Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Nghĩa vụ giao hàng của người vận chuyển trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển theo pháp luật Trung Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (817.11 KB, 20 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ HỒNG HẠNH

NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA NGƯỜI VẬN CHUYỂN TRONG
HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ HỒNG HẠNH

NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA NGƯỜI VẬN CHUYỂN TRONG
HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC VÀ KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI
VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Quốc tế
Mã số

: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN BÁ DIẾN

Hà nội - 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG
HÓA BẰNG ĐƯỜNG BIỂN VÀ NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA NGƯỜI
VẬN CHUYỂN THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC ....................................... 9
1.1 Khái quát chung về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển theo pháp
luật Trung Quốc ............................................................................................................... 9
1.1.1 Nguồn luật ...................................................................................................... 9
1.1.2 Định nghĩa hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển .........................19
1.1.3 Địa vị pháp lý của các bên liên quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng
đường biển .............................................................................................................21
1.1.4 Chứng từ vận chuyển .....................................................................................27
1.2 Khái quát chung về nghĩa vụ giao hàng của người vận chuyển theo pháp luật
Trung Quốc .................................................................................................................... 35
1.2.1 Cơ sở xác định nghĩa vụ giao hàng của người vận chuyển .............................35
1.2.2 Định nghĩa nghĩa vụ giao hàng của người vận chuyển ...................................40
1.2.3 Ý nghĩa pháp lý của nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá
bằng đường biển .....................................................................................................43
CHƯƠNG 2: NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA NGƯỜI VẬN CHUYỂN THEO
PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC ............................................................................47
2.1 Nội dung nghĩa vụ giao hàng của người vận chuyển ............................................ 47
2.1.1 Nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm .................................................................47
2.1.2 Nghĩa vụ giao hàng đúng giờ .........................................................................58
2.1.3 Giao hàng đúng người nhận ...........................................................................66

2.2 Giao hàng và giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển ................................... 81
2..3 So sánh nghĩa vụ giao hàng theo Hợp đồng vận chuyển và Hợp đồng mua bán
hàng hoá.......................................................................................................................... 88


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ
NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA NGƯỜI VẬN CHUYỂN CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM ...........................................................................................................94
3.1 Quy định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ giao hàng .................................... 94
3.2 Khuyến nghị xây dựng chế độ pháp lý về nghĩa vụ giao hàng trong pháp luật
Việt Nam ...................................................................................................................... 103
3.3 Tiếp thu tiến bộ của hệ thống pháp luật quốc tế .................................................. 112
3.4 Pháp điển hoá các quy phạm tập quán ................................................................. 114
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 120
PHỤ LỤC............................................................................................................. 125

2


hạn trách nhiệm của người vận chuyển; những giải pháp cho người
vận chuyển khi hàng hóa không được nhận bởi người có trách
nhiệm .v.v. .đã gây ra nhiều cuộc tranh cãi giữa các nhà khoa học,
những người làm thực tiễn trong lĩnh vực hàng hải, và cả các thẩm
phán.
Việc lựa chọn pháp luật Trung Quốc cũng xuất phát từ một
số lý do cơ bản như sau:
Thứ nhất, Trung Quốc là một quốc gia có vị trí địa lý, hệ
thống chính trị, văn hoá tương đồng với Việt Nam. Phải nói rằng, tư
duy thương mại được quyết định rất nhiều bởi văn hóa và tư duy

chính trị. Do vậy, việc dùng Trung Quốc làm đối tượng nghiên cứu
trong phạm vi luận văn này hi vọng sẽ đưa ra được nhiều kết quả
hữu ích cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, Trung Quốc có đường bờ biển dài, nền kinh tế
nói chung và ngành vận chuyển đường biển quốc tế phát triển, hiệu
quả và năng động. Đây là điều kiện vật chất cho một hệ thống pháp
luật về vận chuyển đa dạng và hoàn chỉnh. Cũng như Trung Quốc,
Việt Nam cũng là một nước có đường bờ biển dài hơn 3000 km, có
nền kinh tế biển phát triển từ lâu đời và đang được Đảng, Nhà nước
quan tâm cho là một ngành kinh tế mũi nhọn lâu dài. Với các điều
kiện kinh tế tương đồng như vậy, việc chọn pháp luật Trung Quốc là
đối tượng nghiên cứu sẽ có nhiều điểm thuận lợi dựa trên các mẫu
số chung cơ bản là nền tảng kinh tế như đã trình bày.
Thứ ba, Trung Quốc có hệ thống pháp luật nói chung
tương đồng với hệ thống pháp luật Việt Nam từ lịch sử, quá trình
hình thành, cấu trúc, quy mô cũng như tư duy pháp lý. Cùng nằm
trong số các nước theo hệ thống pháp luật chủ nghĩa, mà về cơ bản
là theo hệ thống luật Châu âu lục địa (Civil Law) và không thuộc
hình thái cấu trúc nhà nước liên bang, Việt Nam và Trung Quốc có
hệ thống pháp luật với rất nhiều điểm tương đồng. Việc nghiên cứu
một hệ thống pháp luật có nhiều nét tương đồng như vậy là một điều
không những lý thú mà còn hứa hẹn thu được những kết quả bổ ích
cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước. Với tư cách là

MỞ ĐẦU
Vận chuyển hàng hoá bằng đường biển là phương thức vận
chuyển có lịch sử lâu đời nhất và phổ biến nhất, đóng vai trò quan
trọng nhất trong việc hình thành và phát triển nền thương mại quốc
tế. Vận chuyển hàng hoá bằng đường biển được thực hiện thông qua
hình thức hợp đồng - cơ sở để xác lập và thực hiện quan hệ dịch vụ

vận chuyển giữa người thuê vận chuyển và người vận chuyển.
Trong tổng thể các vấn đề pháp lý của hợp đồng vận chuyển đường
biển, nghĩa vụ giao hàng của người vận chuyển là một nội dung
không thể thiếu được của hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng
đường biển, tôi tập trung sự quan tâm của mình vào chế định này vì
ba lý do sau:
Thứ nhất: giao hàng bản thân nó liên quan đến mối quan
hệ pháp lý vượt ra ngoài một loại hợp đồng. Giao hàng không chỉ là
nội dung của hợp đồng vận chuyển mà còn cả hợp đồng mua bán
hàng hoá. Đồng thời vấn đề này cũng liên quan đến luật tài sản và
những luật khác nữa. Phân định được mối quan hệ này sẽ cho tôi cơ
hội nghiên cứu một cách toàn diện một vấn đề pháp lý nhưng được
đặt trong những chế định pháp luật khác nhau và có tính logic về tư
duy.
Thứ hai: quan trọng hơn là sự thiếu vắng một hệ thống
pháp luật hiện hành hoàn chỉnh liên quan đến vấn đề giao hàng. Hầu
hết những công ước quốc tế như Hague, Hague-Visby Rules và luật
quốc gia trong lĩnh vực này như các đạo luật về hàng hải ở nhiều
nước cũng tập trung chủ yếu vào việc quy định quyền và nghĩa vụ
của người vận chuyển trong quá trình vận chuyển và đảm bảo an
toàn cho hàng hoá, trong khi chỉ có vài lời giải thích chi tiết về giao
hàng. Và hệ quả là, rất khó khăn để giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ việc giao hàng vì pháp luật thực định không có hướng dẫn
cụ thể.
Thứ ba: Những vấn đề như trách nhiệm giao hàng mà
không có vận đơn; mối quan hệ giữa việc giao hàng và kết thúc thời

