Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Tòa án trong nhà nước pháp quyền : Luận văn ThS. Luật: 60 38 01

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (853.71 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CHU THỊ NGỌC

Tòa án trong nhà nƣớc pháp quyền

LUẬN VĂN THẠC SỸ

HÀ NỘI, 2008


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU
Chương 1: NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ CÁC YÊU CẦU ĐỐI
VỚI TÒA ÁN TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1.

Khái niệm và đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền

1.1.1.

Khái niệm Nhà nước pháp quyền

1.1.2.


Các đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền

1.1.2.1.

Nhà nước pháp quyền là một nhà nước dân chủ, được thành lập một
cách chính đáng, hợp hiến, hợp pháp

1.1.2.2.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước bị giới hạn quyền lực

1.1.2.3.

Nhà nước pháp quyền đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật

1.1.2.4.

Nhà nước pháp quyền là nhà nước có nhánh quyền lực tư pháp độc lập

1.2.

Tư pháp trong nhà nước pháp quyền

1.2.1.

Khái niệm tư pháp

1.2.2.

Đặc điểm của Tòa án trong nhà nước pháp quyền


1


1.2.2.1.

So với hai ngành quyền lực còn lại, Tòa án là một ngành quyền lực ít
có nguy cơ lạm dụng quyền lực nhất trong việc xâm phạm đến quyền
và lợi ích của công dân

1.2.2.2.

Tòa án là thiết chế có khả năng nhất bảo đảm cho pháp luật được thực
hiện, bảo vệ công lý, bảo vệ nhân quyền

1.2.2.3.

Tòa án là thiết chế có quyền tài phán đối với mọi hành vi phạm pháp
và mọi tranh chấp phát sinh trong xã hội, đặc biệt Tòa án là cơ quan
duy nhất có quyền phán quyết ai là người có tội và phải chịu các chế
tài hình phạt, mọi phán quyết của Tòa án có tính cưỡng chế, bắt buộc
thi hành

1.3.

Các yêu cầu đối với Tòa án trong Nhà nước pháp quyền

1.3.1.

Tòa án trong Nhà nước pháp quyền phải là thiết chế độc lập thực sự


1.3.2.

Tòa án phải có khả năng giới hạn hai cành quyền lực lập pháp và hành
pháp trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật

1.3.3.

Tòa án phải đảm bảo các quyền và tự do của con người, là hiện thân
của công lý để giải quyết mọi tranh chấp dù là tranh chấp chính trị hay
tranh chấp dân sự
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TÒA ÁN VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.

Lịch sử hình thành và pháp triển của Hệ thống Tòa án Việt Nam

2.2.

Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án Việt Nam từ 1992 đến nay

2.2.1.

Về tổ chức Tòa án

2.2.2.

Về hoạt động xét xử của Tòa án


2.2.2.1.

Số lượng vụ án đã xét xử

2.2.2.2.

Chất lượng hoạt động xét xử

2.2.2.3.

Những yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của Tòa án

2


Chương 3: CẢI CÁCH TÒA ÁN VIỆT NAM THEO YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA
3.1.

Vai trò và quan điểm về cải cách tư pháp ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

3.2.

Một số kiến nghị về việc cải cách tư pháp trong bối cảnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


3


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1.

Tỷ lệ xét xử các loại án ở Tòa án nhân dân các cấp

4

Trang


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Chu Thị Ngọc

5



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước pháp quyền là một giá trị văn hóa pháp lý mà nhân loại đã và
đang tìm kiếm, xây dựng, phát triển trong quá trình đấu tranh không ngừng vì
nền dân chủ, vì lợi ích và tự do cơ bản của con người. Đó là một mô hình tổ chức
nhà nước chống lại sự lạm quyền, tùy tiện của công quyền để bảo vệ con người.
Nhà nước pháp quyền yêu cầu chính quyền phải chịu sự kiểm soát của pháp luật,
mà pháp luật phải xuất phát từ quyền tự nhiên của con người. Một khi vai trò của
pháp luật được đề cao thì vai trò của hoạt động xét xử tư pháp cũng được coi là
yếu tố hết sức quan trọng trong việc giúp tư tưởng pháp quyền trở thành hiện
thực hơn. Do vậy, bất cứ nhà nước nào muốn xây dựng Nhà nước pháp quyền
cũng đều phải quan tâm đến thiết chế Tòa án.
Ở Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập chính quyền, Đảng ta đã chú trọng
ngay đến việc củng cố, hoàn thiện hệ thống tòa án nhân dân để giải quyết các
tranh chấp, vi phạm phát sinh trong đời sống xã hội. Năm 2000, Hiến pháp 1992
được sửa đổi, bổ sung với nhiều quy định mới, trong đó, quy định mang tính
nguyên tắc của Hiến pháp về việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta đã đặt ra nhiều nhiệm vụ, yêu cầu đổi
mới tổng thể hệ thống chính trị, cũng như tính chất và hoạt động của Bộ máy nhà
nước nhằm đáp ứng các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền.
Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, chúng ta cần
phải đẩy mạnh cải cách tư pháp. Cùng với việc khẳng định mục tiêu xây dựng
Nhà nước pháp quyền trong Hiến pháp 1992, hiện nay chúng ta cũng đang tiến
hành chủ trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002
của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời
6



