Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

BÀI THU HOẠCH CUỐI KHÓA LỚP QLGD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.29 KB, 15 trang )

Đề bài ; Anh Chị hãy vận dụng kiến thức về khoa học Quản lý giáo dục đã
có để phân tích câu nhận định của Peter Drucker trong thực tiễn quản lý,
lãnh đạo cơ sở giáo dục đang công tác:
“Management is doing things right; leadership is doing the right things”.
Từ đó, rút ra bài học quản lý giáo dục.
Bài làm
Nguồn gốc phát triển loài người là lao động của cá nhân và lao động
chung. C. Mác đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến
một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức
năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất... Một người
độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng”. Lao động chung cần có tổ chức và thống nhất nhằm tạo ra sức
mạnh để đạt được mục đích chung. Trong lịch sử phát triển loài người xuất hiện
một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức - điều khiển con người với các
hoạt động theo những yêu cầu nhất định; dạng lao động đó được gọi là quản lý.
Quản lý là một chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất lao động của xã hội.
Từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu mà
họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì nhu cầu quản lý
cũng hình thành như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân
hướng tới những mục tiêu chung. Xã hội phát triển qua các phương thức sản
xuất từ cộng sản nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại, trong đó quản lý luôn
là một thuộc tính tất yếu lịch sử khách quan gắn liền với xã hội ở mọi giai đoạn
phát triển của nó. Thuộc tính đó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội đó là
hoạt động lao động tập thể - lao động xã hội của con người. Trong quá trình lao
động con người buộc phải liên kết lại với nhau, kết hợp lại thành tập thể. Điều
đó đòi hỏi phải có sự tổ chức, phải có sự phân công và hợp tác trong lao động,
phải có sự quản lý. Như vậy, quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính
chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm
đạt được mục tiêu chung đề ra. Mặc dù quản lý là một thuộc tính tất yếu gắn liền
với xã hội nhưng chỉ khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì quản lý


mới được tách ra thành một 2 chức năng riêng của lao động xã hội; dần dần hình
thành những tập thể, những tổ chức và cơ quan chuyên hoạt động quản lý - hệ
thống quản lý (chủ thể quản lý). Xã hội càng phát triển về trình độ và quy mô
1


sản xuất, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật công nghệ, thì trình độ quản lý, tổ chức,
điều hành và công nghệ quản lý cũng càng được nâng lên và phát triển không
ngừng. Quản lý là một trong những hoạt động vừa khó khăn, phức tạp; vừa là
một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển xã hội, suy
thoái hay thịnh vượng của một tổ chức, một quốc gia, thậm chí là toàn cầu. Sự
phát triển xã hội dựa vào nhiều yếu tố: sức lao động, tri thức, nguồn vốn, tài
nguyên, năng lực quản lý. Trong đó năng lực quản lý được xếp hàng đầu. Năng
lực quản lý là sự tổ chức, điều hành, kết hợp tri thức với việc sử dụng sức lao
động, nguồn vốn và tài nguyên để phát triển xã hội. Quản lý tốt thì xã hội phát
triển, ngược lại nếu buông lỏng hay quản lý tồi thì sẽ mở đường cho sự rối loạn,
kìm hãm sự phát triển xã hội. Vậy quản lý là gì?
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, ví dụ:
- Mary Parker Follet: "Quản lý là nghệ thuật khiến cho công việc được
thực hiện thông qua người khác".
- Robert Albanese: "Quản lý là một quá trình kỹ thuật và xã hội nhằm sử
dụng các nguồn, tác động tới hoạt động của con người và tạo điều kiện thay đổi
để đạt được mục tiêu của tổ chức".
- Harolk Kootz & Cyryl O'Donell: "Quản lý là việc thiết lập và duy trì
môi trường nơi mà cá nhân làm việc với nhau trong từng nhóm có thể hoạt động
hữu hiệu và có kết quả, nhằm đạt được các mục tiêu của nhóm"
- Robert Kreitner: "Quản lý là tiến trình làm việc với và thông qua người
khác để đạt các mục tiêu của tổ chức trong một môi trường thay đổi. Trong tâm
của tiến trình này là kết quả và hiệu quả của việc của việc sử dụng các nguồn lực
giới hạn".

