Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 137 trang )

§¹i häc quèc gia Hµ Néi
khoa luËt

PHÍ MINH HẢI

XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số

: 60 38 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

1


HÀ NỘI - NĂM 2007

Công trình được hoàn thành
tại:...................................................................................................
........................................................................................................

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Trọng Hách

Phản biện 1:...................................................................................
Phản biện 2:...................................................................................
Phản biện 3:....................................................................................

Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng cấp Nhà nước chấm luận văn


Thạc sĩ họp tại ..............................................................................
Vào hồi

giờ

ngày

tháng

2

năm


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................. . 7
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT
NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN............. 12
1.1. Khái quát chung về Nhà nƣớc pháp quyền ........................................ 12
1.1.1. Quan niệm về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử và những giá trị hiện
đại ................................................................................................................. 12
1.1.1.1. Trong thời kỳ cổ đại ......................................................................... 12
1.1.1.2. Thời kỳ Trung cổ và bước chuyển tiếp thời kỳ cận đại .................... 15
1.1.1.3. Sự hình thành học thuyết Nhà nước pháp quyền tư sản ..................... 16
1.1.2. Nhân tố Nhà nước pháp quyền trong lịch sử Nhà nước và pháp luật
Việt Nam................................................................................................ 24
1.1.2.1. Nhân tố Nhà nước pháp quyền trong các triều đại phong kiến .......... 24
1.1.2.2. Nhân tố Nhà nước pháp quyền từ cách mạng tháng 8 năm 1945 trên nền
tảng Tư tưởng Hồ Chí Minh .......................................................................... 27
1.1.3. Khái niệm và những đặc điểm chung của Nhà nước pháp quyền ......... 36

1.1.3.1. Khái niệm về Nhà nước pháp quyền ................................................. 36
1.1.3.2. Những đặc điểm chung của Nhà nước pháp quyền ........................... 38
1.2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân .............................................. 40
1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp
quyền ............................................................................................................ 40
1.2.2. Những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân .............................................................................. 43
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN Ở NƢỚC TA ..................................................................................................... 49

2.1. Những thành tựu đã đạt đƣợc trong bƣớc đầu xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ......... 49

4


2.1.1. Chuyển biến nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ....................................................... 49
2.1.2. Kết quả bước đầu về xây dựng Nhà Nước pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ............................................................. 50
2.1.2.1. Về cải cách bộ máy Nhà nước .......................................................... 50
2.1.2.2. Về xây dựng hệ thống pháp luật ...................................................... 56
2.1.2.3. Về đổi mới hệ thống chính trị, đảm bảo dân chủ xã hội chủ nghĩa ... 58
2.2. Những hạn chế, tồn tại ......................................................................... 60
2.2.1. Những hạn chế về nhận thức................................................................ 60
2.2.2. Bộ máy Nhà nước chậm đổi mới ......................................................... 62
2.2.3. Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh , chưa đồng bộ, thiếu tính thống
nhất ............................................................................................................... 65
2.2.4. Hệ thống chính trị chậm được đổi mới................................................. 68

2.2.5. Những nguyên nhân của sự yếu kém và tồn tại .................................... 69
2.2.5.1. Tính không chuyên nghiệp của bản thân các cơ quan quyền lực Nhà
nước .............................................................................................................. 69
2.2.5.2. Tính không chuyên nghiệp trong bộ máy hành chính Nhà nước cũng
được biểu hiện rõ nét ..................................................................................... 70
2.2.5.3. Chưa có nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công
tác tư pháp, nên đã thiếu quan tâm, chăm lo xây dựng về tổ chức đội ngũ cán bộ
và cơ sở vật chất của các cơ quan tư pháp ..................................................... 72
2.2.5.4. Về chính quyền địa phương và mối quan hệ pháp lý Trung ương - Địa
phương ......................................................................................................... 74
CHƢƠNG 3: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN ........ 75

3.1. Yêu cầu phải xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân ................................................................ 75
3.1.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam nhằm duy trì và phát huy bản
chất tốt đẹp của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đổi mới hoạt động của hệ thống

5


chính trị, đấu tranh có hiệu quả chống quan liêu, lãng phí, tham nhũng, làm
trong sạch bộ máy Đảng và Nhà nước .......................................................... 75
3.1.2. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa xuất phát
từ nhu cầu thúc đẩy mạnh mẽ cải cách kinh tế – xã hội, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế ........................................................................................................... 79
3.1.3. Tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do của con người, bảo vệ có hiệu
quả các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân .......................................... 82
3.2. Những giải pháp cơ bản để xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân .............................................. 86
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ........................................................... 87
3.2.2. Hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiến hành
đồng bộ với đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh ............................................................ 91
3.2.2.1.Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ............................................................................................................ 91
3.2.2.2. Đổi mới hoạt động của Quốc hội ..................................................... 93
3.2.2.3. Tiếp tục thực hiện cải cách nền hành chính Quốc gia ..................... 101
3.2.2.4. Tiếp tục cải cách tư pháp ............................................................... 107
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật .......................................................... 118
3.3.4. Đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống chính
trị ................................................................................................................ 120
3.3.5. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ
biến và kinh nghiệm thế giới về xây dựng Nhà nước pháp quyền để vận dụng
thích hợp trong điều kiện Việt Nam ............................................................ 124
KẾT LUẬN ............................................................................................... 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 130

6


LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một tất
yếu khách quan xuất phát từ định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội mà mục tiêu
cơ bản là xây dựng một chế độ : dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ và văn minh. Đảng và Nhà nước ta nhận thức sâu sắc được rằng : để đạt

được một chế độ xã hội như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN ; một Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam dựa trên
nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X đã khẳng định:
Nhiệm vụ, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phải phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá; xây dựng nền văn hoá thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội; xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân , vì
nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc
phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Thực tiễn của hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã khẳng định yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng như một xu thế khách
quan, tất yếu, mang tính quy luật của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội trong điều
kiện phát triển nền dân chủ chân chính của nhân dân, xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập và hợp tác kinh tế quốc
tế.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
của dân, do dân, vì dân; đưa yêu cầu đó lên thành nguyên tắc Hiến định (Điều 2
Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001) thể hiện sự thừa nhận và sự
kết hợp tính phổ biến của một giá trị lịch sử nhân loại với những nét đặc trưng,
những giá trị độc đáo của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
7