gian tới” và Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Điều đó cho thấy một khi đã quyết tâm
xây dựng Nhà nước pháp quyền thì không thể không cải cách tư pháp.
Từ khi có chủ trương đẩy mạnh cải cách tư pháp, giới khoa học pháp lý đã
thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề này. Tuy nhiên thực tế cho thấy, mặc dù
vấn đề cải cách Bộ máy nhà nước đã được đề cập từ lâu nhưng so với cải cách
trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp thì cải cách tư pháp ở nước ta vẫn còn diễn ra
rất chậm, kết quả đạt được còn hạn chế, nhiều vấn đề chưa được thể chế hóa
thành luật. Tình hình này có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do vấn
đề lý luận về cải cách tư pháp chưa được giải quyết triệt để.
Nhận thức được tầm quan trọng của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền và
xuất phát từ những yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta, việc nghiên cứu đề tài “Tòa án trong Nhà
nước pháp quyền” là rất cần thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi đổi mới đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về tổ chức và
hoạt động của hệ thống tư pháp Việt Nam cũng như kinh nghiệm của các nước
trên thế giới, như đề tài cấp nhà nước do TS. Uông Chu Lưu làm chủ nhiệm hoàn
thành năm 2006 “Cải cách cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ tục tư
pháp, nâng cao hiệu lực xét xử của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” ; luận án tiến sĩ luật học của TS. Đỗ Thị
Ngọc Tuyết “Cải cách hệ thống Tòa án Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”; luận văn thạc sỹ của Đặng Công Cường
“Vai trò của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”...
Tư pháp và vai trò của tư pháp trong Nhà nước pháp quyền còn trở thành đề tài
hội thảo khoa học của các cơ sở đào tạo luật như Viện nghiên cứu Nhà nước và
7


pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật – ĐHQGHN... và được xuất

bản thành kỷ yếu, sách chuyên khảo, như “Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong
giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” do PGS.TSKH. Lê Cảm và TS.
Nguyễn Ngọc Chí – Khoa Luật đồng chủ biên. Ngoài ra, có nhiều bài viết, ấn
phẩm khoa học pháp lý, sách, tạp chí, báo... đã được xuất bản có nội dung đề cập
đến Tòa án từ nhiều góc độ khác nhau.
Các công trình khoa học này đã góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận và
thực tiễn về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan tư pháp
nước ta. Tuy nhiên, mỗi công trình nghiên cứu dưới những khía cạnh cụ thể khác
nhau của đề tài như về vai trò Tòa án; về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ
thống Tòa án Việt Nam; về hệ thống các cơ quan tư pháp Việt Nam... Vì vậy, để
góp phần vào quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề tài về Tòa án vẫn phải tiếp tục được
nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau nhằm giải quyết một cách đầy đủ, toàn
diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của Tòa án trong
Nhà nước pháp quyền.
3. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, đặc trưng của Nhà nước pháp quyền và vai trò, vị trí
của Tòa án trong Nhà nước pháp quyền, từ đó phân tích các yêu cầu đối với Tòa
án trong Nhà nước pháp quyền; cách thức tổ chức và hoạt động của Tòa án để
đáp ứng được các yêu cầu đó.
- Trên cơ sở đó, luận văn phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ
thống Tòa án Việt Nam hiện nay và rút ra kiến nghị cải cách hệ thống Tòa án
Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
4. Phạm vi nghiên cứu
8


Luận văn phân tích các yêu cầu đối với Tòa án trong Nhà nước pháp quyền
và cách thức tổ chức, hoạt động của hệ thống Tòa án nhằm đem đến khả năng

đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn vận dụng tổng thể các phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử;
- Luận văn coi trọng phương pháp phân tích thực tiễn kết hợp với phương
pháp so sánh và phân tích tổng hợp;
- Luận văn sử dụng rộng rãi phương pháp xã hội hóa, coi trọng ý kiến của
các nhà chuyên môn, các nhà khoa học...
6. Những điểm mới của luận văn
- Luận văn phân tích các yêu cầu (tiêu chí) đối với Tòa án trong Nhà nước
pháp quyền; cách thức tổ chức và hoạt động của Tòa án để đáp ứng được các yêu
cầu đó.
- Trên cơ sở đó, luận văn kiến giải các giải pháp cải cách tổ chức và hoạt
động của Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền trên
thế giới nói chung và phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu
thành 3 chương:
Chương 1: Nhà nước pháp quyền và các yêu cầu đối với Tòa án trong Nhà
nước pháp quyền.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Tòa án Việt Nam hiện nay

9


Chương3: Cải cách Tòa án Việt Nam theo yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa

10



Chương 1
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN VÀ CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI TÒA ÁN
TRONG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƢNG CƠ BẢN CỦA NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
1.1.1. Khái niệm Nhà nƣớc pháp quyền
Nhà nước pháp quyền được coi là mô hình tổ chức nhà nước lý tưởng nhất
của mọi thời đại, một giá trị xã hội được tích lũy và phát triển trong lịch sử nhân
loại. Tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền đã xuất hiện từ thời cổ đại mà đại
diện tiêu biểu là các nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại như Salon, Platon, Aristot,
Xixeron... Học thuyết Nhà nước pháp quyền được các nhà tư tưởng chính trị pháp lý sau này tiếp tục phát triển, hoàn thiện. Cho đến ngày nay, đang tồn tại
quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền tư sản và quan điểm xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Dù quan điểm nào thì mục đích hướng tới
chủ yếu của nhà nước pháp quyền chính là quyền con người.
Về khái niệm “Nhà nước pháp quyền” có nhiều cách tiếp cận, nhận thức
khác nhau, cụ thể có người nhấn mạnh yếu tố nhân quyền, tính tối cao của Hiến
pháp, pháp luật, có người nhấn mạnh yếu tố phân chia quyền lực nhà nước và sự
hạn chế quyền lực nhà nước, có người nhấn mạnh tính dân chủ, quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân… Trong tổng thể những quan điểm trên, chúng ta thấy
yếu tố có vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo đảm các yêu cầu của Nhà
nước pháp quyền chính là thiết chế Tòa án. Bởi vì, mục đích cao nhất của Nhà
nước pháp quyền là bảo vệ con người, tránh mọi sự lạm dụng quyền lực nhà
nước mà vi phạm quyền lợi của người khác. Tòa án chính là thành trì cuối cùng
để thực hiện mục đích đó [26, tr.610].
Song cũng có quan điểm cho rằng Nhà nước pháp quyền là nhà nước phải
có nền tư pháp hoạt động độc lập, nếu như hoạt động tư pháp không độc lập thì

11



mặc dù có một số dấu hiệu được xác định là hiện hữu trong nhà nước, chẳng hạn
như có các tòa án, có hệ thống pháp luật, thậm chí là có bầu cử, tự do… thì nhà
nước đó vẫn sẽ không phải thực sự là Nhà nước pháp quyền [56, tr.34].
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng chính trị - pháp lý phức tạp, rộng
lớn không ngừng phát triển theo thời gian, theo những đòi hỏi tất yếu của quy
luật phát triển xã hội. Do vậy nếu đưa ra một khái niệm theo kiểu liệt kê các đặc
trưng của nhà nước pháp quyền thì e rằng khó có thể có được một định nghĩa bao
quát hết nội hàm khái niệm nhà nước pháp quyền.Vì vậy để xây dựng được khái
niệm nhà nước pháp quyền thì nên xác định vấn đề cốt lõi nhất, căn bản nhất của
nhà nước pháp quyền đặt ra là gì và phương thức thực hiện để đạt được vấn đề
đó. Trong tiếng Anh, không có thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” mà chỉ có
thuật ngữ “pháp quyền” (The rule of law), thuật ngữ này được hiểu vấn đề cốt lõi
của pháp quyền là pháp luật về quyền. Pháp luật phân định và bảo vệ các quyền:
Quyền của công dân và quyền của nhà nước; quyền của các nhánh quyền lực nhà
nước như lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong tiếng Pháp, thuật ngữ Nhà nước pháp quyền “Etat de droit” được
hiểu là “Nhà nước của quyền hay nói một cách khác quan hệ xã hội được xây
dựng trên cơ sở các quyền: quyền của chủ thể này là nghĩa vụ của các chủ thể
khác, pháp luật điều chỉnh và phân định các quyền này” [32].
Như vậy, ngay trong bản thân thuật ngữ “pháp quyền” đã thể hiện rất rõ
vấn đề cốt lõi của khái niệm: Pháp luật về quyền. Quyền ở đây được hiểu là
quyền của mọi thành viên trong xã hội, quyền không chỉ của đa số, số đông mà
còn là quyền của thiểu số, quyền không chỉ của nhà nước mà còn là của tư
nhân….Những quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Hiến
pháp và pháp luật không phải chỉ là ý chí của nhà nước mà còn là ý chí của mọi
thành viên trong xã hội. Nhà nước pháp quyền là nhà nước có vai trò, nghĩa vụ tổ
chức quyền lực và vận hành xã hội sao cho bảo đảm tất cả những quyền trên
12



được thực hiện. Trên cơ sở cách tiếp cận này, hiện nay có nhiều quan điểm đưa
ra khái niệm nhà nước pháp quyền tương đối gần nhau:
Theo giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Khoa Luật
trực thuộc ĐHQGHN thì Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà
nước với sự phân công lao động khoa học, hợp lý giữa các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp, có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhà nước được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở pháp luật, nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, pháp luật có
tính khách quan, nhân đạo, công bằng, tất cả vì lợi ích chính đáng của con người
[43, tr.174]. Tuy khái niệm này đã đề cập đến phương thức tổ chức quyền lực
Nhà nước và nhấn mạnh yếu tố pháp luật nhưng yếu tố “quyền” chưa thể hiện
một cách rõ nét.
Theo TS. Ngô Huy Cương, khác với pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhà nước
pháp quyền là một khái niệm chính trị - pháp lý đòi hỏi phải tuân thủ luật tự
nhiên và thiết lập một cơ chế nhằm bảo vệ các quyền tự nhiên của con người [25,
tr.64]. Nhà nước pháp quyền là nhà nước dân chủ đối lập hoàn toàn với nhà nước
pháp trị, chuyên chế độc tài. Trong nhà nước pháp quyền, người ta đề cao luật tự
nhiên và phản ánh nó vào Hiến pháp, đồng thời phân chia quyền lực để kiềm chế
chính quyền, bảo vệ con người.
Tóm lại, khái niệm nhà nước pháp quyền vừa phải đảm bảo được tính tổng
quát, chặt chẽ rõ ràng vừa phải đảm bảo đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng chủ yếu
thể hiện rõ các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận chung của Nhà nước pháp
quyền. Trên cơ sở này, tác giả cho rằng khái niệm Nhà nước pháp quyền có thể
được đưa ra như sau: Nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và vận
hành xã hội trên cơ sở các quyền. Các quyền này được phân định và tổ chức sao
cho sự lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ, quyền tự nhiên của
người dân được bảo vệ. Hiến pháp, pháp luật có tính tối cao và là các công cụ
quan trọng nhất để xác lập và phân định các quyền. Hiến pháp, pháp luật được
13