- Harol Koontz: "Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu đã đề
ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động của những
người khác" (Những vấn đề cốt yếu của quản lý. NXB khoa học - Kỹ thuật,
1993).
- Nguyễn Minh Đạo: "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng
dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục
tiêu đã đề ra" (Cơ sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997).
- "Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và
hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các
2


nguồn lực của tổ chức" (Khoa học quản lý, tập I, Trường ĐH KTQD, Hà Nội
2001).
Từ những quan niệm này cho thấy, quản lý là một hoạt động liên tục và
cần thiết khi con người kết hợp với nhau trong tổ chức. Đó là quá trình tạo nên
sức mạnh gắn liền các hoạt động của các cá nhân với nhau trong một tổ chức
nhằm đạt được mục tiêu chung.
- Lãnh đạo: Nghĩa rộng là: Sự dẫn đường chỉ lối, dẫn dắt, điều khiển (đề
ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện) mọi hoạt động của cá
nhân và tổ chức nào đó nhằm đạt đến mục tiêu nhất định. Nghĩa hẹp: là sự tác
động điều khiển trực tiếp những hoạt động của con người và xã hội nhằm đạt
đến mục đích cụ thể đã vạch ra.
- Quản lý, Lãnh đạo, Chỉ huy đều là hoạt động chỉ đạo, định hướng, điều
khiển thực hiện một công việc theo một mục đích nhất định. Quản lý, lãnh đạo,
chỉ huy đều là sự tác động có hướng đích, có tổ chức của chủ thể (quản lý, lãnh
đạo, chỉ huy) tới đối tượng ( bị quản lý, lãnh đạo, chỉ huy) để đạt mục tiêu đã đề
ra. Hoạt động này đều là tác động điều khiển có hướng đích, có mục tiêu xác
định, thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận đó là: chủ thể ( là cá nhân hoặc tổ
chức làm nhiệm vụ quản lý, lãnh đạo, chỉ huy ) và đối tượng bị điều khiển ( là

bộ phận bị quản lý, lãnh đạo, chỉ huy ).
- Đều gắn với con người, quan hệ người với người, giữa chủ thể và đối
tượng.
- Xét về bản chất nội dung thì Quản lý, Lãnh đạo, Chỉ huy cũng đều chính
là hoạt động bao gồm quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định,
điều khiển hoạt động của đơn vị tổ chức đạt đến mục đích đã đặt ra.
- Xét về hình thức và phương pháp thì đều là đều là sự vận động của
thông tin, sự điều khiển, định hướng, dựa trên cơ sở tác động chủ quan của chủ
thể điều khiển tới đối tượng bị điều khiển thông qua hệ thống các công cụ,
phương tiện.
- Dưới góc độ hoạt động cụ thể thì cả quản lý, lãnh đạo và chỉ huy không
phải là hoạt động ra quyết định đơn thuần là định hướng chung chung, mà cả ba
hoạt động này còn phải trực tiếp chỉ đạo mỗi tổ chức cá nhân con người cụ thể,
từng khâu công tác cụ thể trong phạm vi chức trách của mình. Thậm chí có
nhiều khâu công tác để đạt sự tác động có hướng đích và có tổ chức người quản
3


lý, người lãnh đạo và người chỉ huy phải giữ vị trí trực tiếp thực hiện, do vậy
chúng đồng nghĩa với hoạt động định hướng điều khiển chỉ đạo thực tiễn.
- Quản lý, lãnh đạo và chỉ huy có nhiều chỗ tương đồng, đều phục vụ
chung một mục đích, gần như bổ sung cho nhau, đan xen nhau mà không cản trở
nhau. Trong một số trường hợp cụ thể thì quản lý, lãnh đạo, chỉ huy có thể gắn
liền với nhau trong một chủ thể và trong một quá trình, cùng có một quá trình
tác động và nội dung, phạm vi hoạt động giống nhau. Trong thực tế thường khó
có sự phân định tách bạch giữa ba loại công tác này, đặc biệt với mô hình tổ
chức nhỏ, không có nhiều sự phân cấp, phân hệ rõ nét.
- Quản lý, lãnh đạo và chỉ huy đều có vai trò quan trọng đặc biệt trong đời
sống xã hội con người. Mục đích của nó là tạo sự tập trung thống nhất chặt chẽ,
phát huy tối đa khả năng của tổ chức, đơn vị, tập thể, thống nhất ý chí và các

nguồn lực, phát huy “tính trồi” của tổ chức để đạt mục tiêu đề ra với hiệu quả
cao nhất.
Sự khác nhau:
Các nhà nghiên cứu chưa thống nhất được về một định nghĩa rõ ràng, rành
mạch cho ba khái niệm này, chúng không đồng nhất và được giải thích tuỳ thuộc
vào từng lĩnh vực nghiên cứư, xong đều bao hàm ý tác động và điều khiển
nhưng khác nhau về mức độ và phương thức tiến hành, đều có chung khẳng
định: quản lý, lãnh đạo và chỉ huy là ba công việc khác nhau, thậm chí khác
nhau rất cơ bản. Theo Từ điển tiếng Việt, "lãnh đạo" là đề ra chủ trương và tổ
chức động viên thực hiện, còn "quản lý" là tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo các yêu cầu đã đề ra, còn “ chỉ huy” là điều khiển hoạt động của một tập
thể, Hoặc trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”.
Như vậy có thể hiểu, lãnh đạo quyết định đường lối, sách lược, gắn với những
vấn đề tổng quát, còn quản lý là tổ chức thực hiện, xử lý những vấn đề rất thực
tế, chỉ huy là hoạt động tổ chức thực hiện nhiệm vụ cụ thể trong thời gian cấp
bách, khẩn trương. Lãnh đạo nặng về lĩnh vực chính trị, chủ trương, đường lối,
bao quát; còn quản lý nặng về lĩnh vực hành chính, điều hành, chấp hành, chỉ
huy là hoạt động điều hành nhưng mang tính cụ thể cấp bách, đòi hỏi phục tùng
tuyệt đối. So sánh nội hàm và ngoại diên của các khái niệm trên có thể thấy:
- Khác về phương thức tác động và hiệu lực:
+ Lãnh đạo: sử dụng chủ yếu là phương pháp động viên, thuyết phục, gây
ảnh hưởng, để ra nguyên tắc, mô hình
4