Những năm qua trong tiến trình đổi mới toàn diện từ kinh tế, đến hệ thống
chính trị mà trọng tâm là cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới hoạt động của
Quốc hội, cải cách hành chính, cải cách tư pháp chúng ta đã thu được nhiều kết
quả đáng mừng: Tăng trưởng về kinh tế; hệ thống chính trị đang được đổi mới
toàn diện; chất lượng, hiệu quả, hiệu lực hoạt động của bộ máy nhà nước từng

bước được cải thiện và nâng cao.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân là một nhiệm vụ mới mẻ vô cùng khó khăn, phức tạp. Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, vì dân, do dân phải có sự kết
hợp đúng đắn tính phổ biến và tính đặc thù của lý luận và thực tiễn về nhà nước
pháp quyền với sự phản ánh và quán triệt đầy đủ các yếu tố đó vào trong việc
thiết kế bộ máy nhà nước, vào trong các định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật ở nước ta.
Với mong muốn góp phần làm rõ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn
trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong giai đoạn cách
mạng hiện nay tôi chọn đề tài: " Xây dựng Nhà nước Pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân" làm luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề Nhà
nước pháp quyền, như: " Xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam"- Đào Trí Úc ( 2005)- Nhà xuất bản chính trị quốc gia; " Quốc hội Việt
Nam trong Nhà nước pháp quyền"- Nguyễn Đăng Dung ( 2007)- Nhà xuất bản
Đại học quốc gia Hà Nội; " Nhà nước Pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng"Nguyễn Văn Thảo( 2006)- Nhà xuất bản Tư pháp; " Quyền con người, quyền
công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam"- Trần Ngọc
Đường (2004)- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia; " Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân"- Phạm Ngọc Quang - Ngô Kim Lân ( 2007)Nhà xuất bản Chính trị quốc gia; " Học thuyết Nhà nước pháp quyền, một số vấn
đề trong lịch sử hình thành và phát triển"- Lê Cảm ( 2002)- Tạp chí nghiên cứu
8


lập pháp; "Cải cách Tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền"- Lê Cảm ( 2003)- Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia, kinh tế- luật;
"Tư tưởng Đông- Tây về nhà nước và pháp luật, những nhân tố Nhà nước pháp
quyền "- Hoàng Thị Kim Quế ( 2002)- Tạp chí nghiên cứu lập pháp; "Nhà nước

pháp quyền- một hình thức tổ chức nhà nước"- Nguyễn Đăng Dung ( 2001)- Tạp
chí nghiên cứu lập pháp; " Tính minh bạch của pháp luật- một thuộc tính của
Nhà nước pháp quyền"- Phạm Duy Nghĩa ( 2002)- Tạp chí dân chủ và pháp
luật…các công trình trên nghiên cứu nhà nước pháp quyền dưới nhiều góc độ
khác nhau, tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ về đề tài: " Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân".
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Phân tích và đánh giá thực trạng về xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay.
Đề xuất những quan điểm và giải pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn cách mạng
hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của triết học Mác
– Lênin, các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền , các quan điểm của Đảng và Nhà
nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Luận văn sử dụng
các phương pháp chủ yếu như: phân tích, tổng hợp, so sánh để tìm hiểu thực
trạng, xác định những ưu điểm và hạn chế trong quá trình xây dựng Nhà nước
Việt Nam XHCN, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài: "Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân" luận văn nhằm góp phần làm
9



sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay; đề xuất một số quan điểm, giải pháp cơ bản về xây
dựng hoàn chỉnh mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn
gồm có 3 chương được bố cục như sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về nhà nước pháp quyền việt nam xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân.
1.1. Khái quát chung về Nhà nước pháp quyền
1.2. Những quan điểm cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân
Chƣơng 2: Thực trạng về tình hình xây dựng nhà nước pháp quyền ở
nước ta.
2.1. Những thành tựu đã đạt được trong bước đầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
2.2. Những hạn chế, tồn tại.
Chƣơng 3: Những giải pháp cơ bản hoàn thiện nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
3.1. Yêu cầu phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân.
3.2. Những giải pháp cơ bản để xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
3.2.2. Hoàn thiện Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiến
hành đồng bộ với đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
3.3.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật.

10


3.3.4. Đổi mới hệ thống chính trị, thực hiện dân chủ hoá mọi mặt đời sống
chính trị.
3.3.5. Chủ động và tích cực hội nnhập quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các
giá trị phổ biến và kinh nghiệm thế giới về xây dựng Nhà nước pháp quyền để
vận dụng thích hợp trong điều kiện Việt Nam.

11


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN

1.1. Khái quát chung về Nhà nƣớc pháp quyền
1.1.1. Quan niệm về Nhà nƣớc pháp quyền trong lịch sử và những giá trị
hiện đại
1.1.1.1. Tƣ tƣởng về Nhà nƣớc pháp quyền trong thời kỳ cổ đại
Tư tưởng về Nhà nước, pháp luật và các hình thức tổ chức chính trị thực
tiễn ở phương Tây cổ đại gắn liền với quá trình tiến hóa của xã hội chiếm hữu
nô lệ và nền dân chủ Hy Lạp, La mã cổ đại qua các nền cộng hòa dân chủ ATen và La mã. Thời kỳ này các tư tưởng về dân chủ và pháp luật hình thành dựa
trên cơ sở phương pháp tư duy triết học mang đặc trưng là khám phá, tìm tòi cái
duy lý theo nhiều hướng mới phong phú và được thể nghiệm trong không khí
dân chủ phát triển đến trình độ tương đối cao. Những tư tưởng trên được hình
thành qua nhiều giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất (Thế kỷ (TK) VIII - V Trước công
nguyên (tr.CN) gắn sự hình thành của các Nhà nước và pháp luật; giai đoạn thứ
hai (TK V- nửa đầu TK IV tr.CN) gắn liền sự phát triển cao của các nhà nước;
giai đoạn thứ ba (nửa sau TK IV -TK II tr.CN) gắn liền với sự suy vong của Nhà

nước thành bang Hy Lạp cổ đại.
Trong thế kỷ thứ VI tr. CN đã có nhiều nhà tư tưởng thể hiện tư duy
của mình về vấn đề quyền lực- nhà nước- pháp luật như: Xôlông (638 - 559 tr.
CN) khi chủ trương cải cách triệt để Nhà nước thành bang Hy Lạp đã cho rằng,
quyền lực cần đặt ngang hàng với pháp luật và cả hai đều là phương tiện để đạt
tới tự do và công bằng. Xôlông xác định sẽ: "giải phóng tất cả mọi người bằng
quyền lực của pháp luật, bằng sự kết hợp sức mạnh với pháp luật". Trên thực tế
"Nhà nước đã đến cứu giúp nhân dân bằng một tổ chức cai quản do Xôlông áp
dụng. Có thể nói nền dân chủ được hình thành từ thời đại của Xôlông; Platon
(427 - 347 tr. CN) đã viết: "Tôi nhìn thấy sự sụp đổ nhanh chóng của Nhà nước
ở nơi nào pháp luật không có hiệu lực và nằm dưới quyền của một ai đó. Còn ở
12