xây dựng trên nền tảng các tư tưởng pháp lý tiến bộ của nhân loại nhằm đảm
bảo thực sự những giá trị xã hội được thừa nhận chung của nền văn minh thế
giới: công bằng, nhân đạo, dân chủ, pháp chế. Trong đó, Hiến pháp được coi là
linh hồn của nhà nước pháp quyền và là bản khế ước xã hội quan trọng nhất.
Đây là khái niệm thể hiện tương đối rõ và đầy đủ các đặc trưng cơ bản nhất của
Nhà nước pháp quyền. Khái niệm không chỉ nêu lên các quyền nói chung mà còn
phân định rõ quyền của nhà nước và quyền của công dân. Quyền của nhà nước
thì phải “xác lập và phân định” sao cho tránh được sự lạm dụng quyền lực nhà
nước, còn quyền tự do, dân chủ, quyền tự nhiên của con người thì phải được bảo
vệ. Những quyền này được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Đặc biệt,
Hiến pháp - bản văn thể hiện ý chí của mọi thành viên trong xã hội được coi là
linh hồn của Nhà nước pháp quyền, nó được coi là bản khế ước quan trọng nhất
giữa nhà nước và công dân.
1.1.2. Các đặc trƣng cơ bản của nhà nƣớc pháp quyền
Nhà nước pháp quyền có nội hàm rộng lớn, bao gồm các thành tố cơ bản
có mối liên hệ biện chứng, thống nhất hữu cơ, tác động lẫn nhau, vừa là cơ sở,
vừa là điều kiện, động lực của nhau: Nhà nước – pháp luật – xã hội – công dân –
tự do dân chủ. Dù còn nhiều quan điểm khác nhau, nhưng xét một cách phổ quát
và đã được thừa nhận chung thì Nhà nước pháp quyền có những đặc trưng cơ
bản sau:
1.1.2.1. Nhà nước pháp quyền là một nhà nước dân chủ, được thành lập
một cách chính đáng, hợp hiến, hợp pháp
Trước hết, cần tìm hiểu quyền lực nhà nước bắt nguồn từ đâu và quyền lực
nhà nước là của ai. Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, đã từng có quan điểm cho
rằng quyền lực nhà nước bắt nguồn từ một lực lượng siêu nhân (chúa trời), nó
được trao cho vua thay trời trị vì hạ giới và chăn dắt dân lành. Quyền lực nhà
nước là tài sản riêng của Vua và tồn tại vĩnh viễn như một thiên mệnh. Quyền
14



lực nhà nước là từ bên trên, bên ngoài nhân dân. Quyền lực cá nhân và hoàng tộc
là cái chi phối vua chứ không phải quyền lực của nhân dân.
Có quan điểm cho rằng quyền lực nhà nước bắt nguồn từ đạo đức hay từ
lý trí tối cao áp đặt cho con người và xã hội, quyền lực nhà nước thuộc về một
hay một nhóm người trong xã hội. Những người cai trị này tự cho mình là những
bậc tài trí, anh minh hơn người, thuộc một đẳng cấp khác với mọi công dân khác
trong xã hội nên có quyền được đứng trên mọi người.
Ngược lại, có quan điểm cho rằng quyền lực nhà nước là của nhân dân, chỉ
có nhân dân mới là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực đó. Chỉ có nhân
dân với ý chí chung của mình liên hiệp lại và lập nên nhà nước. Tính cách mạng
của quan điểm này là nhân dân có quyền lựa chọn nhà nước, lựa chọn các đại
biểu của mình tham gia công việc của nhà nước. Thực hiện khế ước xã hội là
phương thức mới tạo lập nên nhà nước. Khi nhà nước không đáp ứng được yêu
cầu của nhân dân, thì nhân dân có quyền thay thế nhà nước ấy bằng một nhà
nước khác. Nhà nước pháp quyền là nhà nước dân chủ, trong đó mỗi thành viên
đều đạt được mục đích sống của mình và được bảo vệ chắc chắn nhất. Nói một
cách khác, trong nhà nước pháp quyền, nhân dân đều có quyền quyết định, tham
gia một cách thực chất vào quy trình ra quyết định hay thiết kế chính sách của
nhà nước.
Khái niệm dân chủ tuy xuất hiện rất sớm từ thời Hy Lạp cổ đại, nhưng nó
là một thứ dân chủ còn rất nhiều khiếm khuyết. Đó là nền dân chủ Hy Lạp được
tạo ra bởi các thành bang với số dân cư ít, nền dân chủ La Mã cổ đại mà đại diện
là những tầng lớp giàu có, dựa chủ yếu vào chế độ nô lệ và cướp bóc thuộc địa.
Sau cuộc cách mạng Tư sản, xuất hiện nền dân chủ tư sản và dân chủ XHCN.
Tuy nhiên, trên thực tế đó mới chỉ là nền dân chủ hạn chế, hình thức. Để có một
nền dân chủ thực sự, lâu nay người ta vẫn đang mải miết tìm ra các cơ chế bảo