+ Quản lý dựa vào pháp luật và các thể chế, quy chế, nguyên tắc, mô hình
đã định trước.
+ Chỉ huy sử dụng thường dựa vào phương pháp quyền uy, mệnh lệnh,
điều lệ, kỷ luật.
+ Về hiệu lực, lãnh đạo tập hợp các cá nhân đối tượng bị lãnh đạo thành

tổ chức chặt chẽ và làm cho ảnh hưởng của lãnh đạo lan tỏa ra trong toàn tổ
chức; còn quản lý và chỉ huy thường thông qua hoạt động của điều hành, tác
động trực tiếp đến các các nhân, nhóm của tổ chức, hiệu lực là trực tiếp.
- Khác về nội dung chức năng:
+ Lãnh đạo gồm có: xác định phương hướng, mục tiêu lâu dài, lựa chọn
chủ trương chiến lược, điều hòa phối hợp các mối quan hệ và động viên thuyết
phục con người.
+ Quản lý bao gồm các việc: xây dựng kế hoạch, sắp xếp tổ chức, chỉ đạo
điều hành và kiểm soát tiến trình hoạt động.
+Chỉ huy bao gồm sử dụng nhiệm vụ quyền hạn đặc biệt được giao một
cách độc lập, chủ động, yêu cầu cấp dưới phải chấp hành phục tùng tuyệt đối.
- Khác về phạm vi tác động và hình thức thể hiện:
+ Quản lý: là một phạm trù rộng, để tiến hành quản lý, chủ thể quản lý
phải thực hiện đồng bộ rất nhiều chức năng, trong đó có chức năng lãnh đạo. để
chủ thể thực hiện tổ chức liên kết và tác động lên đối tượng bị quản lý để thực
hiện các định hướng tác động dài hạn đã được định trước. Quản lý là lãnh đạo
trong trường hợp mục tiêu cụ thể hơn và chuẩn xác hơn, quản lý tập hợp các
nguồn lực, điều khiển tổ chức để thực hiện mục tiêu, định hướng thành hiện
thực( mục tiêu đã được định trước của hoạt động lãnh đạo ). Ngoài quản lý con
người, đối tượng của quản lý còn bao gồm tài chính, vật chất. Quản lý không chỉ
xử lý quan hệ giữa người với người mà còn phải xử lý mối quan hệ tài chính và
vật chất, giữa vật chất và con người, giữa con người và tài chính, các nguồn lực
khác. Phạm vi mà quản lý đề cập đến rộng hơn nhiều so với lãnh đạo và chỉ huy.
+ Lãnh đạo: hoạt động điều khiển của chủ thể lãnh đạo đối với đối tượng
bị lãnh đạo ở tầm vĩ mô( hoạt động lãnh đạo là hoạt động có tầm vĩ mô) . Lãnh
đạo là việc đưa ra các phương châm, nguyên tắc, chính sách hoạt động, xây
dựng những quyết sách lớn ở tầm vĩ mô được thực hiện trong một không gian
rộng lớn bao quát và một khoảng thời gian tương đối dài. Thực hiện những công
việc chung, lớn, theo đuổi hiệu quả của toàn bộ tổ chức, lực lượng. Lãnh đạo là
5