nơi nào mà pháp luật đứng trên các nhà cầm quyền và các nhà cầm quyền chỉ là
những nô lệ của pháp luật thì ở đó tôi thấy có sự cứu thoát của Nhà nước". Ở
Platôn- ông còn có một định đề nổi tiếng: "Cầm quyền bởi một con người - đó là
chính quyền chuyên chế, bởi một bộ phận người tốt - đó là chính quyền quý tộc,
bởi những công dân tự do thành thị đó là dân chủ".[ 45, tr. 11]
Sự sụp đổ của nền dân chủ A - ten vào giữa thế kỷ thứ IV trước công
nguyên đã làm cho Aristote (384 - 322 tr. CN) đi đến kết luận mới về nhà nước.
Theo đó quyền lực Nhà nước hình thành một cách tự nhiên. Pháp luật là quy tắc
khách quan, chính trực và vô tư. Pháp luật chỉ tồn tại giữa các công dân bình
đẳng và tự do, nó phải được bổ sung và điều chỉnh theo yêu cầu của đời sống xã
hội. Hình thức Nhà nước thích hợp là hình thức, mà ở đó có sự phân biệt cần
thiết giữa ba loại quyền lực: Nghị viện, chấp hành và xét xử. Theo Aristote,
nguyên nhân chủ yếu làm cho nhà nước sụp đổ là sự quá bình đẳng hay quá bất
bình đẳng. Khi quyền lực nhà nước bị lạm dụng thì kẻ thống trị sợ mất quyền,
người bị trị sợ trừng phạt, người cai trị tàn ác và tham lam, người bị trị sát hại
lẫn nhau, tư cách người công dân là can đảm, tự do, cao thượng và chính nghĩa.

Do vậy Aristote khẳng định: pháp luật cần thống trị trên tất cả.
Lịch sử La mã cổ đại là lịch sử hình thành và củng cố Nhà nước về chế
độ chính trị của nó. Bộ luật La mã xuất hiện là một bước tiến bộ đánh dấu sự ra
đời của một Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và tạo điều kiện cho người
dân tham gia vào đời sống chính trị của đất nước đối với La mã cổ đại những
mầm mống tư tưởng và tổ chức chính trị - Nhà nước- liên quan đến Nhà nước
pháp quyền đã được tích lũy trong điều kiện phát triển cao nhất và sự sụp đổ
sau đó của chế độ dân chủ chủ nô. Hai đại biểu của trí tuệ La mã về Nhà nước
pháp quyền là Polybe và Xixelon
Polybe (201 - 120 tr.CN) là người La Mã đầu tiên nêu lên những tư tưởng
quan trọng về Nhà nước pháp quyền. Theo ông: "Không phải lý trí mà kinh
nghiệm đã dạy chúng ta rằng hình thức chính phủ hoàn hảo nhất là hình thức
được tạo nên từ ba chỉnh thể: Quân chủ, Quý tộc và Cộng hòa. Trong đó cơ
quan chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc về quý
13


tộc và cơ quan dân biểu (Hội đồng thuộc về nhân dân (chủ nô). Phân bố và giám
sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm một Nhà nước vững
mạnh và phát triển quốc gia La mã thành một đế quốc hùng mạnh.[32, tr. 246]
Xixeron (104- 43 TCN) thể hiện tư tưởng về sự thống trị của pháp luật
trong đời sống Nhà nước bằng cách đặt câu hỏi : "Nhà nước là gì nếu không
phải là trật tự chung", theo ông pháp luật là cội nguồn tạo ra chế độ Nhà nước.
Ông cho rằng: "Nhà nước là Nhà nước pháp quyền không phải do Nhà nước
tuân thủ pháp luật của mình mà là vì về cuội nguồn, về bản chất Nhà nước chính
là pháp luật, pháp luật tự nhiên của nhân dân". [45, tr. 11]
Các nhà tư tưởng trên phản ánh cuộc đấu tranh tư tưởng nhằm tìm ra hình
thức Nhà nước đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội, thoát khỏi vòng luẩn
quẩn của nền chính trị Hy Lạp, La Mã cổ đại là: Chế độ quân chủ bắt đầu từ
những ông vua có công khai quốc, sống vì nước vì dân, nhưng các thế hệ vua

sau đó lại đem đến đau khổ và bất hạnh cho người dân và sự lạc hậu cho đất
nước. Quyền lực của vua trở nên vô giới hạn. Tài năng và đức độ bị vùi dập, sự
phỉnh nịnh và vu cáo sinh sôi. Chế độ quân chủ cuối cùng lại trở thành chế độ
độc tài và thay thế nó là chế độ quý tộc trị. Chế độ quý tộc do một hội đồng có
chủ quyền tối thượng bao gồm những phần tử ưu tú nhất của một quốc gia nắm
giữ. Lúc đầu nó tập hợp được trí tuệ sáng suốt của những người ưu tú, tránh
được sự độc đoán chuyên quyền của vua chúa và sự hỗn loạn, dễ kích động của
''đám đông dân chúng kém hiểu biết''. Nhưng dần dần trong giới ưu tú xuất hiện
cá nhân hay nhóm nhỏ thâu tóm quyền hành và tàn sát lẫn nhau mưu lợi ích
riêng. Cuối cùng chế độ quý tộc cũng trở nên độc tài. Chế độ cộng hoà dân chủ
hình thành bằng con đường bốc thăm để trao những chức vụ công cộng cho
những ai có khả năng và uy tín trong nhân dân. Đây là chế độ chính trị - Nhà
nước tốt nhất, nhưng nguy cơ của nó là sự lạm dụng quyền lực công từ một số
người được dân uỷ nhiệm. Dân chủ trở thành Nhà nước có khả năng đáp ứng
yêu cầu phát triển của lịch sử. Nhưng do điều kiện kinh tế - xã hội và trình độ tổ
chức quản lý thấp, nên chế độ cộng hoà dân chủ thiếu những điều kiện vật chất
để tồn tại. Dân chủ là phương thức chế ngự sự lạm dụng quyền hành, nhưng lại
14


dễ trở thành công cụ của những kẻ mị dân nên không tránh khỏi thoái hoá và trở
lại chế độ quân chủ độc tài.
Hy Lạp và La Mã là những quốc gia phương Tây đã phát triển có tính điển
hình về chính trị, kinh tế và xã hội thời cổ đại. Tư duy về Nhà nước và pháp
quyền của người Hy Lạp và la Mã cổ đại thật phong phú và quan trọng đến mức
mà "không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã thì không có
Châu Âu hiện đại". Hay theo cách nói của Ph.Ănghen: không có dân chủ chủ nô
thì không có châu Âu hiện đại và không có chủ nghĩa xã hội hiện đại".
Qua các tư tưởng đã nêu ở trên, có thể đưa ra những nhận xét về các giá
trị của các tư tưởng thời cổ đại có liên quan đến vấn đề Nhà nước pháp quyền là:

