khoán là doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh chứng khoán, thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp
vụ: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Hiện nay, Luật Chứng khoán năm 2006 sửa đổi, bổ sung năm 2010
không đưa ra khái niệm về công ty chứng khoán. Mới đây, tại Điều 2.1 Nghị
định 86/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01 tháng 07 năm 2016 quy định về
điều kiện đầu tư, kinh doanh chứng khoán có đưa ra định nghĩa về công ty
chứng khoán như sau:
Công ty chứng khoán là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo pháp
luật chứng khoán để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ: Môi
10


giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư

vấn đầu tư chứng khoán và được cung cấp các dịch vụ tài chính theo quy định
của pháp luật chứng khoán.
Qua các quy định cụ thể của pháp luật chứng khoán có thể khái quát định
nghĩa về CTCK như sau: Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công
ty TNHH được thành lập, hoạt động theo quy định pháp luật chứng khoán để
thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
1.1.2

Đặc điểm

Công ty chứng khoán là loại hình doanh nghiệp được thành lập, hoạt
động trên cơ sở các quy định của pháp luật doanh nghiệp và Luật chứng
khoán nên có đầy đủ đặc điểm của doanh nghiệp nói chung. Bên cạnh đó, do
công ty chứng khoán kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù nên có những đặc
điểm pháp lý riêng biệt giúp chúng ta nhận biết và phân biệt chúng với các
doanh nghiệp kinh doanh khác, cụ thể:
Thứ nhất, về hình thức tổ chức pháp lý: Công ty chứng khoán được tổ
chức dưới hai hình thức phổ biến là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm
hữu hạn. Pháp luật các nước đều có những quy định riêng về loại hình, hình
thức pháp lý của CTCK để phù hợp với tính chất thị trường tài chính của từng
nước. Nhưng hình thức chủ yếu đó là theo mô hình công ty trách nhiệm hữu
hạn và công ty cổ phần.
Quy định công ty chứng khoán là trách nhiệm hữu hạn hoặc cổ phần vì
đây là mô hình phổ biến trong nền kinh tế thị trường, có quy chế pháp lý, tổ
chức hoạt động chặt chẽ và đảm bảo cho công tác quản lý, giám sát hoạt động
của CTCK so với các loại hình doanh nghiệp khác. Bởi lẽ, loại hình này có
nhiều ưu điểm trong việc huy động vốn so với công ty hợp danh, khả năng
quản trị và giảm thiểu rủi ro tốt, chỉ đòi hỏi trách nhiệm của các thành viên
trong số vốn góp.
11



Ở Việt Nam, hình thức tổ chức của công ty chứng khoán cũng giống luật
chứng khoán của nhiều quốc gia. Công ty chứng khoán chỉ được tổ chức dưới
hình thức công ty TNHH hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh
nghiệp do Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt
động. Công ty hợp danh và công ty hợp vốn đơn giản không được phép kinh
doanh chứng khoán vì những loại hình này về mặt tổ chức quản lý không đáp
ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh chứng khoán đó là đảm bảo độ
tin cậy cao và hạn chế rủi ro.
Thứ hai, về lĩnh vực ngành nghề kinh doanh. Công ty chứng khoán có
hoạt động kinh doanh chính, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là kinh
doanh dịch vụ chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Chủ thể này kinh
doanh chứng khoán dưới một trong các hình thức gồm môi giới, tự doanh,
bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và các nghiệp vụ chứng khoán
khác được nhà nước cho phép.
Pháp luật các nước thường quy định cụ thể từng nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán mà CTCK được thực hiện hoặc quy định chỉ cho phép CTCK
thực hiện một số hoạt động nhất định mà không được thực hiện toàn bộ các
hoạt động kinh doanh chứng khoán. Hoặc nếu đã thực hiện hoạt động tự
doanh thì không được hoạt động môi giới và ngược lại. Chẳng hạn, Luật
Chứng khoán Trung Quốc quy định CTCK đa năng có thể kinh doanh các
nghiệp vụ chứng khoán gồm nghiệp vụ môi giới, nghiệp vụ tự doanh, nghiệp
vụ chứng khoán khác được cơ quan giám quản chứng khoán của Quốc Vụ
viện phê chuẩn và quy định công ty môi giới chứng khoán chỉ được phép
chuyên thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán. [ 21, Điều 129, 130].
Tuy nhiên, cũng có nước cho phép thực hiện tất cả các loại hình kinh
doanh trong một công ty chứng khoán nhưng phải phải bảo đảm tách biệt
các hoạt động kinh doanh này như pháp luật Mỹ và Việt Nam. Ở Việt Nam,
12