15



đảm thực hiện. Trong đó, vấn đề cốt lõi chính là vấn đề tổ chức quyền lực nhà
nước.
Nhà nước là rất cần thiết cho cuộc sống của con người. Cho đến nay và
tương lai sau này, con người không thể sống thiếu Nhà nước. Nếu không có nhà
nước, con người rơi vào trạng thái hỗn loạn “cuộc chiến con người chống lại con
người”. Vì mục đích an toàn hơn, con người phải thành lập ra Nhà nước, trao
quyền tự do của mình cho nhà nước để nhận được sự an toàn và mệnh lệnh từ
nhà nước [26, tr.21]. Nhưng Nhà nước phải được thành lập một cách hợp hiến,
hợp pháp. Bởi quyền lực nhà nước dù thuộc về nhân dân, nhưng không có nghĩa
mọi việc đều do nhân dân trực tiếp thực hiện. Trong một xã hội đông dân cư, có
cơ cấu phức tạp, đa sắc tộc với một nền kinh tế lớn, phát triển hoặc quan hệ quốc
tế đa dạng, cần phải có các quyết định nhanh chóng, kịp thời, xác đáng và bảo
đảm được lợi ích của cá nhân và thiểu số, việc cai trị trực tiếp của nhân dân là rất
khó thực hiện [25, tr.26]. Do đó, tuy quyền lực vẫn thuộc về nhân dân nhưng
nhân dân có thể ủy quyền cho các đại diện của mình trong chính quyền. Điều này
đòi hỏi nhân dân phải có cơ chế kiểm tra, giám sát đối với những người thay
mình nắm quyền lực nhà nước nhằm hạn chế sự lạm dụng quyền lực nhà nước,
bởi đại diện không thể thích hợp mãi và luôn có khuynh hướng xa rời dần xã hội,
đứng trên xã hội. Chính yếu tố này tạo nên đặc trưng thứ hai của Nhà nước pháp
quyền là nhà nước phải bị hạn chế quyền lực.
1.1.2.2. Nhà nước pháp quyền là nhà nước bị giới hạn quyền lực
Khi quyền lực được giao cho những người đại diện của chúng ta nắm giữ
và cai trị thì quyền lực đó rất dễ bị lạm dụng vì bản tính của con người là lòng
đam mê quyền lực. Chúng ta biết rằng ở trạng thái hoàn thiện nhất con người
luôn luôn có lý trí, có kỷ luật, có công bằng và cả lòng vị tha, nhưng khi ở trạng
thái bị tổn thương, con người không những có đam mê, lòng không dung thứ, sự
vô liêm sỉ, sự tùy tiện mà còn có cả lòng tham. Điều đó là lẽ đương nhiên, vì con
16



người không phải là thiên thần, nếu như con người chúng ta là những thiên thần
thì khỏi cần đến Bộ máy Nhà nước và điều ngược lại, nếu chính phủ là thần
thánh, thì cũng khỏi cần phải quy định các cách thức phải hoạt động theo một thể
thức nhất định tức là bản Hiến pháp như ngày nay [26, tr.215]. Nhà nước pháp
quyền thể hiện tính dân chủ, tính quy luật cần phải tiến tới của nhân loại, chính
sự giới hạn quyền lực nhà nước là một trong những đòi hỏi của Nhà nước pháp
quyền. Vậy cơ chế nào cho sự giới hạn quyền lực nhà nước? Sau đây là các
phương thức giới hạn quyền lực nhà nước:
- Một là, quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật
Tôn trọng và bảo vệ các quyền công dân, quyền con người là giá trị của
mọi giá trị trong tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Một trong những yêu cầu
đầu tiên của nhà nước pháp quyền là sự bảo đảm các quyền cơ bản của con
người như: Tự do, bình đẳng, phẩm giá con người, những hình thức thể hiện
khác nhau của việc bảo đảm nhân quyền và bảo đảm những yếu tố truyền thống
của Nhà nước pháp quyền [35, tr.51].
Với sự ra đời của học thuyết về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp
quyền tư sản trong hiện thực, lần đầu tiên trong lịch sử loài người đã bước từ địa
vị nô lệ trong xã hội thần dân sang địa vị công dân trong xã hội công dân. Công
dân trong mối quan hệ với Nhà nước pháp quyền là con người mà các quyền cơ
bản, thiêng liêng như quyền sống, tự do, bình đẳng, mưu cầu hành phúc, sở hữu
tài sản… được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật. Mỗi cá nhân có thể phát triển
bình đẳng và tự do trước pháp luật, có đủ cơ hội pháp lý để phát huy mọi khả
năng của mình.
Phương thức hạn chế quyền lực nhà nước là quyền con người được quy
định và đảm bảo trong Hiến pháp để có thể bất cứ lúc nào mọi hành động của
quyền lực nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) cũng phải đối chiếu với thể
chế chính trị đó và được tôn trọng hơn, tránh việc thi hành quyền lực nhà nước
17