Quyền hạn Nhà nước thuộc về dân. Dân là chủ thể của quyền lực Nhà nước, dù
khái niệm nhân dân có mang tính lịch sử. Những người cầm quyền dù họ là ai,
cũng không có quyền mà chỉ được ủy quyền. Người cầm quyền phải biết dựa
vào dân. Phương thức cai trị có hiệu quả nhất đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế,
thống nhất và mở rộng quốc gia, ổn định xã hội là kết hợp Nhà nước với Pháp
luật. Quyền lực Nhà nước phải được phân biệt, kiểm soát và hạn chế. Quyền lực
của nhân dân là thường xuyên và không giới hạn, quyền lực của Nhà nước và
người cầm quyền là không thường xuyên và có giới hạn. Những ý tưởng thời cổ
đại có liên quan đến Nhà nước pháp quyền thực sự có giá trị về mặt lý luận và
thực tiễn đối với quá trình phát triển tiếp theo của lịch sử nhân loại.
1.1.1.2. Tƣ tƣởng về Nhà nƣớc pháp quyền thời trung cổ và bƣớc chuyển
tiếp đến thời cận đại.
Thời kỳ trung cổ đã kéo dài hàng ngàn năm dưới ách thống trị của các chế
độ chuyên chế vương quyền và thần quyền đầy bạo lực và cường tín tôn giáo.
Sự tồn tại nhiều năm của các Nhà nước phong kiến ở phương Đông và ở Phương
Tây đã không hoặc ít biết đến pháp quyền; là một trong những nguyên nhân của
tình trạng kém phát triển kéo dài. Tuy nhiên, thời kỳ này ở phương Tây đã có
không ít những quan điểm, tư tưởng tiến bộ của các nhà tư tưởng, các thần học
góp phần bảo tồn và làm phong phú thêm những ý tưởng về Nhà nước pháp

15


quyền thời cổ đại. Những quan điểm tư tưởng ấy phải ẩn dấu trong các lớp vỏ
bọc tôn giáo.
Jeam Morange viết: "Cũng như Saint Thomaf đã cơ đốc giáo hóa triết học
Aristote, thì Saint Angustin đã cơ đốc giáo hóa triết học Platôn mà ông đã tu
dưỡng nó qua Xixeron".
Saint Augustin (357 - 430) giáo chủ Bắc phi cho rằng, quyền lực Nhà
nước phải được thực hiện như một thứ quyền lực phục vụ công bằng. Những

người cầm quyền phải đặt quyền uy vào sự phục vụ nhân dân; lấy công bằng
làm gốc, từ thiện làm ngọn; phải điều độ, dám hy sinh vì người khác và biết giới
hạn các khát vọng cá nhân. Việc thực thi quyền lực Nhà nước không chấp nhận
sự tầm thường về tri thức, sự yếu mềm về ý chí. Ngược lại, nó đòi hỏi tầm nhìn
xa trông rộng, óc phán đoán và tính cương nghị không thể lay chuyển. Sự sa sút
về phẩm chất và tư cách người cầm quyền là nguyên nhân chủ yếu làm sụp đổ
Nhà nước.
Tômát Đacanh (1225 - 1247) cho rằng trật tự pháp lý đem đến cho mỗi
người cái thuộc về họ và làm cho họ có thể đạt tới sự dồi dào về vật chất và tinh
thần. Xã hội công bằng trước sau sẽ thay thế xã hội thần dân, vì nó là sản phẩm
của lý trí chứ không phải là sản phẩm thuần túy bản năng.
Jean Bodon (1530 - 1596) Luật sư người Angieri là người sáng lập lý
thuyết về chủ quyền Nhà nước. Định nghĩa của ông về nguyên tắc pháp quyền
của Nhà nước là một nguyên tắc tiến bộ nhằm xác lập trật tự tối thiểu làm cơ sở
cho sự ra đời của một xã hội mới- xã hội tư sản. Theo ông Nhà nước nhân dân là
chế độ mà ở đó đa số nhân dân chỉ huy quyền tối thượng bằng tập thể và bằng cá
nhân. Đó là Nhà nước do đa số nhân dân cai trị.
1.1.1.3. Sự hình thành học thuyết Nhà nƣớc pháp quyền tƣ sản.
Nhà nước Tư sản ra đời từng bước thay thế Nhà nước phong kiến độc
đoán và chuyên quyền, tình trạng vô pháp luật, khẳng định mạnh mẽ những tư
tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do và bình đẳng của cá nhân, thừa nhận
những nguyên tắc quyền con người không thể bị tước đoạt, tìm tòi những cơ
cấu, hình thức và công cụ chống lại một cách không khoan nhượng sự tiếm
16


quyền và tình trạng vô trách nhiệm của quyền lực đó đối với cá nhân và xã hội.
Đây chính là nội dung chủ yếu của học thuyết Nhà nước pháp quyền tư sản, học
thuyết này ra đời và phát triển và ngày càng hoàn thiện và được thể hiện qua
các nhà tư tưởng vĩ đại thời kỳ này như:

John Locke (1632 - 1704) - Nhà triết học duy vật Anh đã đưa ra một
mô hình Nhà nước trong đó có sự ngự trị của pháp luật. Theo quan điểm của
ông, Nhà nước phải có pháp luật phù hợp với pháp luật tự nhiên, phải có tính tối
cao, các quyền tự nhiên và tự do cá nhân được ghi nhận, còn bộ máy Nhà nước
được tổ chức theo bốn bộ phận quyền lực: Lập pháp, hành pháp, bang giao đối
ngoại, và đặc quyền của vua. Ông đối lập Nhà nước, trong đó có sự ngự trị của
pháp luật với mọi biểu hiện phi pháp, tùy tiện của những người nắm quyền.
Theo J.Locke nguyên tắc cho phép làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm
"chỉ đúng khi áp dụng đối với công dân, còn đối với những người cầm quyền
phải áp dụng nguyên tắc ngược lại "chỉ làm những gì mà pháp luật cho
phép".[32, tr.. 308-309]
Montesquieu (1689 - 1755) Nhà triết học khai sáng Pháp, tác giả của
"Tinh thần pháp luật" (1748), khi đưa ra tư tưởng "Tam quyền phân lập" đã
luận giải về sự phân chia quyền lực Nhà nước. Theo ông phân quyền là nhằm
tránh sự lạm quyền, để các bộ phận quyền lực kiềm chế lẫn nhau. Sự phân chia
và kiềm chế giữa các quyền (các quyền đối lập và cân bằng nhau) là điều kiện
tiên quyết để bảo đảm tự do chính trị trong Nhà nước (tự do làm những gì mà
pháp luật cho phép, tự do thể hiện trong luật pháp). Theo Montesquieu mô hình
tối ưu là mỗi Nhà nước đều có ba quyền: Lập pháp - Hành pháp - Tư pháp.
Quyền lập pháp giao cho nghị viện, quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền
tư pháp giao cho tòa án. Ông cho rằng: "Khi quyền lập pháp và quyền hành pháp
nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão, thì sẽ không còn gì là tự
do nữa, vì rằng người ta sợ chính con người ấy hay một viện nguyên lão ấy chỉ
đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu
quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền
tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta không độc đoán đối với quyền
17