1



một nước láng giềng với Trung Quốc với kim ngạch trao đổi thương
mại hàng năm rất cao, có lẽ việc tham khảo kinh nghiệm của Trung
Quốc sẽ trở nên hợp lý và cần thiết đối với Việt Nam.
Mục đích cuối cùng của tôi sau khi hoàn thành luận văn sẽ
là có được một nghiên cứu toàn diện về pháp luật liên quan đến
nghĩa vụ giao hàng của người vận chuyển. Hi vọng lớn nhất là công
trình nghiên cứu này sẽ:
Có giá trị như một nguồn tham khảo đối với những
người công tác tại các hãng tàu; những người tham
gia trực tiếp vào quan hệ vận chuyển hàng hoá bằng
đường biển;
Rút ra những kinh nghiệm có thể áp dụng để góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực
giao hàng ở Việt Nam.
Trong luận văn này, tôi kỳ vọng giải quyết được những vấn
đề cơ bản sau đây:
Ý nghĩa pháp lý của việc giao hàng của người vận
chuyển;
Thời điểm việc giao hàng được xem là hoàn thành;
Người vận chuyển phải chịu trách nhiệm gì khi giao
hàng không đúng người, đặc biệt là trường hợp giao
hàng mà không xuất trình vận đơn;
Mối quan hệ giữa hợp đồng vận chuyển và hợp đồng
mua bán hàng hoá;
Các tranh chấp liên quan đến việc giao hàng trên
thực tế có thể được giải quyết như thế nào; và
Những kinh nghiệm nào mà Việt Nam có thể học hỏi
và áp dụng trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp
luật trong nước.
Những vấn đề này sẽ lần lượt được làm sáng tỏ ở những

chương sau đây:

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN
HÀNG HOÁ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƢỜI VẬN CHUYỂN THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC
1.1 Khái quát chung về hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng
đƣờng biển theo pháp luật Trung Quốc
1.1.1 Nguồn luật
Hệ thống pháp luật quốc tế ghi nhận những điều ước quốc tế
sau đây là nguồn luật cơ bản và quan trọng nhất điều chỉnh hợp
đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biến quốc tế:
- Công ước Hague và Hague Visby;
- Công ước quốc tế về vận chuyển hàng hoá bằng đường biển
năm 1978 gọi là Quy tắc Hamburg;
- Công ước về vận chuyển hàng hoá quốc tế toàn bộ hoặc một
phần bằng đường biển năm 2009.
Ở Trung Quốc có ba đạo luật mà có thể điều chỉnh một
cách trực tiếp hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển: Các
nguyên tắc chung của Luật Dân sự; Bộ luật hàng hải và Luật Hợp
đồng.
1.1.2 Định nghĩa hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng
biển
Hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển, theo
Điều 4, Chương IV mục 1, Bộ Luật Hàng hải Trung Quốc, hợp
đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển là một hợp đồng theo
đó người vận chuyển, được trả phí vận chuyển, cam kết vận chuyển
hàng hóa theo hợp đồng với người gửi hàng bằng đường biển từ một
cảng tới một cảng khác.
Quy định về hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường

biển của Trung Quốc cũng như Việt Nam khá thống nhất với luật
pháp và tập quán phổ biến trên thế giới.
1.1.3 Địa vị pháp lý của các bên liên quan đến hợp đồng vận
chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển
1.1.3.1 Ngƣời thuê vận chuyển

2


Người thuê vận chuyển, theo định nghĩa tại Điều 42.3 Bộ
Luật Hàng hải Trung Quốc, là:
“a) Người tự mình hoặc nhân danh người đó hoặc theo
ủy quyền của người đó giao kết hợp đồng vận chuyển hàng hóa
bằng đường biển với người vận chuyển;
b) Người tự mình hoặc nhân danh người đó hoặc theo ủy
quyền của người đó giao hàng hàng hóa cho người vận chuyển có
liên quan trong hợp đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển.”
1.1.3.2 Ngƣời vận chuyển
Trước hết, theo định nghĩa hợp đồng vận chuyển hàng hoá
bằng đường biển, người vận chuyển có quyền được thanh toán cước
vận chuyển. Đây là quyền quan trọng nhất của người vận chuyển, từ
đó làm phát sinh các nghĩa vụ khác của người vận chuyển theo hợp
đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, theo pháp luật và theo
các tập quán khác.
Ngoài ra phần này còn giới thiệu sơ lược về các vấn đề chủ
yếu liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người vận chuyển như:
Thời điểm xác định trách nhiệm của người vận chuyển; trách nhiệm
bảo đảm các điều kiện về tàu chở, các thiết bị bảo quản và lưu trữ
hàng hoá trong quá trình vận chuyển; trách nhiệm giao hàng đúng
địa điểm, trách nhiệm giao hàng đúng giờ, trách nhiệm giao hàng

đúng người.
1.1.3.3 Ngƣời nhận hàng
Điều 83 Bộ luật Hàng hải Trung Quốc quy định, người
nhận hàng có quyền, trước khi nhận hàng tại cảng đến, yêu cầu
giám định hàng hoá. Người nhận hàng phải chịu chi phí cho việc
giám định nhưng có quyền yêu cầu bồi hoàn chi phí từ bên gây ra
thiệt hại. Bên cạnh đó, Điều 82 Bộ luật Hàng hải Trung Quốc cũng
quy định người nhận hàng có thể gửi thông báo về thiệt hại kinh tế
do việc chậm giao hàng cho người vận chuyển để yêu cầu người vận
chuyển phải chịu trách nhiệm về các thiệt hại đó trong vòng 60 ngày
kể từ ngày tiếp theo sau ngày giao hàng.
1.1.4 Chứng từ vận chuyển:

Trong phần này luận văn chủ yếu giới thiệu các loại vận đơn
và các chứng từ vận chuyển khác và ý nghĩa pháp lý của các loại
chứng từ này nhằm mục đích đưa ra cơ sở kiến thức cơ bản phục vụ
cho việc phân tích ở chương 2.
1.2 Khái quát chung về nghĩa vụ giao hàng của ngƣời vận
chuyển theo pháp luật Trung Quốc
1.2.1 Cơ sở xác định nghĩa vụ giao hàng của ngƣời vận chuyển
1.2.1.1 Theo quy định của pháp luật
Đầu tiên, phải nói rằng, nghĩa vụ của người vận chuyển
phát sinh trên cơ sở các quy định của pháp luật. Mặc dù quan hệ vận
chuyển là một quan hệ hợp đồng và phát sinh trên sự thoả thuận của
các bên, song nhìn chung, Bộ luật Hàng hải Trung Quốc (và cả Bộ
luật Hàng hải Việt Nam trong trường hợp này) đặt ra những quy tắc
và nghĩa vụ cơ bản của người vận chuyển. Những nghĩa vụ này, về
cơ bản là các bên không thể thoả thuận loại bỏ bởi đó là nghĩa vụ
cốt yếu xác lập nên một hợp đồng vận chuyển.
1.2.1.2 Theo thoả thuận