một cách tùy tiện, độc đoán và chuyên quyền. Nó trở thành những nguyên tắc
đơn giản không thể chối cãi nhằm bảo đảm hạnh phúc cho mọi công dân trong
xã hội.
Con người chúng ta tồn tại không phải để phục vụ chính phủ như trong
các xã hội chuyên chế và độc tài đã từng tuyên bố, mà chính các chính phủ tồn
tại để bảo vệ người dân, bảo vệ các quyền của họ và có vai trò thúc đẩy sự phát
triển của xã hội thông qua sự phát triển của mọi người.
Quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước. Hiến pháp và pháp luật đặt Nhà nước vào vị trí thấp hơn quyền con người
và tuyên bố quyền con người là bất khả xâm phạm. Những quyền đó suy đến
cùng cũng chỉ nhà nước mới có khả năng bảo vệ. Tuy vậy, chính nhà nước cũng
đồng thời là chủ thể có khả năng lạm dụng quyền lực nhiều nhất trong việc vi
phạm nhân quyền. Nên nhân quyền phải được ghi nhận trong Hiến pháp để hạn
chế quyền lực nhà nước [26, tr.111].
Tất nhiên, bảo vệ nhân quyền không chỉ dừng lại ở việc bảo đảm nhân
quyền không bị vi phạm mà còn tiến tới chỗ tạo ra những điều kiện để người dân
tham gia vào công việc của nhà nước và kiểm soát quyền lực nhà nước. Khi nhân
quyền được bảo đảm thực hiện, công dân có thể giám sát, phê bình, chỉ trích nhà
nước một cách công khai, dân chủ mà không sợ bị trù úm, trả thủ. Công dân có
quyền và nghĩa vụ chống lại mọi sự xâm phạm hay can thiệp một cách tùy tiện
trái pháp luật của nhà nước. Nguyên tắc công dân có quyền làm tất cả những gì
pháp luật không cấm đã tạo ra cơ sở pháp lý cho sự phát triển và hoàn thiện cá
nhân. Công dân được sở hữu tất cả những gì thuộc về mình, chỉ dành cho nhà
nước những cái tối thiểu cần thiết. Với sự ra đời của nhà nước pháp quyền, con
người đã được giải thoát khỏi chế độ phong kiến độc đoán chuyên quyền.
- Hai là, phân quyền và kiểm soát quyền lực trong tổ chức quyền lực nhà
nước
18



Những người sáng lập tư tưởng Nhà nước pháp quyền đều nhấn mạnh
rằng nhà nước pháp quyền chính là nhà nước mà quyền lực của nó bị giới hạn để
đảm bảo các quyền và tự do của công dân. Để đảm bảo được sự giới hạn quyền
lực nhà nước, các nhà tư tưởng lập hiến đều coi trọng đến việc phân quyền và
kiểm soát quyền lực nhà nước và coi đó là một trong những nhân tố không thể
thiếu của Nhà nước pháp quyền.
Montesquieu đã khẳng định: “Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập
lại trong tay một người hay một Viện Nguyên lão, thì sẽ không có gì là tự do
nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt những luật độc tài để
thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không
tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền
lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân,
quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp được nhập với quyền hành
pháp thì quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp” [40].
Theo học thuyết phân quyền, quyền lực nhà nước được phân chia thành
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quyền lập pháp được trao cho Quốc hội,
quyền hành pháp được trao cho Chính phủ và quyền tư pháp được trao cho Tòa
án. Quyền lập pháp là quyền thể hiện ý chí chung của mọi công dân trong xã hội,
được thể hiện qua chế độ làm việc và quyết định tập thể của Quốc hội. Quyền
hành pháp là quyền thực hiện ý chí chung của Quốc hội hay nói một cách khác
chức năng của Chính phủ là thực hiện pháp luật trong quản lý Quốc gia. Quyền
này đòi hỏi sự quyết đoán, nhanh nhạy và tập trung cao. Quyền xét xử thuộc về
Tòa án. Chức năng của cơ quan này là xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp,
pháp luật từ phía công dân và nhà nước, bảo vệ công lý, tự do công dân và trật tự
- an toàn xã hội.
Trong các ngành quyền lực nhà nước, lập pháp được coi là một ngành có
nguy cơ xâm phạm đến quyền tự do của con người nhiều nhất, bởi cơ quan này
19