sống, quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật. [30, tr. 100101] Quyền tư pháp nhập với quyền hành pháp thì quan tòa có thể hành xử như

một kẻ áp bức". Sơ đồ phân quyền này không chấp nhận việc một cơ quan Nhà
nước đứng trên hoặc nắm trọn cả ba quyền "không một cơ quan nào vượt lên
những cơ quan kia và không một cơ quan có thể tước đoạt quyền cá nhân của
công dân". Tam quyền phân lập là nhằm dùng quyền lực kiểm soát và kiểm chế
quyền lực. Quyền lập pháp giao cho nghị viện có đại biểu của quý tộc phong
kiến và tư sản. quyền hành pháp giao cho vua, nhưng vua phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân mà đại biểu là giai cấp tư sản. Quyền tư pháp độc lập, được trao
cho cơ quan do dân cử và được bầu theo định kỳ. Tư tưởng phân quyền này thể
hiện tổ chức thoả hiệp giữa giai cấp tư sản đang lên nhưng còn non yếu và tầng
lớp quý tộc phong kiến lạc hậu, phản động nhưng vẫn còn thế lực, giai cấp tư
sản chưa giành được ưu thế trong tương quan lực lượng với giai cấp phong kiến,
quý tộc. Đó là lúc giai cấp tư sản cần tập hợp lực lượng từ các giai cấp xã hội
khác nhau và phân hoá giai cấp phong kiến quý tộc, tạo tiền đề cho cuộc cách
mạng tư sản - bà đỡ cho chế độ tư bản đang thai nghén. Tư tưởng tam quyền
phân lập của Montesquieu đã trở thành một trong những nội dung cơ bản của
học thuyết Nhà nước pháp quyền tư sản. [30, tr. 100-101]
Chỉ trong vòng một thế hệ kể từ khi Montesquieu cho ra đời tác phẩm bất
hủ của mình, tư tưởng lập hiến của phương Tây đã xuất hiện và các cuộc cách
mạng dân chủ đã nối tiếp nhau nổ ra. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn từ năm
1776 dến năm 1791, phần lớn những tư tưởng cơ bản về dân chủ ở phương Tây
đã được định hình.
Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ ngày 4-7-1776 quan niệm cơ
bản về quyền con người của cá nhân đã xuất hiện. Đối lập với quyền lực của chế
độ phong kiến độc đoán, quan liêu hay quân phiệt, người ta tin rằng, các cá nhân
có những quyền nhất định mà không một chính phủ hay cá nhân nào có thể tước
đoạt nếu không có lý do chính đáng, được xác lập theo một cơ chế công bằng,
hợp lý. Quan niệm về quyền cá nhân này về sau được gọi là quyền con người và
được Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ thể hiện một cách sinh động: Mọi người
18



sinh ra đều có quyền bình đẳng và trong số những quyền không thể tước đoạt đó
có quyền được sống, quyền tự do và quyền được mưu cầu hạnh phúc...[22, tr.13]
Bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ cũng đã thừa nhận quan điểm của
J. Lock về tính hợp pháp của chính phủ. Bản Tuyên ngôn viết: “ Chúng tôi tin
rằng con người do tạo hoá sinh ra và có những quyền không thể xâm phạm (. . . .
).

Để bảo vệ những quyền này, các chính phủ được thành lập trong số người

dân và quyền hạn của chính phủ xuất phát từ sự đồng thuận của những người
chịu sự kiểm soát của chính phủ”. Về sau, cả bản Tuyên ngôn về quyền con
người và quyền công dân của nước Pháp năm 1789 và Tuyên ngôn nhân quyền
của nước Mỹ năm 1791 đã trình bày một cách chính xác về quan niệm mà theo
đó các quyền con người của cá nhân phải được bảo vệ khỏi sự độc đoán của Nhà
nước theo những cơ chế thích hợp để ngăn Nhà nước lạm dụng quyền lực.
J. Rousseau (1712 - 1788) - Nhà triết học khai sáng Pháp đã kế thừa tư
tưởng của Montesquieu để xây dựng lý luận về thiết chế dân chủ và Nhà nước
pháp quyền. Trong Khế ước xã hội (1762 ) ông cho rằng, con người đến với xã
hội và Nhà nước không phải để mất đi quyền tự do vốn có của mình, mà để bảo
vệ và phát triển quyền tự do đó. Cần tìm ra hình thức liên kết giữa con người
với nhau để tạo ra sức mạnh chung và dùng sức mạnh đó để bảo vệ mọi thành
viên. "Khế ước xã hội" có thể hiểu là pháp luật và bộ máy Nhà nước do dân tạo
ra khi Nhà nước vi phạm "Khế ước xã hội" đã thỏa thuận thì nhân dân có quyền
thay thế bằng Nhà nước mới. Nhà nước là con người tập thể" thực hiện ý chí và
quyền lực chung. Công dân có trách nhiệm đối với Nhà nước như thế nào, thì
Nhà nước có trách nhiệm đối với công dân như vậy. [39, tr. 12-13, 17, 73]
I.Kantơ (1724 1804) - Nhà triết học học cổ điển Đức. Theo ông Nhà nước
là tập hợp của nhiều người cũng phục tùng các đạo luật pháp quyền " Công dân
của nền cộng hòa chân chính" chỉ có thể là "thực thể của tính độc lập công dân".