quản lý nhưng mục tiêu xa hơn rộng hơn, khái quát cụ thể hơn, đồng thời lãnh
đạo cũng là chỉ huy khi yêu cầu điều khiển là cấp bách, khẩn trương và mang
tính thời điểm cụ thể. Lãnh đạo là một chức năng của quản lý, thường được gọi
là chức năng lãnh đạo, còn chức năng khác của quản lý lại không phải là lãnh
đạo. Ví dụ: công việc mà những người tham mưu trong tổ chức làm là công tác
quản lý, nhưng không phải là công tác lãnh đạo. Quản lý ở đây chỉ hành vi quản
lý, công tác lãnh đạo vừa bao gồm hành vi quản lý, vừa bao gồm hoạt động
nghiệp vụ khác. Thông thường, lãnh đạo và chỉ huy chủ yếu là lãnh đạo con
người, xử lý quan hệ giữa người với người, đặc biệt là quan hệ cấp trên và cấp
dưới. Đây là vấn đề cốt lõi trong hoạt động quản lý.
+ Chỉ huy: Là tổ chức thực hiện làm sao để chủ trương, đường lối, kế
hoạch do lãnh đạo đặt ra được áp dụng trong khi thực thi một nhiệm vụ nhất
định. Đi sâu vào việc chấp hành, tổ chức thực hiện một công việc cụ thể (ở tầm
vi mô). Gắn liền với hoạt động cụ thể, nhiệm vụ cấp bách khẩn trương và cần
tập trung sức lực trí tuệ để thực hiện trong một thời gian nhất định (ở khoảng
thời gian tương đối ngắn ). Thực hiện những công việc cụ thể, rõ ràng, tính kỷ
luật chặt chẽ, thường mang đặc trưng công tác vũ trang, và trong điều kiện khó
khăn yêu cầu phức tạp, thời gian gấp gáp ( ví dụ như chỉ huy bộ đội, chỉ huy
công an, chỉ huy công trình đang thi công, chỉ huy phòng chống bão lụt, tìm
kiếm cứu nạn....). Trong thực tế chỉ huy thường gắn với vai trò lãnh đạo trực
tiếp.
III. Kết luận:
Qua phân tích trên cho thấy, để hoạt động của một tổ chức cũng như một
xã hội ổn định hài hoà và hiệu quả cũng đều cần cả lãnh đạo, chỉ huy và quản lý.
Tuy vậy, lãnh đạo phải đi trước một bước, biết nhìn xa trông rộng, vạch đường
chỉ lối và nói chung, không thể có sai lầm hệ thống; lại phải luôn theo dõi tiến
trình quản lý, chỉ huy bằng nhận thức chiến lược và đánh giá kết quả chung,
không chỉ của quá trình quản lý cũng như hoạt động chỉ huy cụ thể.

9.1 Khái niệm lãnh đạo
9.1.1 Một số quan niệm khác nhau về lãnh đạo
- Có nhiều quan niệm khác nhau về lãnh đạo. Tùy theo góc độ tiếp cận
khác nhau mà các tác giả đưa ra những quan niệm của riêng mình:
+ Hemphill: lãnh đạo là hành vi chỉ đạo các hoạt động của nhóm để đạt
mục tiêu.
6


+ J. Tarda: Lãnh đạo là dạng hoạt động đặc biệt của quan hệ quyền lực, trong
đó một thành viên của nhóm có quyền yêu cầu, đòi hỏi các thành viên khác thực
hiện nhiệm vụ chung.
+ George Tery: Lãnh đạo là hoạt động gây ảnh hưởng đến con người để
họ phấn đấu tự nguyện cho các mục tiêu của tổ chức.
+ H. Koontz và các tác giả: Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người
sao cho họ cố gắng một cách tự giác và hăng hái thực hiện mục tiêu chung của
tổ chức.
+ TheoTừ điển tiếng Việt: Lãnh đạo là chỉ ra đường lối, chủ trương và tổ
chức, động viên thực hiện
+ Tác giả Nguyễn Bá Dương: Lãnh đạo là sự định hướng bằng cách vạch
ra những đường lối, chủ trương, chính sách lớn.
Mỗi quan niệm đều có cơ sở và theo những góc độ nhất định nhưng chưa
đầy đủ. Chúng mới chỉ phản ánh được một mặt của khái niệm lãnh đạo.
- Thực chất mọi sự khác biệt trong khái niệm lãnh đạo chủ yếu là trong
quan hệ với khái niệm quản lý. Thực tế, việc phân định rạch ròi ranh giới giữa
lãnh đạo và quản lí là rất khó khăn. Hiện nay ở Việt Nam, khi giải đáp mối quan
hệ giữa quản lý và lãnh đạo đã hình thành 3 nhóm quan điểm:
+ Quan điểm 1: lãnh đạo và quản lý là đồng nhất, không phân biệt
+ Quan điểm 2: lãnh đạo và quản lý là khác nhau hoàn toàn
+ Quan điểm 3: lãnh đạo và quản lý vừa đồng nhất vừa khác biệt

Trong đó, quan niệm thứ 3 hợp lý hơn cả. Sự giống và khác nhau giữa lãnh đạo
và quản lý được thể hiện ở các phương diện cụ thể như:
QUẢN LÝ
Yêu cầu những người khác phải hoàn
thành nhiệm vụ
Điều hành hoạt động của tổ chức theo
điều lệ, nội quy, quy định.v.v
Là vị trí cụ thể được đặt ra để điều
hành
Làm các việc cho đúng
Là người sáng tạo lần thứ 2
Quan tâm đến hiệu lực và kết quả