vừa có quyền điều chỉnh lại vừa có quyền kiểm soát hành vi của rất nhiều người
trong xã hội thông qua việc ban hành luật. Còn ngành hành pháp không những
có quyền phân phối các vinh dự mà lại có quyền sử dụng vũ lực, có thể xâm
phạm đến tài sản và tự do của công dân, giam cầm, đánh đập, lưu đày, tịch thu
tài sản của người khác mà không có lý do chính đáng… Kết quả của việc đảm
bảo quyền con người sẽ được thực hiện khi có những hoạt động xét xử công
bằng và vô tư của tư pháp. Muốn vậy, Tòa án phải thực sự độc lập với lập pháp
và hành pháp.
Một nhà nước hoạt động có hiệu quả có thể đóng góp rất nhiều cho sự phát
triển xã hội của mỗi quốc gia. Nhưng chẳng có đảm bảo nào cho thấy rằng mọi
hoạt động của nhà nước đều mang lại lợi ích cho con người và xã hội nếu không
có những biện pháp ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực nhà nước cũng như sự thái
quá của quyền lực nhà nước. Độc quyền cưỡng chế của nhà nước đã mang lại
cho nhà nước quyền can thiệp vào các hoạt động kinh tế một cách chuyên quyền,
độc đoán. Quyền lực này cộng với sự thâm nhập nguồn thông tin mà dân chúng
bình thường không có, tạo cơ hội cho những người đảm trách các công việc của
nhà nước, chính khách và công chức xúc tiến những lợi nhuận khổng lồ cho
riêng họ và người thân. Khả năng tham nhũng và hối lộ, tìm kiếm lợi nhuận
trong hoạt động công vụ là rất lớn mà người bình thường không thể có được [26,
tr.96].
Chính vì vậy, quyền lực nhà nước phải được phân chia/ phân công, phân
nhiệm rõ ràng nhưng có sự phối kết hợp với nhau và tự kiểm tra bên trong bằng
cơ chế kìm chế đối trọng lẫn nhau. Nghĩa là tuy “ràng buộc lẫn nhau” nhưng
“vẫn phải đi tới, mà đi tới một cách nhịp nhàng” [41, tr.110].
Cơ chế kiểm soát, kìm chế đối trọng không chỉ thể hiện ở mối quan hệ
giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp mà còn thể hiện thông qua nhiều quan hệ
ngang, dọc, chéo… giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và các cơ quan địa
20



phương. Nguyên tắc kìm chế đối trọng được áp dụng rõ nét nhất ở nhà nước Mỹ
thông qua Hiến pháp 1787 và nó được sử dụng ở chừng mực nào đấy tại các nhà
nước khác trên thế giới.
Như vậy, phân quyền là để đảm bảo cho nhà nước và nền dân chủ không
bị tiêu diệt, chứ không phải là để thỏa hiệp hay chia quyền giữa các lực lượng xã
hội đối lập nhau và khi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân thì phân quyền
chính là sự phân công thực hiện quyền lực nhà nước. Trong Nhà nước pháp
quyền, các cơ quan quyền lực nhà nước không chỉ phải hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật mà còn bị giới hạn bởi pháp luật. Pháp luật không chỉ là cái mà
các cơ quan quyền lực nhà nước phải tuân thủ mà còn là phương tiện để hạn chế
chính quyền. Do đó, nhà nước pháp quyền là nhà nước mà quyền lực của nó
được giới hạn để tránh việc xâm phạm các quyền và tự do của công dân.
- Ba là, các chức danh quan trọng của nhà nước phải được nhân dân tín
nhiệm, mọi quyết sách của nhà nước phải được công khai, minh bạch.
Bầu cử là một trong những biện pháp quan trọng nhất thể hiện sự tín
nhiệm của nhân dân trong việc thành lập ra bộ máy nhà nước, cho phép nhân dân
tham gia vào việc điều hành đất nước, nó phải được ghi nhận trong Hiến pháp và
pháp luật. Quyền lực của nhà nước chỉ xuất phát từ sự bỏ phiếu đồng ý của nhân
dân. Qua hình thức bầu cử, nhân dân có thể chọn người đại diện mà mình tín
nhiệm tham gia vào bộ máy nhà nước để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Do đó, bầu cử chính là hình thức thể hiện nguồn gốc và bản chất dân chủ
của nhà nước, thể hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Ở bất cứ nền dân
chủ nào khác, sự đảm bảo quan trọng nhất về trách nhiệm của quyền là các công
dân có quyền kiểm soát chính phủ của mình thông qua bầu cử.
Bỏ phiếu tín nhiệm, bãi nhiệm đại biểu và các chức danh khác của cơ quan
nhà nước chính là sự hạn chế quyền lực nhà nước. Khi các đại biểu và những
người đảm nhiệm các chức danh khác trong cơ quan nhà nước được nhân dân
21



bầu ra luôn phải chịu sự giám sát của nhân dân, bị nhân dân bãi miễn nếu không
được nhân dân tín nhiệm.
Tuy nhiên, để nhân dân có thể chọn được người xứng đáng và tin cậy giao
trọng trách nắm giữ quyền lực nhà nước thì tất cả các chức danh quan trọng của
nhà nước phải được công khai, minh bạch. Không chỉ công khai về nội dung mà
còn phải công khai về quy trình, thủ tục. Tham nhũng là sự kết hợp của ba yếu tố
cơ bản: quyền lực độc quyền, quyền hạn tùy tiện và mức độ trách nhiệm không
thỏa đáng khi thực hiện quyền hạn. Muốn chống tham nhũng phải nhắm vào cả
ba điểm trên. Công khai, minh bạch là yếu tố hàng đầu của cuộc chiến chống
tham nhũng [26, tr.596].
Công khai là mọi hoạt động, mọi quyết sách của nhà nước phải được công
bố hoăc phổ biến, truyền tin trên các phương tiện đại chúng, làm cho mọi người
dân được tiếp cận với các quyết định của nhà nước một cách dễ dàng.
Minh bạch là không những phải công khai mà phải trong sáng, không
khuất tất, không rắc rối, không gây khó khăn cho người dân, không làm cho
người dân nhầm tưởng, có những định hướng sai lầm cho tương lai.
Do vậy, sự công khai, minh bạch của chính quyền chính là quyền được
nắm bắt thông tin của công chúng. Việc được tiếp cận với các thông tin cho phép
công dân chất vấn, chỉ trích và cản trở các hành động của chính quyền mà họ
không đồng tình, cũng như cho phép họ tìm cách uốn nắn những hành vi sai trái
của các quan chức. Trách nhiệm của chính quyền là phải báo cáo về các hoạt
động của họ cho công dân biết, quyền của công dân là được hành động chống lại
các quan chức có hành vi mà các công dân coi là không chuẩn mực. Đó chính là
một yếu tố thiết yếu của nền dân chủ.
Cách thức để người dân nắm bắt thông tin là quyền tự do truyền thông, tự
do ngôn luận, là quyền được bỏ phiếu trưng cầu dân ý…. Qua phương tiện thông
tin đại chúng người dân có thể theo dõi một vụ án, góp ý cho một dự luật hay
22