Con người tồn tại và sinh sống được là nhờ không phải sự tùy tiện của người
khác, mà nhờ chính các quyền và sức mạnh của bản thân. Hoạt động của mỗi
người đều hướng tới sự biểu hiện của tự do theo nghĩa tự do cho mình, cho
người khác và phù hợp với pháp luật chung. Mỗi người hành động tự do để cùng
19


tồn tại với tự do của những người khác. Nhờ ý chí chung mà con người tập hợp
thành Nhà nước. Ý chí chung đó là nguồn gốc của Nhà nước và pháp luật. Nhà
nước là sự liên kết của mọi người trong khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát và
bảo đảm bình đẳng của mọi công dân. Tự do của mọi người trong xã hội là điều
kiện "Phát triển mọi tư chất của tự nhiên chứa đựng trong nhân loại". Nhà nước
pháp quyền là cộng đồng của những người phục tùng pháp luật, cần phải ngăn
chặn sự lạm quyền của một hay một số người đối với người khác. Mọi hoạt
động của công dân và Nhà nước đều phải tuân thủ pháp luật. Công dân chỉ thực
hiện những đạo luật mà họ tán thành, chứ không phải bất cứ thứ luật lệ nào gán
ghép cho họ. Sự phân chia thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cần
thiết trong một Nhà nước, mỗi nhân dân vừa là chủ thể, vừa là khách thể của
quyền lực.[46, tr. 12-13]
Heghen (1770 - 1831) cho rằng: Pháp luật là sự thể hiện của tư tưởng tự
do. Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là " hiện thực của tự do" và là "tồn tại
thực tế của ý chí tự do". Trong xã hội, Nhà nước ở vị trí cao nhất và cao hơn cả
con người. Pháp quyền vừa là sự sáng tạo vừa là sản phẩm của Nhà nước. Sự
phân quyền trong Nhà nước là nhằm đảm bảo tự do công cộng, chống lạm
quyền, chuyên chế, vũ lực và phi pháp. Nhà nước là nền tảng của pháp quyền, là
pháp nhân cao nhất có quyền uy và sức mạnh chỉ huy toàn bộ xã hội. Nhà nước
là biểu hiện cao nhất của pháp luật cụ thể, biểu hiện cao nhất của tự do. Quan
điểm của Heghen về Nhà nước pháp quyền còn tập trung chống lại sự tùy tiện,
tình trạng vô pháp luật từ phía cá nhân v.v....[44, tr. 17]
Lý thuyết của Phichtơ (G. G. Fichte, 1762- 1814) - người kế tục sự nghiệp

của I. Cantơ quan niệm, Nhà nước pháp quyền là phương tiện để nhân loại thực
hiện sứ mệnh lịch sử tối cao của mình là tiến tới tự do tuyệt đối, cái tôi tuyệt đối.
Nhà nước và pháp quyền có nhiệm vụ quản lý và điều hoà sự phát triển của xã
hội. Chúng xuất hiện trên cơ sở khế ước xã hội giữa mọi người vì lợi ích chung
là hướng tới tự do. Nhà nước pháp quyền là công cụ để xây dựng một xã hội lý
tưởng bảo đảm các nhu cầu cơ bản của công dân.
Có thể nói, triết học cổ điển Đức nói riêng và triết học phương Tây cận
20


đại nói chung đã đặt cho mình nhiệm vụ giải thích tính hợp lý và tiến bộ của
Nhà nước và pháp quyền tư sản. Triết học đó đã "coi Nhà nước là một kết cấu vĩ
đại, trong đó tự do pháp lý, đạo đức và chính trị phải được thực hiện, hơn nữa,
khi tuân theo luật lệ của Nhà nước, mỗi công dân chỉ tuân theo luật lệ tự nhiên
của lý trí của mình". Học thuyết về Nhà nước pháp quyền tư sản hình thành thể
hiện nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống chế độ
phong kiến lạc hậu, vì một trật tự xã hội mới - xã hội tư bản. Đây là một trong
những nội dung quan trọng của các cuộc cách mạng được tiến hành trong Triết
học - cuộc cách mạng tư tưởng đi trước và chuẩn bị cho các cuộc cách mạng
chính trị- cách mạng tư sản trong hiện thực.
Sự phát triển của lý thuyết về Nhà nước pháp quyền tư sản thế kỷ XIX- XX:
Đầu thế kỷ XIX, học thuyết về Nhà nước pháp quyền tư sản lại được
nhiều nhà triết học Đức quan tâm nghiên cứu và bổ sung. Trong đó, R. F. Môn
(Robert Font Mohn) và K. T. Vancơ (Karl Teodor Valker) là người đầu tiên sử
dụng thuật ngữ Nhà nước pháp quyền (tiếng Đức là Rechtsstaat)- thuật ngữ đã
từng được lập luận trong triết học của I. Cantơ và Hêghen. Môn và Vancơ coi
tính tối cao của pháp luật là nguyên tắc hàng đầu của một Nhà nước pháp quyền.
Tính tối cao của pháp luật là thể hiện chủ quyền của nhân dân dưới hình thức
quyền lực của nghị viện. Tiêu chuẩn tiếp theo là sự bình đẳng của mọi công dân
trước pháp luật. Còn pháp luật chỉ thuần tuý là công cụ bảo vệ quyền tự do của

con người khỏi sự can thiệp từ bên ngoài. Theo Môn, trong ba cơ quan Nhà
nước thì cơ quan lập pháp ở vị trí cao nhất và không chịu sự kiểm soát từ phía
cơ quan tư pháp. Chỉ có cơ quan hành pháp mới chịu sự giám sát của cơ quan tư
pháp. Nhà nước pháp quyền trong tư tưởng của Môn là nhằm mục đích phát huy
tự do và năng lực của mỗi thành viên trong xã hội. Ph. Stan (L. F. Stein, 18151890), nhà hoạt động Nhà nước người Đức, về cơ bản ủng hộ các nội dung và
nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền như: sự ràng buộc của pháp luật đối với
Nhà nước, giới hạn phạm vi hoạt động của Nhà nước và mở rộng không gian tự
do cho hoạt động của công dân do pháp luật bảo vệ. Stan quan niệm Nhà nước
vừa là "hình thức", vừa là "vật chất". Với tư cách là "Nhà nước pháp quyền vật
21