CTCK được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh gồm
môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán. Trong các hoạt động kinh doanh thuộc về
công ty chứng khoán, pháp luật Việt Nam chỉ cho phép một công ty chứng
khoán thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi thực hiện
nghiệp vụ tự doanh chứng khoán [17, Điều 60].
Như vậy, CTCK có thể thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán nếu có đủ điều kiện và được UBCKNN cấp giấy phép cho tất cả các
hoạt động đó. Đây là đặc trưng cơ bản để nhận biết với các chủ thể kinh
doanh khác trên thị trường chứng khoán như: Công ty quản lý quỹ, công ty
đầu tư chứng khoán…
Thứ ba, kinh doanh chứng khoán là ngành nghề kinh doanh có điều kiện,
vì vậy công ty chứng khoán phải thoả mãn những điều kiện cấp giấy phép
thành lập và hoạt động mà pháp luật quy định và được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cấp giấy phép. Điều kiện để cấp giấy phép bao gồm điều kiện về
vốn, nhân sự và cơ sở vật chất, trang thiết bị. Điều kiện về vốn được đưa ra
căn cứ vào mức độ rủi ro tương ứng với từng hoạt động nghiệp vụ, những
nghiệp vụ rủi ro cao thì đòi hỏi vốn cao và ngược lại.
Điều kiện về nhân sự được đặt ra do tính chất đặc thù của hoạt động
kinh doanh chứng khoán, cụ thể đó là người điều hành và nhân viên thực hiện
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán phải có lý lịch tốt, có trình độ chuyên môn
và tuân thủ đạo đức nghề nghiệp. Những người quản lí hay nhân viên của
công ty chứng khoán phải có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm và độ tín nhiệm.
Điều kiện cơ sở vật chất được đạt ra vì công ty chứng khoán thường có
chức năng lưu giữ các chứng khoán và giấy tờ cần thiết, phải công bố thông
tin cho người đầu tư…vì vậy cần có phương tiện cần thiết để bảo đảm an toàn
và công bố thông tin đầy đủ, thuận tiện.
13



Thứ tư, pháp luật điều chỉnh và phương diện quản lý nhà nước:
Công ty chứng khoán là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trên
cơ sở luật chứng khoán và các quy định của pháp luật có liên quan. Hầu hết
pháp luật các nước đều quy định một chương trong luật chứng khoán để điều
chỉnh về hoạt động của CTCK. Nhằm mục đích đảm bảo cho CTCK hoạt
động hiệu quả, bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
bằng việc quy định chặt chẽ về điều kiện thành lập, tổ chức, quyền và nghĩa
vụ, nguyên tắc hoạt động của CTCK, các hoạt động nghiệp vụ chứng khoán
được thực hiện…
Hơn nữa, về phương diện quản lý nhà nước thì CTCK đặt dưới sự quản
lý trực tiếp của cơ quan quản lý chuyên trách trong lĩnh vực chứng khoán với
những tên gọi khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Ở Việt Nam thì cơ quan
quản lý đó là Uỷ Ban Chứng khoán Nhà nước, ở Trung Quốc đó là Ủy ban
Giám quản chứng khoán hoặc Bộ Tài chính và kinh tế (quy định của pháp luật
Hàn Quốc)…
UBCKNN là cơ quan trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
chứng khoán và TTCK. Đây là cơ quan đóng vai trò giám sát hoạt động của
thị trường chứng khoán thông qua việc cấp phép, đăng ký, gia hạn, thu hồi,
chấp thuận những thay đổi liên quan đến hoạt động chứng khoán, thực hiện
công tác kiểm tra, thanh tra và cưỡng chế thực thi pháp luật về thị trường
chứng khoán.
Mặt khác, cơ quan này có quyền tham gia vào các quy trình tố tụng dân
sự, tố tụng hình sự và phối kết hợp với các cơ quan chức năng để giám sát,
cưỡng chế thực thi pháp luật về thị trường chứng khoán. Ví dụ như Ủy ban
Chứng khoán Hàn quốc được tiến hành các cuộc điều tra khi nghi ngờ hay
được thông báo về hành vi vi phạm pháp luật, các giao dịch không công bằng,
có quyền điều tra người liên quan đến giao dịch có nghi vấn [ 22, Điều 128].
14