Như ở trên đã phân tích, giao hàng là nghĩa vụ hợp đồng
và có ý nghĩa pháp lý mang tính hợp đồng, nên các nghĩa vụ trong
nó, bao gồm cả điểm, thời gian và phương thức đều được quyết định
bởi hợp đồng.
Sự tự do thoả thuận cũng sẽ phải tuân theo những điều bắt
buộc và cần tuân theo những quy tắc nhất định:
Thứ nhất: một thoả thuận về giao hàng không được vi
phạm những điều pháp luật quy định. Hague Rules và luật quốc gia
ví dụ như Bộ luật hàng hải Trung Quốc đã thiết lập một loạt các
nghĩa vụ mang tính bắt buộc đối với người vận chuyển theo hợp
đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển.
Tiếp theo, theo Bộ luật Dân sự Trung Quốc, ở phần hình
thức hợp đồng, một hợp đồng được lập trên cơ sở một bên đưa ra
mẫu in sẵn mà không có sự thoả thuận với bên kia hoặc hợp đồng
cố tình bỏ đi một vài nghĩa vụ quan trọng hoặc hoặc bỏ bớt quyền
thiết yếu của bên kia sẽ được coi như là vô hiệu.

3


Hơn nữa, theo lý thuyết chung về hợp đồng, khi một thoả
thuận được giao kết do ép buộc, lừa dối, hoặc vi phạm lợi ích quốc
gia, v.v ... thì cũng bị vô hiệu và phải sửa đổi.
1.2.1.3 Theo tập quán
Trong thực tiễn dài của hoạt động hàng hải, có những tập
quán, thói quen về giao hàng đã được hình thành một cách vững
chắc. Thực tế, phần đáng kể của hợp đồng vận chuyển không điều
chỉnh toàn diện và rõ ràng thoả thuận về điểm giao hàng. Trong
những trường hợp này, tập quán, thông lệ, thói quen thương mại tại
cảng dỡ hàng hoặc tại những điểm đến khác sẽ được áp dụng để xác

định thời gian, địa điểm và phương thức giao hàng.
1.2.2 Định nghĩa nghĩa vụ giao hàng của ngƣời vận chuyển
Theo những cách hiểu truyền thống, giao hàng có nghĩa là
“sự trao tay”, bản chất là việc chuyển giao vật chất hàng hóa giữa
người vận chuyển và đối tác của họ. Giao hàng có nghĩa là người
vận chuyển “từ bỏ quyền chiếm hữu vật chất đối với hàng hóa”.
Thêm vào đó, thông thường, giao hàng có thể là kết quả
của việc đặt hàng vào vị trí tuỳ ý sử dụng của người nhận hàng.
Cụm từ “sự tùy ý sử dụng hàng hóa” thực chất là gì? Nó chỉ là trách
nhiệm pháp lý hay cả trách nhiệm về vật chất nữa? Sự đa dạng về
việc giao hàng làm phát sinh yêu cầu về lý thuyết, đó là việc cần
phải đi tìm một định nghĩa chính xác về giao hàng và nghĩa vụ giao
hàng của người vận chuyển.
1.2.3 Ý nghĩa pháp lý của nghĩa vụ giao hàng trong hợp đồng
vận chuyển hàng hoá bằng đƣờng biển
Việc giao hàng của người vận chuyển là một công đoạn
không thể thiếu được trong hợp đồng vận chuyển hàng hoá nói
chung và hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển nói
riêng.
Theo học thuyết của luật Dân sự, nội dung của hợp đồng
vận chuyển hàng hoá “không chỉ là chở hàng mà việc giao hàng ở
điểm đến được coi là một nghĩa vụ cuối cùng”.
Sự hoàn thành việc giao hàng thường dẫn đến chấm dứt

hợp đồng giao hàng và kết thúc trách nhiệm của người vận chuyển
đối với hàng hoá.
Tuy nhiên hầu hết các đạo luật đều không quy định rõ, một
số đạo luật còn làm cho nội dung này trở nên không chắc chắn,
không xác định rõ người vận chuyển có nghĩa vụ giao hàng hay
không.


4


cảng gần cảng đến và hợp đồng sẽ được coi là đã được thực hiện
đầy đủ”.
Tuy nhiên trong những trường hợp không phải là bất khả
kháng, Bộ luật Hàng hải Trung Quốc không có quy định nào điều
chỉnh người thuê vận chuyển có quyền thay đổi điểm giao hàng
hoặc thay đổi cảng dỡ hàng. Cách xử lý phải viện dẫn đến Luật Hợp
đồng của Trung Quốc. Bộ luật Hàng hải Việt Nam cũng có quy định
về quyền thay đổi địa điểm giao hàng đã thoả thuận nhưng không rõ
ràng về thủ tục thực hiện.
2.1.1.2 Trách nhiệm pháp lý của ngƣời vận chuyển khi vi
phạm nghĩa vụ
Trên thực tế, hiếm khi hàng hoá được vận chuyển tới và
giao tại cảng mà không phải địa điểm mà các bên đã thoả thuận.
Tuy nhiên, vẫn có trường hợp giao hàng không đúng cảng đích do
lỗi của người vận chuyển. Trong trường hợp này, Bộ luật Hàng hải
Trung Quốc quy định trách nhiệm của người vận chuyển không rõ
ràng.
Theo Bộ luật Hàng hải Trung Quốc sự “chệch hướng” vì
lý do bảo đảm an toàn hoặc cố gắng bảo đảm an toàn cho tính mạng
hoặc tài sản trên biển hoặc vì bất kỳ lý do hợp lý nào khác đều
không bị coi là hành vi vi phạm nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm
(Điều 49 Bộ luật Hàng hải Trung Quốc). Tuy nhiên, đối với trường
hợp “chệch hướng” không đáp ứng các điều kiện nêu trên thì người
vận chuyển có phải chịu trách nhiệm gì không, xử lý theo cơ chế
nào? Bộ luật Hàng hải Trung Quốc chưa cung cấp các chế tài cụ thể
để xử lý trách nhiệm của người vận chuyển. Bộ luật Hàng hải Việt

Nam cũng tương tự, không quy định về trách nhiệm đối với người
vận chuyển trọng trường hợp này.
2.1.2
Nghĩa vụ giao hàng đúng giờ
2.1.2.1 Thời gian giao hàng và nghĩa vụ giao hàng đúng giờ
Bộ luật Hàng hải Trung Quốc quy định: “Chậm giao hàng
xảy ra khi hàng không được giao tại cảng dỡ hàng trong thời gian
đã được thoả thuận trước” (đoạn 1 Điều 50 Bộ luật hàng hải Trung