chất" nó thực hiện những tiêu chuẩn nội dung của sự ngự trị của đạo đức. Với tư
cách là "Nhà nước pháp quyền hình thức" nó ngăn ngừa việc dùng bạo lực để
thực hiện những tiêu chuẩn đó. Tuy nhiên, Stan lại phủ định các hình thức phân
quyền, phân định rạch ròi giữa Nhà nước và xã hội cũng như chức năng kiểm tra
của pháp luật tự nhiên đối với pháp luật thực định. Quan điểm bảo thủ của Stan
phản ánh yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền trong giai đoạn phát triển mới
của chủ nghĩa tư bản và luận giải cho chính sách can thiệp ngày càng tăng của
Nhà nước tư sản vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Cuối thế kỷ XIX- đầu thế kỷ XX, vấn đề Nhà nước pháp quyền thu hút sự
chú ý của nhiều nhà lý luận và nhà chính trị ở các nước phương Tây. Đáng kể
nhất là các tác giả người Đức như Hécbơ (G. K. Herber), Laban (P. Laband), H.
Ellinec và Iering v. v. Hécbơ cho rằng Nhà nước là hình thức pháp quyền đối
với toàn bộ đời sống của nhân dân và là pháp nhân tối cao. Laban lại nhìn thấy ở
Nhà nước "một tổ chức pháp lý của nhân dân"và "sự nhân cách hoá có tính chất
pháp lý nhận thức của nhân dân. . ". H. Elinê (H. Ellinec, 1851- 1911), người
dẫn đầu lý luận về Nhà nước tự do cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cũng có
những bổ sung nhất định cho học thuyết về Nhà nước pháp quyền tư sản. Một số
tác giả khác như A. Đaisi (A. Daici) người Anh, A. Asmen (A. Esmen) người

Pháp, cũng có một số quan điểm mới có liên quan đến Nhà nước pháp quyền. A.
Asmen khẳng định Nhà nước là sự nhân cách hoá về mặt pháp lý của một dân
tộc. Các nhà tư tưởng trên theo quan điểm thực chứng pháp lý. Về lý thuyết họ
cho rằng cần phải tạo ra cấu trúc Nhà nước tự kiềm chế và bị ràng buộc bởi pháp
luật. Nhưng do không phân biệt các đạo luật với các văn bản dưới luật, nên họ
đã đi đến chỗ thừa nhận một Nhà nước tuỳ tiện ban phát hay thu hồi những
quyền tự do và dân chủ cho con người.
Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II (1945) cho đến những thập kỷ gần
đây, vấn đề Nhà nước pháp quyền lại được nghiên cứu ở nhiều nước phương Tây.
Các công trình nghiên cứu về Nhà nước đã được tiến hành ở Anh từ những năm
1970. Ở Pháp từ những năm 1980 đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về
Nhà nước pháp quyền. Có thể nêu các tác giả như Dominique Colas, Michel
22


Croizer, Blandine, Kriegel, v. v... Năm 1984 Pháp có Uỷ ban hiện đại hoá Nhà
nước do Tổng thống F. Mitterand đề nghị. Claude Nicolet viết: "Nhà nước hiện
đại đối với chúng ta, những người ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi thế kỷ ánh sáng và
bởi Hêghen, là một cấu trúc nghiêm ngặt của công pháp (droit public) với tư cách
là sự thể hiện quyền lợi chung". Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là từ
những bài học cay đắng của lịch sử, khi các Nhà nước phát xít và quân phiệt ở
Đức, Italia và Nhật Bản... từ bỏ những nguyên tắc sơ đẳng của Nhà nước pháp
quyền, coi "Nhà nước là tất cả" và "không thể chống lại" đã đưa nhân loại vào
cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử. Mặt khác, cấu trúc các Nhà nước tư
sản đương đại đang ngày càng xa rời các chuẩn mực của Nhà nước pháp quyền và
khó có thể giúp chủ nghĩa tư bản khắc phục thất bại của kinh tế tự do cạnh tranh
và các cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội. Nhà nước tư sản ngày càng trở nên
lạc hậu, "giới hạn pháp quyền tư sản" ngày càng trở nên chật hẹp trước yêu cầu
phát triển của chính chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn "hậu tư bản". Việc nghiên cứu
về Nhà nước pháp quyền ở các nước tư bản hiện nay là nhằm cải cách và hiện đại

hoá Nhà nước hiện có theo "tinh thần kinh doanh”. Giai cấp tư sản muốn có một
Nhà nước mà ở đó người dân nhiều lắm cũng chỉ được "chèo", chứ không được
"lái". Điều đó chứng tỏ sự tái ngộ của triết học phương Tây đối với vấn đề Nhà
nước pháp quyền đáp ứng sự thay đổi nhanh chóng của thời đại ở cuối thế kỷ XX
và trở thành vấn đề cơ bản của sự phát triển triết học - chính trị hiện đại.
Như vậy, với việc kế thừa những giá trị tư tưởng và kinh nghiệm thực tiễn
có liên quan đến Nhà nớc pháp quyền đã có trong lịch sử, các nhà tư tưởng tư
sản đã xây dựng nên học thuyết về Nhà nước pháp quyền dựa trên thế giới quan
pháp lý mới. Mặc dù với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng nhưng
những nội dung cơ bản và chung nhất của các học thuyết này là: Sự hiện diện
của chủ nghĩa lập hiến và coi đó là bằng chứng hữu hình về sự đồng thuận của
mọi người dân; Nhà nước phải tự đặt dưới pháp luật và không hành động độc
đoán; Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người và
quyền công dân; quyền lực Nhà nước được phân chia thành ba quyền: quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp và giao cho ba cơ quan Nhà nước tương ứng theo
23


nguyên tắc quyền lực giám sát và kiềm chế quyền lực. Mục đích của các học
thuyết về Nhà nước pháp quyền tư sản ở thời đầu của chúng là tấn công vào Nhà
nước phong kiến chuyên chế và độc tài, hợp pháp hoá sự thống trị của giai cấp
tư sản bằng việc thiết lập Nhà nước tư sản theo nguyên tắc giới hạn phạm vi
quyền lực của Nhà nước và mở rộng không gian tự do của công dân. Vai trò và
ý nghĩa lớn lao của các học thuyết tư sản về Nhà nước pháp quyền đã làm phong
phú và sâu sắc thêm những giá trị có tính phổ biến trong tư duy triết học- chính
trị của nhân loại về một hình thức Nhà nước đáp ứng yêu cầu vận động không
ngừng của xã hội. Bước chuyển biến lớn lao trong tư duy nhân loại về Nhà nước
pháp quyền ở các thế kỷ XVII - XVIII là sự chuẩn bị cho một cuộc cách mạng
trong hiện thực - cách mạng tư sản. Trong thực tế, học thuyết về Nhà nước pháp
quyền đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của giai cấp tư sản trong việc tập hợp quần