Theo pháp luật Việt Nam, CTCK chịu sự điều chỉnh của pháp luật
doanh nghiệp nói chung và pháp luật chuyên ngành đó là luật chứng khoán
và các quy định của pháp luật có liên quan. Pháp luật về doanh nghiệp quy
định cụ thể, chi tiết và chặt chẽ về điều kiện thành lập, cơ cấu sở hữu vốn,
quản trị công ty, các vấn đề về đăng ký, công bố công khai tài chính…
1.1.3 Phân loại Công ty chứng khoán
(i) Căn cứ vào loại hình tổ chức: Căn cứ vào hình thức tổ chức pháp lý
doanh nghiệp, CTCK có hai loại hình tổ chức cơ bản đó là công ty cổ phần và
công ty trách nhiệm hữu hạn. Ngày nay, hai mô hình này được lựa chọn phổ
biến hơn vì những ưu điểm trong việc huy động vốn, chuyển đổi quyền sở
hữu và niêm yết chứng khoán.
(ii) Căn cứ vào phạm vi hoạt động: Hiện nay, trên thế giới có 3 loại mô
hình công ty chứng khoán cơ bản và phổ biến gồm:
Công ty chứng khoán chuyên doanh là công ty chỉ chuyên kinh doanh
trong lĩnh vực chứng khoán không được thực hiện nghiệp vụ ngân hàng và
bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập,
chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận và các ngân hàng
không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán. Đây là loại hình này được
áp dụng khá rộng rãi ở các thị trường Mỹ, Nhật, Canada, Hàn Quốc, Thái
Lan…Nhằm hạn chế rủi ro cho tổ chức tài chính, hệ thống ngân hàng và tạo
điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển mang tính chuyên môn hóa
cao, vì vậy các tổ chức tài chính, ngân hàng hay công ty bảo hiểm không được
tham gia kinh doanh chứng khoán.
Công ty chứng khoán đa năng một phần là sự kết hợp của hai mô hình
đó là công ty chứng khoán chuyên doanh và công ty chứng khoán đa năng
toàn phần. Vì vậy, các ngân hàng, công ty bảo hiểm muốn kinh doanh chứng
khoán phải thành lập công ty chứng khoán trực thuộc có tư cách pháp nhân để
tiến hành kinh doanh chứng khoán độc lập. Hay nói cách khác, các ngân hàng

15


muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập các công ty con độc lập, tách
rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ.
CTCK có tư cách pháp nhân riêng và chịu trách nhiệm bằng vốn riêng
của mình. Hoạt động của CTCK không ảnh hưởng đến hoạt động của ngân
hàng. Quy định này được áp dụng ở các nước theo hệ thống pháp luật Châu
Âu lục địa như Anh, Canada….
Công ty kinh doanh chứng khoán đa năng hoàn toàn là loại hình tổ
chức kinh doanh chứng khoán được thực hiện đồng thời các nghiệp vụ kinh
doanh chứng khoán và cả nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng, bảo hiểm. Công
ty chứng khoán sẽ là một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh
doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính khác. Các ngân
hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán,
bảo hiểm và tiền tệ. Các ngân hàng, công ty bảo hiểm được phép trực tiếp kinh
doanh chứng khoán bên cạnh nghiệp vụ kinh doanh chính là tiền tệ, bảo hiểm.
Mô hình công ty kinh doanh chứng khoán đa năng này có ở Đức, Úc…
Đây là sự kết hợp rất cao giữa kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và
tiền tệ nhằm đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro cho hoạt động kinh doanh
chung, tận dụng được thế mạnh về vốn. Tuy nhiên, vì hoạt động đa năng nên
khả năng chuyên môn hóa không bằng các CTCK chuyên doanh, khi TTCK
biến động mạnh sẽ gây ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh tiền tệ từ đó dễ
gây khủng hoảng nền kinh tế tài chính.
Ở nước ta, CTCK có thể thực hiện nhiều nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán nếu có đủ điều kiện và được UBCKNN cấp giấy phép cho tất cả các
hoạt động thuộc về nghiệp vụ của công ty chứng khoán. Vì vậy mô hình
CTCK tồn tại cả công ty chứng khoán đa năng với công ty chứng khoán
chuyên doanh. Đối với các tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm muốn tham gia
kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty cổ phần hoặc công ty TNHH