CHƢƠNG 2
NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA NGƢỜI VẬN CHUYỂN
THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC
2.1 Nội dung nghĩa vụ giao hàng của ngƣời vận chuyển
Nghĩa vụ giao hàng của người vận chuyển được phân tích
tại Chương này tập trung ở ba nghĩa vụ chính: (i) giao hàng đúng
địa điểm; (ii) giao hàng đúng người; (iii) giao hàng đúng người
nhận.
2.1.1 Nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm
2.1.1.1 Địa điểm giao hàng
a. Địa điểm giao hàng theo thoả thuận
Theo quy định của Bộ luật Hàng hải Trung Quốc, địa điểm
giao hàng sẽ luôn được chỉ rõ là cảng nơi dỡ hàng (Điều 41, 46, 49).
Bộ luật Hàng hải Việt Nam tại Điều 70 cũng quy định địa điểm giao
hàng là cảng dỡ hàng. Tuy nhiên quy định về địa điểm giao hàng là
cảng dỡ hàng theo pháp luật Trung Quốc và pháp luật Việt Nam có
hạn chế, chưa bao quát được thực tế hoạt động vận chuyển đường
biển cũng như thực tiễn mua bán hàng hoá quốc tế hiện nay. Pháp
luật của một số quốc gia không bắt buộc địa điểm giao hàng nhất
thiết là ở chính cảng dỡ hàng. Công ước Rotterdam cũng quy định
địa điểm giao hàng là địa điểm được các bên thoả thuận (Điều 11,

Điều 12)
b. Thay đổi địa điểm giao hàng đã thoả thuận
Trong một số trường hợp đặc biệt, người vận chuyển được
trao quyền để thay đổi địa điểm giao hàng (điểm đến) mà không bị
coi là vi phạm hợp đồng khi pháp luật có quy định hoặc đáp ứng
được các điều kiện tương ứng trong hợp đồng.
Đoạn 1 Điều 91 Bộ luật Hàng hải Trung Quốc quy định
“nếu do tình trạng bất khả kháng hoặc bất cứ nguyên nhân nào
khác mà không phải do lỗi của người vận chuyển hoặc người thuê
tàu, thì tàu có thể không giao hàng ở cảng đến như đã thoả thuận
trong hợp đồng vận chuyển, trừ khi hợp đồng vận chuyển có thoả
thuận khác, Thuyền trưởng có quyền dỡ hàng ở cảng an toàn hoặc

5


Quốc). Điều này có nghĩa là thời gian giao hàng được xác định là
thời gian do các bên thoả thuận trước trong hợp đồng.
Khoản 3 Điều 76 Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định
“chậm trả hàng là việc hàng hoá không được trả trong khoảng thời
gian đã thoả thuận theo hợp đồng hoặc trong khoảng thời gian hợp
lý cần thiết mà người vận chuyển mẫn cán có thể trả hàng đối với
những trường hợp không có thoả thuận”. Như vậy thì Bộ luật Hàng
hải Việt Nam xác định thời gian giao hàng là thời gian đã thoả thuận
trước, hoặc là khoảng thời gian hợp lý cần thiết mà người vận
chuyển mẫn cán có thể giao hàng,
Tuy nhiên “thời gian hợp lý” trên thực tế rất khó xác định.
Bởi vậy quy định như Bộ luật Hàng hải Trung Quốc về thời gian
giao hàng là hợp lý. .
2.1.2.2 Trách nhịêm pháp lý của ngƣời vận chuyển khi chậm

giao hàng
Khi người vận chuyển vi phạm nghĩa vụ về thời gian giao
hàng thì phải chịu trách nhiệm đối với tổn thất phát sinh bao gồm cả
tổn thất đối với hoá và tổn thất kinh tế từ việc chậm giao hàng trừ
trường hợp được miễn trừ theo quy định tại hợp đồng hoặc quy định
của pháp luật (Điều 50 Bộ luật Hàng hải Trung Quốc). Bộ luật Hàng
hải Việt Nam quy định rất sơ sài về trách nhiệm của người vận
chuyển khi chậm giao hàng theo cách giới hạn những trường hợp
người vận chuyển không phải chịu trách nhiệm chứ không nêu rõ
nguyên tắc chịu trách nhiệm và phạm vi chịu trách nhiệm như Bộ
luật Hàng hải Trung Quốc.
2.1.3
Giao hàng đúng ngƣời nhận
2.1.3.1 Ngƣời nhận hàng và nguyên tắc xuất trình chứng từ
vận chuyển
Quy định về quyền nhận hàng và sự xuất trình B/L đối với
việc giao hàng liên quan chặt chẽ đến vấn đề ai là người được quyền
nhận hàng. Điều 71 Bộ luật Hàng hải quy định: “theo quy định được
ghi trong B/L, người vận chuyển có trách nhiệm giao hàng cho
người được ghi tên trong B/L, theo lệnh của một người, hoặc giao

cho người mang B/L”.
2.1.3.2 Giao hàng theo các chứng từ khác ngoài vận đơn
Bộ luật Hàng hải Trung Quốc chủ yếu đề cập về B/L, tuy
nhiên, đối với những chứng từ khác ngoài B/L, Điều 80 quy định
rằng: “Trong trường hợp người vận chuyển phát hành một chứng từ
khác ngoài B/L như là một bằng chứng của việc nhận hàng hoá
được vận chuyển, các chứng từ này là bằng chứng đầu tiên của việc
kết thúc hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển và việc
tiếp quản hàng hoá của người vận chuyển như được mô tả tại chứng

từ đó. Các chứng từ loại này do người vận chuyển phát hành không
chuyển nhượng được”.
2.1.3.3 Giao hàng trong những trƣờng hợp đặc biệt
Phần này phân tích về các trường hợp giao hàng đặc biệt
như giao hàng cho cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên Bộ Luật Hàng
hải Trung Quốc không giải quyết những tình huống như vậy. Và
cho đến bây giờ, các toà án của Trung Quốc cũng chưa thống nhất
được quan điểm trong quá trình xét xử.
Điều 74 Bộ luật Hàng hải Việt Nam cũng có quy định về
việc người vận chuyển giao hàng cho cơ quan có thẩm quyền:
“Người vận chuyển hoàn thành việc trả hàng cho cơ quan nhà nước
có thẩm quyền hoặc cho bên thứ ba theo quy định của pháp luật
hoặc quy định tại cảng trả hàng”. Tuy nhiên quy định này không
hướng dẫn cụ thể cho người vận chuyển biết trong những trường
hợp nào thì người vận chuyển có quyền giao hàng cho cơ quan có
thẩm quyền? Cụm từ theo “quy định của pháp luật” hoặc “theo quy
định tại cảng trả hàng” thì quá chung chung.
2.1.3.4 Trách nhiệm pháp lý vi phạm nghĩa vụ giao hàng đúng
ngƣời
Pháp luật Trung Quốc không đưa ra quy định cụ thể về
trách nhiệm của người vận chuyển khi vi phạm nghĩa vụ giao hàng
đúng người. Tuy nhiên, trên thực tiễn hàng hải, nếu người vận
chuyển giao hàng cho người có tên trên vận đơn đích danh hoặc cho
người giữ B/L, anh ta phải chịu trách nhiệm trước chủ sở hữu hoặc