LÃNH ĐẠO
Truyền cảm hứng cho nhân viên thông
qua các ý tưởng mới
Hoạt động vựơt ra khỏi phạm vi các
quy định để tìm kiếm sự thay đổi phù
hợp
Là vị trí xuất phát từ y tưởng, sáng kiến
đòi hỏi phải có tình cảm, sẵn sàng phục
vụ cho mọi người
Làm cho đúng công việc
Là người sáng tạo thứ nhất
Quan tâm đến hiệu quả công việc
7


công việc
Quản lý và duy trì hoạt động bình thường


Sáng tạo các y tưởng mới để phát triển

của tổ chức
Tập trung chỉ đạo hệ thống và tổ chức Tập trung vào con người và nhân viên
thực hiện công việc
cụ thể
Tin cậy vào sự kiểm soát và kiểm tra Tin cậy vào tín nhiệm, niềm tin, và hy
vọng
Tập trung vào những công việc mang tính Tập trung vào công việc mang tính triết
chiến thuật
lý, giá trị cơ bản
Quan tâm đến kế hoạch ngắn hạn và
Tầm nhìn lâu dài cho tương lai
trước mắt
Thường làm các việc liên quan đến
Phải thường xuyên hỏi và tự trả lời câu
việc trả lời các câu hỏi: When? How? hỏi What? Why?
Chấp nhận và tuân theo các điều luật Tìm cách thay đổi điều luật, điều lệ,
chính sách
Tập trung vào các vấn đề hiện tại,
Tập trung cho các vấn đề của tương lai
ngắn hạn
Lập kế hoạch chi tiết và tiến độ thực
Phát triển tầm nhìn và xây dung chiến
hiện
lược
Dự báo kết quả và ra quyết định
Tìm kiếm sự thay đổi
Tránh rủi ro và mạo hiểm

Chấp nhận rủi ro và mạo hiểm
Động viên con người trên cơ sở tuân
Khuyến khích nhân viên thay đổi và
thủ cácquy định mang tính chuẩn mực sáng tạo
(lương)
Sử dụng quyền lực và quan hệ cấp
Sử dụng thuyết phục, quan hệ ảnh
trên cấp dưới
hưởng giữa người với người.
Như vậy, giữa lãnh đạo và quản lý là không tách rời nhau mà chúng có
quan hệ với nhau. Khái quát lại, sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý được thể
hiện ở 3 khía cạnh sau: 1) Chủ thể, 2) Mục tiêu, 3) Phương thức tác động
Những nghiên cứu dưới đây về lãnh đạo tập trung chủ yếu vào phân tích
nội hàm của khái niệm lãnh đạo với tư cách là hoạt động, chức năng của quản
lý.
9.1.2 Lãnh đạo là chức năng của quản lý
- Lãnh đạo là một trong những chức năng của quy trình quản lý (lập kế
hoạch (xác định mục tiêu), tổ chức (xác định bộ máy, phân công, giao quyền),
8


lãnh đạo (động viên, hướng dẫn), kiểm tra (phát hiện sai lệch và điều chỉnh)).
Lãnh đạo là một chức năng (một phần) quan trọng của quản lý, nhưng không
phải toàn bộ công việc của quản lý. Vì thế, chỉ có một số nhà lãnh đạo là nhà
quản lý trong cơ cấu tổ chức.
- Các hoạt động như lập kế hoạch, tổ chức và ra quyết định được ví như
những cái kén nằm im cho đến khi người lãnh đạo khơi dậy một động lực
trong con người và dẫn dắt họ đến các mục tiêu.
- Lãnh đạo là quá trình tác động đến nhân viên sao cho họ đóng góp nhiệt
tình và tích cực vào mục tiêu chung của tổ chức. Hay có thể nói, lãnh đạo chính

là quá trình gây cảm hứng cho người khác làm việc chăm chỉ và hiệu quả hơn.
Các hoạt động lãnh đạo tập trung vào:
- Bản chất của lãnh đạo là hướng dẫn, khích lệ, động viên con người để họ
nhiệt tình, tích cực phát huy cao nhất năng lực của mình.
+ Lãnh đạo là động viên, khích lệ và điều khiển, hướng dẫn, đôn đốc
những thành viên trong tổ chức làm việc với sự nỗ lực cao nhất, với nhiệt tình
của bản thân để hoàn thành mục tiêu của tổ chức.
+ Lãnh đạo là tạo ra những động lực thúc đẩy cấp dưới và khơi dậy hay
kìm hãm bớt những động lực thúc đẩy nhân viên để thực hiện mục tiêu của tổ
chức.
+ Lãnh đạo là sự nêu gương, chỉ dẫn, ra lệnh và đi trước. Các nhà lãnh
đạo không đứng đằng sau nhóm hoặc nhân viên để đẩy và thúc giục họ mà, phải
đặt mình trước nhóm hoặc nhân viên, phải thể hiện vai trò tiên phong để động
viên nhân viên hoàn thành các mục tiêu của tổ chức.
Theo Peter Drucker: “Management is doing things right; leadership is doing the
right things”. Nghĩa là: "quản lí là làm những điều đúng đắn, lãnh đạo là làm
những điều đúng đắn."
Trong thực tiễn quản lý, lãnh đạo cơ sở, hiệu trưởng vừa là lãnh đạo vừa
là nhà quản lý. Quản lý là nghệ thuật hoàn thành công việc thông qua người
khác; là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các
giáo viên, cán bộ công nhân viên trong nhà trường, sử dụng các nguồn lực sẵn
có để đạt được các mục tiêu đề ra. Như vậy chức năng cơ bản của quản lí là:
Lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp và kiểm tra.
Nhà quản lý là những người làm việc trong tổ chức, điều khiển công việc
của người khác và chịu trách nhiệm trước kết quả hoạt động của họ. Nhà quản lý
là người lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát con người, tài chính, vật
chất và thông tin một cách có hiệu quả để đạt được mục tiêu.
9