trực thuộc có tư cách pháp nhân đề kinh doanh chứng khoán.
16


(iii) Căn cứ vào hình thức đầu tư và nguồn vốn chủ sở hữu, CTCK được
chia làm bốn loại, gồm: CTCK 100% vốn trong nước, CTCK 100% vốn nước
ngoài, CTCK hỗn hợp và chi nhánh CTCK tại Việt Nam.
(iv) Công ty chứng khoán niêm yết và công ty chứng khoán chưa niêm yết.
Do CTCK được thực hiện kinh doanh nghiệp vụ tự doanh chứng khoán là việc
kinh doanh chứng khoán của chính mình gồm việc mua và bán chứng khoán.
Công ty chứng khoán niêm yết là công ty có chứng khoán được niêm yết
trên thị trường giao dịch tập trung sau khi đáp ứng đủ các điều kiện, tiêu
chuẩn về niêm yết.
Công ty chứng khoán chưa niêm yết là công ty chưa đáp ứng các điều
kiện, quy định của pháp luật để đưa cổ phiếu, trái phiếu giao dịch trên thị
trường chứng khoán.
1.1.4 Vai trò của công ty chứng khoán trên thị trƣờng chứng khoán
CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, có vai
trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành đối với các
cơ quan quản lý thị trường và đối với thị trường chứng khoán nói chung.
Bởi lẽ, một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng
khoán là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và
những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải
thông qua các trung gian mua bán. Vì vậy, CTCK sẽ thực hiện vai trò trung
gian cho cả người đầu tư và nhà phát hành, là cầu nối quan trọng giữa nhà đầu
tư và tổ chức phát hành.
Thứ nhất, vai trò của CTCK đối với tổ chức phát hành: Để việc phát
hành chứng khoán được thành công thì tổ chức phát hành chứng khoán phải
bán được chứng khoán cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc xác định giá bán, số
lượng, thời điểm phát hành, các thủ tục đăng ký phát hành và phân phối nếu

tổ chức phát hành tự tiến hành thì hiệu quả không cao. Chính vì vậy, cần một
17


chủ thể chuyên nghiệp có chuyên môn về nghiệp vụ để phân tích và tư vấn về
đầu tư chứng khoán chính là công ty chứng khoán.
CTCK với các nghiệp vụ kinh doanh của mình có thể tạo cho chứng
khoán có khả năng thanh khoản cao, các chứng khoán được trao đổi dễ dàng,
thuận lợi trên thị trường chứng khoán. CTCK với nghiệp vụ chuyên môn,
kinh nghiệm nghề nghiệp, đội ngũ hành nghề là các chuyên gia kinh doanh
trong lĩnh vực chứng khoán sẽ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới, mua
bán, phát hành chứng khoán, từ đó huy động được các nguồn vốn nhàn rỗi
trong công chúng, các nhà đầu tư để phân bổ vào nơi có hiệu quả. Tổ chức
phát hành thông qua việc phát hành các loại chứng khoán và bán chứng khoán
trên thị trường chứng khoán sơ cấp để huy động vốn nhanh và linh hoạt.
Thứ hai, vai trò đối với các nhà đầu tư: TTCK là nơi lưu thông của đa
dạng các loại chứng khoán và để đánh giá chính xác giá trị thực của chứng
khoán thì nhà đầu tư phải có đầy đủ thông tin đáng tin cậy để có quyết định
đầu tư đúng đắn. CTCK thông qua các hoạt động tư vấn đầu tư, môi giới
chứng khoán giúp nhà đầu tư xác định đúng giá trị thực của chứng khoán, tìm
hiểu thông tin trước khi ra quyết định và theo dõi sự biến động, dự đoán xu
hướng biến động giá trong thời gian nắm giữ, đầu tư chứng khoán để đưa ra
những quyết định đầu tư hợp lý, giảm chi phí về thời gian, chi phí giao dịch.
Vì vậy, CTCK có vị trí, vai trò rất lớn đối với nhà đầu tư, kết nối giữa tổ chức
phát hành- bên bán và nhà đầu tư – bên mua nhanh chóng và tối ưu nhất.
CTCK kiểm soát rủi ro trong hoạt động đầu tư của khách hàng, đảm bảo
an toàn trong các giao dịch. Với dịch vụ tư vấn, CTCK trở thành một kênh
cung cấp thông tin hiệu quả cho nhà đầu tư gồm thông tin về giá cả các loại
cổ phiếu, trái phiếu, tình hình chính sách, môi trường kinh tế trong nước và
ngoài nước. Những thông tin này được CTCK cung cấp chính xác và kịp thời,

là cơ sở để các nhà đầu tư thực hiện được các quyết định mua bán của mình.
18


×