6


người có quyền sở hữu hàng hoá; nếu anh ta giao hàng cho người
không có quyền sở hữu hàng hoá, anh ta phải chịu trách nhiệm đối

với việc vi phạm hợp đồng vận chuyển.
Trong trường hợp như vậy, để giảm thiểu rủi ro đối với
hàng hoá, cũng là giảm thiểu trách nhiệm bồi thường của người vận
chuyển do vi phạm nghĩa vụ giao hàng, người vận chuyển, người
vận chuyển thực tế và những người làm công của họ cần có hành
động kịp thời và hợp lý để khắc phục vi phạm này. Một trong những
hành động cần thực hiện sớm nhất có thể là thông báo cho chủ
hàng/người gửi hàng/người nhận hàng/người thuê vận chuyển về
việc vi phạm nghĩa vụ giao hàng để xin chỉ dẫn kịp thời.
Kết luận lại, có thể thấy rằng nghĩa vụ của người vận
chuyển chủ yếu tập trung ở nghĩa vụ giao hàng đúng địa điểm, thời
gian và đúng người nhận. Trên thực tế Bộ luật Hàng hải Trung
Quốc chưa giải quyết thấu đáo các tình huống cũng như trách nhiệm
của người vận chuyển khi vi phạm nghĩa vụ. Và Bộ luật Hàng hải
Việt Nam cũng vậy.
2.2
Giao hàng và giới hạn trách nhiệm của ngƣời vận
chuyển
Giới hạn trách nhiệm có nghĩa là khoảng thời gian của
những nghĩa vụ buộc của người vận chuyển đối với sự an toàn của
hàng hóa. Bộ luật Hàng hải Trung Quốc quy định về giới hạn trách
nhiệm của người vận chuyển căn cứ vào việc phân loại hàng hoá:
Loại 1: liên quan đến việc vận chuyển hàng được đóng
container. Giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển đối loại hàng
hoá này là “toàn bộ quá trình mà người vận chuyển chịu trách
nhiệm về hàng hoá, bắt đầu tính từ thời điểm người vận chuyển
nhận hàng từ cảng xếp hàng cho đến khi hàng hoá được giao tại
cảng dỡ hàng.” (Điều 46 Bộ luật Hàng hải Trung Quốc). Cùng với
quy định này, thời điểm giao hàng trùng với thời điểm kết thúc của
giới hạn trách nhiệm và điểm kết thúc của hợp đồng vận chuyển.

Loại 2: liên quan đến việc vận chuyển hàng hoá không
đóng container. Giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển đối với

loại hàng hoá này bao gồm giai đoạn tính từ “trong suốt thời gian
mà người vận chuyển chịu trách nhiệm về hàng hóa, bắt đầu từ thời
điểm bốc hàng lên tàu cho đến khi hàng được dỡ khỏi tàu”.
Vậy nên, sự khác nhau về giới hạn trách nhiệm của người
vận chuyển giữa hai phương thức vận chuyển đã mang đến sự rắc
rối ở Trung Quốc.
Tuy nhiên không nên đồng nhất khái niệm “giao hàng” và
khái niệm “dỡ hàng”, điều này cần phải được xử lý cẩn thận bởi các
quy định của Bộ luật Hàng hải. Ở Bộ luật Hàng hải Việt Nam giới
hạn trách nhiệm chỉ được đặt ra với loại hợp đồng vận chuyển theo
chứng từ vận chuyển. Theo quan điểm của tôi, cần quy định lại giới
hạn trách nhiệm của người vận chuyển đối với hợp đồng vận
chuyển hàng hoá bằng đường biển nói chung và không nên phân
biệt.
2.3
So sánh nghĩa vụ giao hàng theo Hợp đồng vận chuyển
và Hợp đồng mua bán hàng hoá
Trên thực tế, đặc biệt là trong thương mại quốc tế, hợp
đồng vận chuyển hàng hóa bằng đường biển thường liên quan chặt
chẽ với hợp đồng mua bán hàng hóa. Phần này phân tích mối quan
hệ về sự tương đồng và khác biệt giữa hai loại hợp đồng này xét về
khía cạnh nghĩa vụ giao hàng.

7


-


Trách nhiệm của người vận chuyển khi vi phạm
nghĩa vụ giao hàng;
Miễn trách đối với người vận chuyển khi vi phạm
nghĩa vụ giao hàng;
Giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển theo hợp
đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển;
Một số vấn đề liên quan đến nghĩa vụ giao hàng của
người vận chuyển khác.
Trên cơ sở đó khuyến nghị sửa đổi Chương V Bộ luật
Hàng hải Việt Nam theo hướng như sau:
- Cơ cấu lại chương V - Hợp đồng vận chuyển hàng hoá
bằng đường biển: Việc đầu tiên cần điều chỉnh lại Bộ luật Hàng hải
Việt Nam là việc cơ cấu lại chương V theo hướng không chia làm
hai loại hợp đồng vận chuyển theo chuyến và hợp đồng theo chứng
từ vận chuyển nữa. Theo đó tất cả những chế định về quyền và
nghĩa vụ của người vận chuyển, giới hạn trách nhiệm của người vận
chuyển, trách nhiệm của người vận chuyển khi vi phạm nghĩa vụ,
miễn trách đối với người vận chuyển, thủ tục giao hàng … đều được
áp dụng chung đối với cả hai loại hợp đồng vận chuyển. Trong
trường hợp hợp đồng vận chuyển theo chuyến hoặc hợp đồng vận
chuyển theo chứng từ vận chuyển có những đặc trưng mà không thể
quy định chung được thì sẽ được quy định riêng lẻ thành những điều
khoản đặc biệt hoặc ngoại lệ.
- Khái niệm giao hàng: Để có chế độ pháp lý phù hợp cho
việc giao hàng, khái niệm về giao hàng là yếu tố đầu tiên cần đề
cập. Một khái niệm đầy đủ nhưng vẫn giữ được tầm khái quát là yêu
cầu tất yếu mở đầu cho một chế định pháp lý hoàn chỉnh. Trong đó,
khái niệm về giao hàng cần phải làm rõ một số điểm sau đây, dựa
trên những vướng mắc đã đề cập và phân tích ở trên:

Mô tả hành vi giao hàng;
Bên có nghĩa vụ giao hàng;
Bên có quyền nhận hàng;
Các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc

CHƢƠNG 3
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ XÂY DỰNG CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ
VỀ NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA NGƢỜI VẬN CHUYỂN
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
3.1
Quy định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ giao
hàng
Phần này nêu một cách khái quát về nghĩa vụ giao hàng
của người vận chuyển theo pháp luật Việt Nam, cụ thể là Bộ luật
Hàng hải Việt Nam. Theo đó nêu rõ những hạn chế của Bộ luật
Hàng hải Việt Nam trên cơ sở phân tích những ưu và nhược điểm
của Bộ luật Hàng hải Trung Quốc, làm cơ sở đưa ra những kiến
nghị tại phần tiếp theo.
Những nhận định chủ yếu tập trung vào những vấn đề sau:
- Địa điểm giao hàng;
- Cảng thay thế;
- Quyền thay đổi cảng trả hàng của người gửi hàng;
- Trách nhiệm của người vận chuyển khi đi chệch tuyến
đường;
- Thời gian vận chuyển hợp lý cần thiết;
- Trách nhiệm của người vận chuyển khi giao hàng chậm.
- Trường hợp người vận chuyển được phép giao hàng cho cơ
quan có thẩm quyền;
- Giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển;
3.2

Khuyến nghị xây dựng chế độ pháp lý về nghĩa vụ giao
hàng trong pháp luật Việt Nam
Như đã trình bày và phân tích tại các chương trên, để tránh các
rủi ro pháp lý cũng như những tranh chấp tốn kém, chế độ pháp lý về
nghĩa vụ giao hàng cần làm rõ một số điểm cơ bản sau đây:
- Khái niệm giao hàng;
- Xác định giao hàng là nghĩa vụ của người vận chuyển/người
vận chuyển thực tế;
- Nghĩa vụ giao hàng theo các tiêu chí về thời gian giao hàng,
địa điểm giao hàng và người nhận hàng;