Hiệu trưởng đóng vai trò quan trọng, góp phần chủ yếu quyết định hiệu
quả và sự phát triển bền vững của tập thể. Với chức trách của mình, người hiệu
trưởng đảm đương nhiều vai trò khác nhau. Có thể tổng hợp các vai trò cơ bản
chung nhất mà tất cả những người hiệu trưởng đều phải thực hiện:
- Vai trò giao tiếp, quan hệ:
+ Đối với bên ngoài là đại diện cho tập thể mà người đó quản lý.
+ Đối với bên trong là lãnh đạo, liên kết mọi người để hoàn thành mục tiêu
chung.
- Vai trò thông tin:
+ Thu thập thông tin từ cấp dưới.
+ Phổ biến thông tin từ cấp trên.
+ Cung cấp thông tin cho bên ngoài.
- Vai trò quyết định: Đây là vai trò quan trọng nhất của người quản lý. Nhà
quản lý là người có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về những quyết định
của mình.
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của cấp trên giao cho, một nhà quản lí
lí tưởng cần thực hiện các vai trò cụ thể sau:
- Đảm bảo sự an toàn, yên ổn của các giáo viên, cán bộ công nhân viên, học
sinh. Vì để hoàn thành một công việc theo cách có lợi nhất, con người luôn cần
có sự an toàn. Nhà quản lý sẽ không bao giờ thành công nếu như đặt sự an toàn
và sức khỏe của nhân viên vào vòng nguy hiểm, các cộng sự chính là đối tượng
mà nhà quản lý phải tìm kiếm sự trợ giúp và lòng trung thành ở họ vì thế nhất
thiết phải tạo cho họ niềm tin và sự an toàn.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho công việc chung: Nhà quản lý phải hợp tác
với nhóm cộng sự của mình, với cấp quản lý cao hơn và với toàn thể giáo viên,
nhân viên trong trường. Về nguyên tắc, một nhà quản lý tốt phải đặt lợi ích của
tập thể trong tính toàn thể. Vai trò của nhà quản lý vì thế chủ yếu là việc tìm thấy
một sự cân bằng giữa nhu cầu của đơn vị, yêu cầu của cấp quản lý cao hơn và
nhu cầu của cấp dưới.
- Khơi gợi và thiết lập tinh thần tập thể: Đạo đức tốt và tinh thần tập thể là

hai thành phần chủ yếu của một nhóm. Bản chất của tinh thần tập thể có thể là
sự nhiệt tình hứng khởi, những kết quả làm hài lòng, sự vui thích. Nó có thể bắt
nguồn từ sự quan tâm dù nhỏ của nhà quản lý như: tâm tư tình cảm, khó khăn
10


trong cuộc sống, gia đình, công việc, vật chất,… Tóm lại, những hành động như
thế phải được tiến hành đủ để cho nhân viên thấy được nhà quản lý có quan tâm
đến họ. Từ đó, nhân viên sẽ hết lòng hết sức vì công việc chung.
- Truyền đạt sự hiểu biết, kinh nghiệm: Nhà quản lý tài năng thường dành
nhiều thời gian để cải thiện năng lực những cộng sự của mình, truyền cho họ
những hiểu biết, kinh nghiệm bản thân sao cho họ có thể từ đó mà phát triển
hơn. Chính qua hành động này, nhà quản lý đã đào tạo được người thay thế mình
trong tương lai, một nhân vật có đủ khả năng được thăng tiến, điều này càng có
ý nghĩa kích thích các cộng sự hơn.
- Sáng suốt trong việc xử lý tài liệu: Một nhà quản lý tốt phải biết mình
thuộc loại người nào để có cách khắc phục: nếu anh ta ghét loại công việc này
thì tốt nhất là nên giao việc này cho một ai đó làm, nên giao cho người có năng
khiếu và yêu thích việc soạn thảo hay đọc báo cáo và tài liệu; nhưng hãy biết
quản lý họ một cách có hiệu quả nhất. Nếu ngược lại, anh ta là người mê giấy tờ,
hãy tránh khả năng chìm đắm trong niềm say mê đó.
Thành tích vượt trội thường đến với những nhà quản lý có mối quan hệ tốt
và lôi cuốn được cả trái tim cũng như trí tuệ của cán bộ, giáo viên, nhân viên.
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, các tác động của quá trình toàn cầu hóa,
bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, cuộc cách mạng về công nghệ thông tin
và truyền thông tạo ra cho giáo dục có thêm vai trò mới: Giáo dục vừa là động
lực cho việc vận hành nền kinh tế tri thức, vừa là hạ tầng xã hội cho việc hình
thành xã hội tri thức - đó là nền giáo dục đặt trên cơ sở thích ứng với điều kiện,
khả năng và nhu cầu phát triển của xã hội mới; đang tạo ra một bức tranh đa
dạng của các hệ thống giáo dục thế giới, nhưng vẫn có sự thống nhất về xu thế