kiểm tra các dự án của chính phủ…Công dân có thể dựa vào báo chí để phát giác
tham nhũng, vạch trần việc thực thi công lý, những hành động sai phạm hay
thiếu hiệu quả của quan chức nhà nước. Như vậy quyền được thông tin, được tư
do báo chí, được trưng cầu dân ý cũng là những cách thức hạn chế quyền lực nhà
nước từ bên ngoài. Trong Nhà nước pháp quyền, những quyền này phải được ghi
nhận trong Hiến pháp và pháp luật.
1.1.2.3. Nhà nước pháp quyền đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp và
pháp luật
Đây là đặc trưng quan trọng và làm cho Nhà nước pháp quyền trở thành
nhà nước khác biệt so với các nhà nước khác. Với sự ra đời của tư tưởng về Nhà
nước pháp quyền, mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật có sự thay đổi căn
bản. Pháp luật giữ vai trò thống trị không chỉ đối với xã hội mà còn đối với chính
bản thân nhà nước. Đây là sự kết hợp giữa hệ thống quyền lực với hệ thống các
quy tắc xử sự trong xã hội. Khác với nhà nước pháp trị trong lịch sử, pháp luật
của Nhà nước pháp quyền trở thành công cụ chế ước, quy định, kiểm tra, giám
sát tổ chức và phương thức hoạt động của nhà nước. Nhà nước pháp quyền tự đặt
mình dưới pháp luật chứ không phải đứng trên và ngoài pháp luật. Pháp luật
không chỉ là công cụ để duy trì và phát triển xã hội mà còn là công cụ để duy trì
sự tồn tại của chính nhà nước. Chức năng và quyền hạn của nhà nước được giới
hạn trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc hợp hiến, hợp pháp và
chế độ trách nhiệm pháp lý là những yêu cầu của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền. Nhà nước chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, còn công dân được
làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Nếu vượt quá giới hạn pháp luật, nhà
nước sẽ trở thành độc tài, chuyên chế, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân,
cướp đi tự do của công dân. Như vậy, nhà nước và công dân đều có quyền và
nghĩa vụ trước pháp luật.

23



Tuy nhiên, nếu chỉ đề cao vai trò, vị trí, tính tối cao của Hiến pháp và pháp
luật không thôi thì nó cũng chẳng phân biệt được gì so với pháp luật cai trị của
các nhà nước khác trong lịch sử. Cái làm cho Hiến pháp và pháp luật của Nhà
nước pháp quyền có tính tối cao và trở thành linh hồn của Nhà nước pháp quyền,
khác với các nhà nước khác trong lịch sử, là ở chỗ bản chất, nội dung và phương
thức hình thành của nó.
Pháp luật của các nhà nước độc tài, chuyên chế là thứ pháp luật độc tài, do
ý chí của giai cấp cầm quyền đặt ra để cai trị xã hội. Pháp luật được coi là công
cụ riêng của giai cấp cầm quyền chủ yếu dùng để trấn áp xã hội, nên nó gắn liền
với sự bóc lột đa số nhân dân lao động, cai trị nhân dân bằng vũ khí và nhà tù…
Nhân dân không được quyền tham gia vào công việc của nhà nước mà ngược lại,
phải gánh chịu các trách nhiệm nặng nề do giai cấp thống trị ban hành.
Ngay pháp luật trong nhà nước pháp trị cũng vậy. Người đầu tiên đề ra
chủ thuyết về pháp trị là Hàn Phi Tử. Nó tiến bộ hơn bởi tư tưởng dùng pháp luật
để quản lý xã hội một cách thống nhất trong cả nước và trong mọi thời điểm chứ
không phải quản lý xã hội một cách tùy hứng, nhưng nó vẫn là thứ pháp luật
riêng do giai cấp thống trị (Vua) ban hành, không phải là ý chí của nhân dân. Để
cai trị xã hội theo mục đích của mình, pháp luật trong nhà nước pháp trị rất hà
khắc, chủ yếu là các hình phạt để trừng trị, răn đe, không có quyền bình đẳng
giữa con người với con người. Nó được dùng để bảo vệ giai cấp thống trị mà
thôi.
“Tính chất pháp quyền” trong Nhà nước pháp quyền không chỉ thuần túy
là “có pháp luật” hay đơn thuần là có “pháp chế”, tuân thủ nghiêm minh pháp
luật không thôi, mà tính pháp quyền còn thể hiện rõ trong nội dung ghi nhận của
pháp luật đảm bảo các giá trị công bằng, nhân đạo, vì con người, phù hợp với
đạo đức xã hội, bình đẳng giữa mọi cá nhân trong xã hội, giữa cá nhân với nhà

24



×