8


giao hàng;
Địa điểm và thời điểm giao hàng.
Qua đó, có thể đề xuất một khái niệm về giao hàng như sau:
“Giao hàng là việc người vận chuyển, người vận chuyển
thực tế chuyển giao hàng hoá cho người nhận hàng được chỉ định
theo hợp đồng vận chuyển hàng hoá hoặc theo chứng từ vận chuyển
tại địa điểm và trong thời gian được quy định tại hợp đồng vận
chuyển hàng hoá hoặc địa điểm và thời điểm khác do các bên thoả
thuận.”
Liên quan đến giao hàng, cần phải làm rõ rằng nghĩa vụ
giao hàng thuộc về bên nào. Cần lưu ý rằng trong Bộ Luật Hàng hải
Việt Nam có khái niệm về người giao hàng tại Điều 74, ngoài định
nghĩa về người vận chuyển và người vận chuyển thực tế. Như vậy,
người giao hàng có thể đồng thời là người vận chuyển, người vận
chuyển thực tế hoặc là một người khác (người cung cấp dịch vụ
logistics, người cung cấp dịch vụ freight forwarding …). Do đó, cần

phải làm rõ giao hàng ở đây là hành vi:
Chuyển quyền chiếm hữu hàng hoá từ người vận
chuyển sang người nhận hàng hoặc người được
người nhận hàng uỷ quyền để nhận hàng (người cung
cấp dịch vụ logistics, người cung cấp dịch vụ freight
forwarding …); hay
Chuyển quyền chiếm hữu hàng hoá từ người giao
hàng (người vận chuyển, người vận chuyển thực tế
và người giao hàng khác) sang người nhận hàng.
Trường hợp hàng hoá được giao trực tiếp từ người vận
chuyển/người vận chuyển thực tế sang người nhận hàng, hai thời
điểm nói trên sẽ trùng nhau. Vấn đề chỉ phát sinh khi người nhận
hàng không trực tiếp nhận hàng mà thông qua một người làm dịch
vụ giao nhận. Từ đó sẽ phát sinh một khoảng thời gian ngắt quãng
giữa thời điểm người vận chuyển giao hàng - người vận chuyển
hoàn thành nghĩa vụ của mình theo hợp đồng vận chuyển hàng hoá
bằng đường biển và thời điểm người nhận hàng (có thể là người

mua theo hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế hoặc một bên thứ ba
do người mua chỉ định) nhận được hàng hoá trên thực tế. Theo xu
hướng hiện nay, cách hiểu thứ nhất có ưu thế hơn do việc giao cho
người nhận hàng không phải là bên mua cũng được coi như giao
trực tiếp cho bên mua vì người nhận hàng này là do bên mua chỉ
định. Quy định như vậy sẽ rút ngắn thời hạn nghĩa vụ của người vận
chuyển, đồng thời phù hợp với thực tiễn pháp lý rằng người vận
chuyển không thể chịu trách nhiệm về rủi ro đối với hàng hoá khi
hàng hoá nằm ngoài quyền chiếm hữu, khả năng kiểm soát và bảo
quản của họ.
Một số ý kiến cho rằng vấn đề này khá rõ ràng và cách
hiểu cũng như áp dụng là chung và phổ biến trong hoạt động hàng

hải quốc tế. Tuy nhiên, chừng nào chưa được pháp điển hoá, những
rủi ro pháp lý dẫn đến cách tranh chấp liên quan tới vấn đề này vẫn
còn tiềm ẩn. Do vậy, việc có một quy phạm pháp lý rõ ràng điều
chỉnh sẽ là sự chấm dứt cho các tranh chấp tiềm ẩn về vấn đề nêu
trên.
Một điểm khác cần lưu ý là nghĩa vụ vận chuyển được
phân chia cho người vận chuyển và người vận chuyển thực tế. Do
vậy, nghĩa vụ giao hàng cũng cần phải được phân chia tương tự. Cụ
thể:
Trách nhiệm đối với vi phạm nghĩa vụ giao hàng
thuộc bên nào (giao hàng thiếu, giao sai người, giao
chậm…);
Phân chia trách nhiệm trong trường hợp vi phạm nói
trên.
Theo nguyên tắc, người nhận hàng có quyền khiếu nại
người vận chuyển, do không có hợp đồng trực tiếp với người vận
chuyển thực tế. Từ đó, người vận chuyển có quyền khiếu nại người
vận chuyển thực tế trên cơ sở hợp đồng giữa họ. Song để tránh hiểu
lầm và tranh chấp trong quá trình (i) người bán hoặc người mua
khiếu nại người vận chuyển trên cơ sở hợp đồng vận chuyển và (ii)
người vận chuyển khiếu nại người vận chuyển thực tế trên cơ sở

9


hợp đồng thuê vận chuyển giữa họ, cần làm rõ quyền khiếu nại và
trách nhiệm của mỗi bên, cũng như nguyên tắc bồi thường kịp thời
và nguyên tắc liên đới chịu trách nhiệm giữa người vận chuyển và
người vận chuyển thực tế.
Tóm lại, việc xây dựng một khái niệm phù hợp về giao

hàng có thể coi là một bước tiến quan trọng trong xây dựng pháp
luật trên thực tế hiện nay của đa số các hệ thống pháp luật, điều ước
quốc tế cũng như tập quán quốc tế phổ biến, tuy chú trọng tới các
chế định khác song lại bỏ qua chế định về giao hàng mà chỉ coi đó
là một bước đương nhiên trong toàn bộ nghĩa vụ của người vận
chuyển theo hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển.
- Xác định giao hàng là nghĩa vụ của người vận chuyển:
Hiện nay Bộ luật Hàng hải Việt Nam chưa coi giao hàng là một
nghĩa vụ của người vận chuyển. Do vậy, để nâng cao trách nhiệm
của người vận chuyển cũng như giảm sự tranh cãi và tranh chấp trên
thực tế, Bộ luật Hàng hải Việt Nam nên khẳng định giao hàng là
nghĩa vụ của người vận chuyển bằng những quy phạm trực tiếp.
Có thể tham khảo quy định của Công ước Rotterdam như
sau: Điều 11 - Vận chuyển và giao hàng: “Người vận chuyển sẽ
theo quy định tại Công ước này và theo nội dung của hợp đồng vận
chuyển, sẽ vận chuyển hàng hoá tới điểm đến và giao chúng cho
người vận chuyển”. Điều này là điều đầu tiên của Chương 4 - Nghĩa
vụ của người vận chuyển. Quy định như vậy giúp cho các bên liên
quan đến hợp đồng vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đều xác
định được giao hàng là một nghĩa vụ của người vận chuyển và
không phải tranh cãi trong quá trình đàm phán cũng như thực hiện
hợp đồng vận chuyển nữa.
- Nghĩa vụ giao hàng theo các tiêu chí về thời gian giao
hàng, địa điểm giao hàng và người nhận hàng:
Về địa điểm giao hàng: Bộ luật Hàng hải Việt Nam nên
quy định là địa điểm mà được các bên thoả thuận việc trả hàng.
Về cảng thay thế: Điều 109 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
quy định về cảng thay thế như sau: “Khi tàu biển không vào được