vận động và phát triển, đó là: phổ cập hóa giáo dục, nâng cao chất lượng giáo
dục, dân chủ hóa giáo dục, thương mại hóa giáo dục, quốc tế hóa giáo dục...;
đồng thời tạo ra sức ép cho các hệ thống giáo dục phải có sự thay đổi trong đào
tạo - bồi dưỡng và cung cấp cho xã hội những con người có khả năng: làm việc
theo nhóm, làm công dân, làm lãnh đạo, năng động và sáng tạo... phù hợp với
nhu cầu của xã hội hiện đại.
Cán bộ quản lý giáo dục có vai trò của người điều hành một hệ thống lớn
và phức tạp, đồng thời thực thi các chính sách giáo dục đa dạng và mềm dẻo để
giải quyết một cách chủ động và sáng tạo các vấn đề mới nảy sinh như: Phân
cấp quản lý, trách nhiệm xã hội, huy động nguồn lực,dân chủ hóa giáo dục, tin
học hóa quản lý... Cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc
đảm bảo thực hiện thành công chính sách giáo dục và nâng cao hiệu quả hoạt
động giáo dục. Vai trò của Cán bộ quản lý giáo dục thay đổi một cách căn bản:
- Nếu Cán bộ quản lý giáo dục trước đây hướng tới ổn định và trật tự thì
Cán bộ quản lý giáo dục ngày nay hướng tới đổi mới và phát triển.
11


- Cán bộ quản lý giáo dục trước đây quản lý bằng mệnh lệnh; còn Cán bộ
quản lý giáo dục ngày nay phải đóng vai trò nhà chính trị để tạo được sự đồng
thuận trong đội ngũ và tổ chức.
- Cán bộ quản lý giáo dục trước đây không biết đến sức ép tài chính, còn
Cán bộ quản lý giáo dục ngày nay phải xoay xở như một doanh nhân...
- Cán bộ quản lý của cơ quan quản lý giáo dục trước đây thường chỉ huy, ra
lệnh và kiểm soát thì ngày nay cần hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ, tạo điều kiện.
- Cán bộ quản lý cấp trường trước đây: thực hiện mệnh lệnh cấp trên trong
mọi lĩnh vực: chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính thì ngày nay: quyết định,
tổ chức thực hiện, minh bạch hóa các hoạt động chuyên môn, tổ chức, nhân sự
và kĩ năng chủ yếu của họ là giải quyết vấn đề.
Trước yêu cầu mới của xã hội học tập, người Cán bộ quản lý giáo dục

không chỉ hô hào mọi người học tập thường xuyên mà phải là tấm gương cho
đội ngũ về học tập thường xuyên, suốt đời. Cán bộ quản lý giáo dục cần có kế
hoạch chiến lược về nghiên cứu khoa học, tự học, tự bồi dưỡng về các kiến thức
chính trị - xã hội, chuyên môn - nghiệp vụ quản lý, đo lường và đánh giá trong
giáo dục, công nghệ thông tin, ngoại ngữ... để phát triển chính mình. Muốn trở
thành Cán bộ quản lý giáo dục chất lượng cao phải có tính kiên nhẫn, sự khổ
luyện, lòng can đảm, tự tin... trong học tập thường xuyên và phấn đấu suốt đời
cho sự nghiệp.
Trong thời đại thông tin,vai trò của Cán bộ quản lý giáo dục không hề giảm
mà có cơ hội tăng lên, đòi hỏi Cán bộ quản lý giáo dục phải có kỹ năng sử dụng
CNTT&TT; làm chủ được môi trường CNTT&TT mới, vận dụng CNTT&TT
vào quản lý có hiệu quả, đồng thời phải chuẩn bị về mặt tâm lý cho một sự thay
đổi cơ bản của họ khi bổ sung và cập nhật kiến thức chuyên môn - nghiệp vụ
quản lý và sẽ phải đối mặt với sự gia tăng về số lượng người học, do đó Cán bộ
quản lý giáo dục phải chỉ đạo giáo viên luôn tự học, mạnh dạn đổi mới phương
pháp, dùng các phương pháp và công nghệ mới.
Quản lý giáo dục hiện đại đã và đang có thêm nhiều nội dung mới, đòi hỏi
Cán bộ quản lý giáo dục phải tiếp nhận và biết vận dụng nhiều phương pháp và
phương tiện quản lý hiện đại phù hợp và có hiệu quả. Do vậy, yêu cầu tất yếu
cần làm hiện nay là nâng cao chất lượng đội ngũ Cán bộ quản lý giáo dục mà
cách làm chủ yếu là thông qua đào tạo - bồi dưỡng.
Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cơ bản đã đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ, song vẫn còn nhiều bất cập:
- Nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng chuẩn trình độ đào
tạo; tuy nhiên, khả năng sử dụng ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin
12