chúng nhân dân đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến bảo thủ trì trệ.
1.1.2. Nhân tố Nhà nƣớc pháp quyền trong lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Việt Nam
1.1.2.1. Nhân tố nhà nƣớc pháp quyền trong các triều đại phong kiến
Các tổ chức Nhà nước và các định chế pháp luật của các triều đại trước
đây đều xuất phát từ ý niệm cơ bản, Vua là người của Trời, nhận mệnh lệnh của
Trời để trị nước an dân - Vua tự coi mình là Thiên tử, tức là con trười. Người
nào lên ngôi Vua, được coi là thừa lệnh trời, đều xưng hiệu Hoàng đế.
Từ Đinh Bộ Lĩnh (968) xưng hiệu là Tiên hoàng đế đến Lê Đại Hành
(980) xưng hiệu là Lê Đại Hành Hoàng đế, Lý Công Uẩn (1010) xưng Thuận
Thiên Hoàng đế, Trần Cảnh - Vua đầu tiên của các triều đại vua Trần, xưng
danh Kiên Trung Hoàng đế, đến Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Nguyễn ánh đều xưng
hiệu Hoàng đế.[45, tr. 33]
Đặc điểm của các quyền hành Hoàng đế, xét trên sự phân tích của các
nhân tố Nhà nước Pháp quyền cho thấy nhà Vua có quyền hành hết sức rộng và
tuyệt đối nhưng vẫn có một cơ chế hạn chế vương quyền.
Nhà vua nắm trong tay cả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp: Chỉ có
Vua mới có quyền đặt ra pháp luật, Vua ra các đạo dụ (Luật); Vua là người đứng
24


đầu nền hành chính, có quyền bổ nhiệm, điều động, thăng thưởng, bãi chức các
quan trong triều và quan chức địa phương; Vua là vị thẩm phán cao nhất, quyết
định tối hậu về các vụ án hình sự cũng như dân sự.
Ngoài những quyền lực đó, nhà Vua còn có những ưu quyền tuyệt đối,
xem dân như con cái, Vua có quyền sinh sát đối với hết thảy mọi người, gặp
Vua phải phục xuống bên vệ đường, ý của Vua là thánh ý, lệnh của Vua là thánh
chỉ, dấu ấn của Vua gọi là ngọc tỷ, nơi Vua ở là Cung cấm, y phục của vua mầu
vàng không ai được dùng màu đó.
Sự hạn chế vương quyền được đánh giá là những nhân tố Nhà nước pháp

quyền của các Triều đại phong kiến ở nước ta chỉ là một cách đánh giá tương
đối so với trình độ phát triển bộ máy Nhà nước của của giai đoạn lịch sử đó,
gồm các nhân tố như:
Thứ nhất, mặc dù có một ưu quyền tuyệt đối, vua vẫn phải cai trị bằng
một nền tư tưởng "Nho giáo" vẫn bị những khuôn phép triết lý đó điều khiển
hành vi cai trị của mình: "Phải thích cái dân thích, phải ghét cái dân ghét, thế
mới được gọi là cha mẹ của dân"; "Trời thương dân, dân muốn gì trời cũng
theo". Nhà Vua không được làm điều gì trái với ý dân, ý dân là ý trời, trái mệnh
trời thì không còn xứng đáng làm Hoàng đế. Nếu không làm đúng như vậy, nhà
Vua sẽ mang tiếng là bạo chúa, hôn quân.
Ảnh hưởng của Nho giáo dẫn đến chính sách thân dân của các Hoàng đế
Việt Nam đã hạn chế khá nhiều mức chuyên chế độc tài của vương quyền. Do
đó, ở nước ta những vị vua thấm nhuần tinh thần nhân ái, lấy dân làm gốc như
Lý Thánh Tông (1054-1071) nhiều hơn các Vua tàn ác và bạo ngược như Lê
Long Đĩnh (1005-1009). Chế độ đinh nghị trong nhiều triều đại cho thấy nhà
Vua phải họp với các quan văn võ trong triều để bàn xét việc nước, người dự
họp có thể có ý kiến khác với Vua đều được thẳng thắn nói ý kiến của mình.
Vua Trần Nhân Tông đã mời các bô lão đến Điện Biên Hồng để hỏi ý kiến.
Thứ hai, cách tổ chức chính quyền ở cấp Trung ương đã dần dần phát
triển, hình thành những tổ chức và định chế can ngăn Vua, giúp Vua có thể
sáng suốt hơn khi ra quyết định, có nhiệm vụ giám sát các quan chức, các cơ
25


quan cấp cao của triều đình và một cơ chế kiểm soát của triều đình đối với
các hoạt động hành chính ở các cấp chính quyền địa phương.
Trong thời Lý khi Lý Công Uẩn lên ngôi (1010) đã lập ra chức Tả hữu
Giám Nghị Đại phu, có nhiệm vụ can giám nhà Vua và xem xét các quan đại
thần có lỗi.
Thời đại các Vua nhà Trần còn thiết lập Ngự sử nước khi có lỗi hoặc bị

người dân khiếu nại.
Dưới Triều Lê, thành lập đầy đủ Lục Bộ: Bộ Đinh, bộ Hộ, bộ Hình, bộ
Lại, bộ Công, bộ Lễ còn đặt thêm Lục khoa để giám sát công việc của Lục Bộ.
Các Vua nhà Nguyễn lập ra Hội đồng Đình thần như là một cơ quan hành
pháp tối cao, lập Đô sát viên để xem xét, buộc tội các quan đại thần, các hoàng
thân, các quan lại địa phương.
Cách tổ chức các cơ quan kể trên, mặc dù còn thô sơ, tài liệu lịch sử để lại
không nhiều nhưng trong bộ máy Nhà nước phong kiến Việt Nam đã hình thành
một cơ chế kiểm soát quyền lực, hạn chế quyền lực, cơ quan này có quyền giám
sát, hạn chế cơ quan kia, chức quan này có quyền giám sát, hạn chế chức quan
khác.
Thứ ba, các biện pháp kiểm soát hoạt động hành chính địa phương khá
phong phú, đặc biệt là các biện pháp kiểm soát của triều đình đối với các
làng, xã nhằm thực hiện phép nước.
Chế độ làng xã tự trị ở Việt Nam là một chế độ truyền thống, mỗi làng có
phong tục tập quán riêng, có cách thức điều hành công việc trong làng, xã riêng triều
đình rất khó can thiệp. Phép vua thua lệ làng là câu nói cửa miệng của nhân dân.
Phải tôn trọng chế độ tự trị đó, nhưng cũng phải thống nhất thi hành phép
nước, nhà Vua đã đặt ra nhiều định chế nhằm kiểm tra các hành vi hành chính
của các quan chức làng xã.
Cơ quan chấp hành xã do toàn dân trong xã bầu ra gồm lý trưởng, phó lý,
trương tuần phải được quan đầu tỉnh duyệt y mới hợp lệ. Duyệt y dưới hình thức
bổ nhiệm là một kiểm soát của triều đình.

26


×