cảng trả hàng do những nguyên nhân không thể vượt qua được và

không có khả năng chờ đợi để vào cảng trả hàng sau một thời gian
hợp lý thì người vận chuyển được phép đưa tàu biển vào một cảng
thay thế an toàn nhất và phải thông báo cho người thuê vận chuyển
biết để xin chỉ thị”.
Cần sửa đổi điều này theo hướng áp dụng chung cho cả hai
loại hợp đồng vận chuyển với nội dung “thuyền trưởng có quyền dỡ
hàng ở cảng an toàn hoặc cảng gần cảng đến và hợp đồng sẽ được
coi là đã được thực hiện đầy đủ và thuyền trưởng có nghĩa vụ thông
báo cho người thuê vận chuyển biết”.
Về quyền thay đổi cảng trả hàng của ngƣời gửi hàng:
Điều 92 Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định: người gửi hàng có
quyền thay đổi cảng trả hàng sau khi chuyến đi đã bắt đầu nhưng
phải đáp ứng được hai điều kiện, một là người gửi hàng phải bồi
thường mọi tổn thất và chi phí liên quan, hai là chỉ được thực hiện
quyền này nếu việc thực hiện không gây ra sự chậm trễ đáng kể cho
việc bắt đầu chuyến đi hoặc nếu gây ra sự chậm trễ thì phải được
người vận chuyển đồng ý.
Tuy nhiên như phân tích ở trên, việc thay đổi điểm đến
theo yêu cầu của người thuê vận chuyển sau khi chuyến đi đã khởi
hành sẽ gây ra những thiệt hại cho người vận chuyển cũng như
những người thuê vận chuyển khác cùng chuyến đi. Bởi vậy cần
quy định một điều kiện là không được gây chậm trễ đáng kể cho
toàn bộ chuyến đi hoặc nếu gây chậm trễ thì phải được người vận
chuyển đồng ý.
Về thời gian vận chuyển hợp lý cần thiết: Khoản 3 Điều
76 Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định “chậm trả hàng là việc
hàng hoá không được trả trong khoảng thời gian đã thoả thuận theo
hợp đồng hoặc trong khoảng thời gian hợp lý cần thiết mà người
vận chuyển mẫn cán có thể trả hàng đối với những trường hợp
không có thoả thuận”.

Tuy nhiên, nghĩa vụ giao hàng trong một khoảng thời gian
hợp lý có thể gây ra một số vấn đề. Trước hết là sự khó khăn để

10


định nghĩa nó. Thế nào là thời gian hợp lý trong vận chuyển. Bao
nhiêu ngày được coi là chậm? Hơn nữa, đưa ra vấn đề về thời gian
hợp lý đối với người vận chuyển có vẻ không phù hợp với thực tiễn
hàng hải. Quan điểm của tôi cho rằng nếu thời gian đối với hàng
hoá là rất quan trọng thì người thuê vận chuyển phải là quy định rõ
thời gian cụ thể hoặc khoảng thời gian cho hành trình vận chuyển.
Bởi vậy, Bộ luật Hàng hải Việt Nam nên bỏ quy định về “khoảng
thời gian hợp lý cần thiết mà người vận chuyển mẫn cán có thể trả
hàng đối với những trường hợp không có thoả thuận”.
Về các trƣờng hợp ngƣời vận chuyển đƣợc phép giao
hàng cho cơ quan có thẩm quyền: Bộ luật Hàng hải Việt Nam cần
quy định các trường hợp người vận chuyển được phép giao hàng
cho cơ quan có thẩm quyền ví dụ như: người nhận hàng từ chối
nhận hàng; người nhận hàng không đến nhận hàng trong một
khoảng thời gian nhất định; có sự sai lệch về thông tin người nhận
hàng trên vận đơn do người nhận hàng xuất trình và hợp đồng vận
chuyển; người nhận hàng không xuất trình vận đơn và không tự
chứng minh được tư cách người nhận hàng hợp pháp; vận đơn gốc
bị mất; người thuê tàu không chỉ dẫn về việc giao hàng khi người
vận chuyển yêu cầu …
Đồng thời Bộ luật Hàng hải Việt Nam cũng cần phải quy
định rõ về thủ tục giao hàng cho cơ quan có thẩm quyền và khẳng
định người vận chuyển sẽ được dỡ bỏ trách nhiệm đối với hàng hoá
khi hoàn thành việc giao hàng cho cơ quan có thẩm quyền.

Về thủ tục thông báo việc chậm trả hàng: Bộ luật Hàng
hải Việt Nam cũng có một quy định liên quan đến nội dung tương tự
của Bộ luật Hàng hải Trung Quốc nhưng diễn đạt khác đi: “Người
vận chuyển không phải bồi thường đối với tổn thất phát sinh do việc
chậm trả hàng, trừ trường hợp thông báo về việc chậm trả hàng
bằng văn bản được gửi đến người vận chuyển trong vòng 60 ngày
kể từ ngày hàng hoá lẽ ra phải giao theo thoả thuận trong hợp
đồng”. (Khoản 4 Điều 96 Bộ luật Hàng hải Việt Nam).
Điều này quy định về thủ tục thông báo/khiếu nại về việc

chậm giao hàng nhưng giới hạn cho người có quyền khiếu nại thời
hạn tối đa 60 ngày để thực hiện việc thông báo đồng thời phải thoả
mãn hình thức thông báo phải bằng văn bản. Theo quan điểm của
tôi, khoản 4 Điều 96 Bộ luật Hàng hải Việt Nam là bất hợp lý. Có
thể nhà làm luật có ý bảo vệ quyền lợi cho người vận chuyển những
sẽ không hợp lý ở chỗ: nghĩa vụ giao hàng đúng thời gian đã được
nêu rõ trong hợp đồng, người vận chuyển có bổn phận phải biết
mình có đang vi phạm nghĩa vụ này hay không mà không cần phải
có sự nhắc nhở hoặc thông báo của người có quyền đối với hàng
hoá. Nếu người có quyền không thông báo trong khoảng thời gian
luật định thì người vận chuyển không phải chịu trách nhiệm đối với
việc chậm giao hàng. Bộ luật Hàng hải Việt Nam cần phải bỏ quy
định này để bảo vệ quyền lợi cho người có quyền đối với hàng hoá.
- Giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển: Nêu chi
tiết về quy định liên quan đến giới hạn trách nhiệm của người vận
chuyển, Điều 74 Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định “Trách nhiệm
của người vận chuyển phát sinh từ khi người vận chuyển nhận hàng
tại cảng nhận hàng, được duy trì trong suốt quá trình vận chuyển và
chấm dứt khi kết thúc việc trả hàng tại cảng trả hàng”. Bộ luật
Hàng hải Việt Nam chỉ quy định về giới hạn trách nhiệm của người

vận chuyển đối với hợp đồng vận chuyển theo chứng từ vận chuyển
mà không có quy định đối với hợp đồng vận chuyển theo chuyến.
Bởi vậy trên cơ sở không phân chia hai loại hợp đồng vận chuyển
thì quy định về giới hạn trách nhiệm của người vận chuyển sẽ được
áp dụng chung, theo đó, cần sửa đổi lại về thời điểm kết thúc trách
nhiệm của người vận chuyển là thời điểm hoàn thành việc trả hàng
tại địa điểm đã được xác định.
- Trách nhiệm của người vận chuyển khi vi phạm nghĩa
vụ giao hàng:
Về trách nhiệm của ngƣời vận chuyển khi đi chệch
tuyến đƣờng: Điều 108 Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định về sự
chệch tuyến đường như sau: “Người vận chuyển không bị coi là vi
phạm hợp đồng nếu tàu biển phải đi chệch tuyến đường để cứu

11


người gặp nạn trên biển hoặc vì lý do chính đáng khác. Người vận
chuyển không phải chịu trách nhiệm bồi thường các tổn thất hàng
hoá phát sinh do tàu biển phải đi chệch tuyến đường trong các
trường hợp này ”. Cũng giống như Bộ luật Hàng hải Trung Quốc,
Bộ luật Hàng hải Việt Nam cũng không quy định trường hợp tàu
biển đi chệch tuyến đường nhưng không có lý do chính đáng thì có
phải chịu trách nhiệm đối với các tổn thất hàng hoá hay không, hoặc
nếu không có tổn thất hàng hoá phát sinh thì có phải chịu trách
nhiệm bồi thường đối với những thiệt hại kinh tế đối với người thuê
vận chuyển và người nhận hàng hay không? Hơn nữa, nếu trong
trường hợp tàu đi chệch hướng có lý do chính đáng thì người vận
chuyển ngoài việc không phải chịu trách nhiệm bồi thường các tổn
thất hàng hoá thì có phải bồi thường đối với những thiệt hại kinh tế

đối với người thuê vận chuyển và người nhận hàng hay không?
Điều này Bộ luật Hàng hải Trung Quốc và Bộ luật Hàng hải Việt
Nam cũng không nêu rõ. Do vậy, cần bổ sung vào Bộ luật Hàng hải
Việt Nam quy định trong trường hợp người vận chuyển đi trệch
tuyến đường mà không có lý do chính đáng thì phải bồi thường tổn
thất về hàng hoá và tổn thất kinh tế cho bên bị tổn thất.
Về trách nhiệm của ngƣời vận chuyển khi giao hàng
chậm: Bộ luật Hàng hải Việt Nam quy định rất sơ sài về trách
nhiệm của người vận chuyển khi chậm giao hàng theo hướng giới
hạn những trường hợp người vận chuyển không phải chịu trách
nhiệm tại khoản 3 Điều 78 như sau:
“Người vận chuyển không phải chịu trách nhiệm đối với
việc chậm trả hàng trong những trường hợp sau:
- Đi chệch tuyến đường khi đã có sự chấp thuận của người
gửi hàng;
- Nguyên nhân bất khả kháng;
- Phải cứu người hoặc trợ giúp tàu khác đang gặp nguy hiểm
khi tính mạng con người trên tàu có thể bị đe doạ;
- Cần thời gian để cấp cứu cho người thuyền viên hoặc người
trên tàu”.

Như vậy, khi người vận chuyển giao hàng chậm do những
lý do khác những trường hợp được nêu trên đây thì sẽ phải chịu
trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu suy luận theo cách này thì sẽ không rõ
nghĩa ở vấn đề là người vận chuyển sẽ phải chịu những trách nhiệm
gì? Có bao gồm cả trách nhiệm bồi thường những thiệt hại đối với
hàng hoá và thiệt hại về kinh tế đối với người thuê vận chuyển và
người nhận hàng hay không? Bộ luật Hàng hải Việt Nam cần quy
định rõ về trách nhiệm của người vận chuyển khi giao hàng chậm
mà không có lý do chính đáng thì phải bồi thường tổn thất về hàng

hoá và tổn thất kinh tế đối với bên bị tổn thất.
Về trách nhiệm của ngƣời vận chuyển khi giao hàng sai
ngƣời:
Bộ luật Hàng hải Việt Nam không có quy định về trách
nhiệm của người vận chuyển khi giao hàng sai người. Bởi vậy cần
phải quy định rõ trách nhiệm của người vận chuyển trong trường
hợp này. Theo đó, người vận chuyển phải chịu trách nhiệm bồi
thường tổn thất đối với hàng hoá và thiệt hại về kinh tế đối với
người bị thiệt hại khi giao hàng sai người nhận.

12


KẾT LUẬN
Ngành hàng hải thế giới với lịch sử phát triển hàng trăm
năm cho đến nay vẫn nắm giữ vai trò quan trọng nhất trong các loại
hình vận chuyển. Tuy nhiên, việc thiếu vắng một khái niệm, cũng
như một chế định chi tiết về “giao hàng”, một vấn đề tưởng chừng
có thể xác lập và giải thích bằng thực tiễn thương mại, lại tiềm ẩn
nhiều vướng mắc và tranh chấp đối với cả các hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế và các hợp đồng vận chuyển. Như đã trình bày
trong toàn bộ luận văn, ngay cả các quốc gia có ngành hàng hải phát
triển là có lịch sử lập pháp lâu đời cũng vẫn rơi vào tình trạng thiếu
vắng chế định “giao hàng” với tư cách một chế định độc lập và đầy
đủ trong hệ thống pháp luật của họ. Với hệ thống thông luật
(Common Law), việc này có thể giải quyết phần nào bằng các án lệ.
Song với hệ thống luật Châu Âu lục địa (Civil Law), việc thiếu vắng
quy phạm pháp luật thành văn như vậy đặt ra rất nhiều vấn đề mà
việc giải quyết chúng khiến các nhà làm luật, các luật sư, chuyên
gia, các doanh nghiệp và các đối tượng khác có liên quan tốn khá

nhiều thời gian, giấy mực và công sức cho những cuộc tranh luận cả
về mặt pháp lý lẫn thương mại.
Việc thiết lập một bộ tiêu chí nhận diện giao hàng sẽ chỉ ra
những vấn đề nhất định trong thực tiễn và làm giảm sự mâu thuẫn
và tranh chấp.
Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, việc đi sâu nghiên
cứu một chế định phức tạp về cả khía cạnh pháp lý lẫn thương mại
như chế định về giao hàng là điều rất khó khăn. Do vậy, ý kiến đóng
góp của những ai quan tâm tới vấn đề này là vô cùng qúy báu đối
tới tôi trong việc bổ sung những thiếu sót về kiến thức cũng như
phương pháp nghiên cứu và phân tích vấn đề. Tôi xin trân trọng
cảm ơn.

13


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ HỒNG HẠNH

NGHĨA VỤ GIAO HÀNG CỦA NGƢỜI VẬN CHUYỂN
TRONG HỢP ĐỒNG VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ BẰNG
ĐƢỜNG BIỂN THEO PHÁP LUẬT TRUNG QUỐC VÀ
KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Hà Nội – 2010

14


Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Diến

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Luận văn đƣợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi ..... giờ ....., ngày ..... tháng ..... năm 20…..

Có thể tìm hiểu luận văn tại
Trung tâm tƣ liệu Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm tƣ liệu – Thƣ viện Đại học Quốc gia Hà Nội

15


Thank you for evaluating AnyBizSoft PDF
Merger! To remove this page, please
register your program!
Go to Purchase Now>>


AnyBizSoft

PDF Merger
 Merge multiple PDF files into one
 Select page range of PDF to merge

 Select specific page(s) to merge
 Extract page(s) from different PDF
files and merge into one



×