trong công tác quản lý còn rất hạn chế. Đa số chưa được đào tạo có hệ thống về
công tác quản lý, trình độ và nănglực điều hành quản lý còn bất cập, tính chuyên

nghiệp thấp, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân nên chất lượng,
hiệu quả công tác còn nhiều hạn chế.
- Về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có ý thức chính trị, phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn sư phạm cao (do hầu hết là những nhà giáo
được bổ nhiệm, điều động sang làm công tác quản lý), có kinh nghiệm trong
công tác quản lý giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ quản lý giáo
dục có biểu hiện chạy theo những tiêu cực của kinh tế thị trường, chưa tích cực,
chủ động học tập, bồi dưỡng,nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Chính vì
vậy việc quản lý lãnh đạo nhà trường còn nhiều hạn chế, khó khăn khi xây dựng
kế hoạch phát triển nhà trường, xây dựng thương hiệu, xây dựng những giá trị
cốt lõi, chưa có tầm nhìn xa,..
Công tác sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cũng còn
nhiều khó khăn, bất cập, như: chưa giải quyết thỏa đáng chế độ chính sách đối
với những nhà giáo được điều động sang làm công tác quản lý; thu nhập của cán
bộ quản lý giáo dục ở các trườngcông lập và ngoài công lập có khác biệt lớn;
đời sống của phần đông cán bộ quản lý giáo dục gặp khó khăn, điều kiện làm
việc còn hạn chế nên nhiều người chưa thực sự yên tâm công tác.
Vì vậy, chúng tôi có một số đề xuất sau:
Cần tăng cường công tác quản lý cán bộ, thực hiện tốt việc đánh giá gắn
với phân công bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ. Đây là một nội dung quan trọng, đòi
hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng phải nghiên cứu quán triệt một cách sâu sắc để mỗi
cán bộ, đảng viên nắm vững chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước về công tác cán bộ; phải nắm vững mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc và
các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt,
đối với cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị để có đổi mới cách nghĩ, cách
làm cho phù hợp với tình hình mới. Quá trình thực hiện phải có sự nhất quán
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnhđạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
tính chiến lược trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, nhằm đáp
ứng yêu cầu nhân sự cho nhiệm kỳ kế tiếp và chủ động tạo nguồn cán bộ cho
những nhiệm kỳ tiếp theo với chất lượng cao, đồng bộ về cơ cấu theo yêu cầu

của từng giai đoạn cách mạng. Có quản lý tốt mới có đánh giá chính xác về cán
bộ, là cơ sở để phân công, bố trí hợp lý, giúp cán bộ phát huy năng lực sở trường
công tác, cống hiến tài năng cho sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình đánh giá
cán bộ phải đảm bảo tính khách quan, công khai, trung thực và trách nhiệm của
cấp ủy Đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Đồng thời đề cao tính trung thực của cán
bộ khi tự đánh giá về mình và phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức thành
viên trong hệ thống chính trị, kịp thời phát hiện nhân tài để bồi dưỡng, sử dụng
và phát huy hết khả năng của cánbộ.
13


Thực hiện đúng quy trình 3 khâu giữa công tác quy hoạch; đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng cán bộ. Phải căncứ vào Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị, Nghị
quyết 17 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy để xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng, sử dụng cán bộ thuộc phạm vi quản lý và đề xuất quy hoạch các chức
danh thuộc diện cấp trên quản lý. Cán bộ trong diện quy hoạch phải là những
người đáp ứng cơ bản tiêu chuẩn chức danh cán bộ, nhưng cần được tiếp tục
hoàn thiện thông qua đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và thử thách trong thực tiễn;
chú trọng lựa chọn nguồn cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ khoa học kỹ thuật; mỗi
chức danh quy hoạch phải có từ 2 đến 3 đồng chí và một đồng chí có thể quy
hoạch từ 2 đến 3 chức danh, theo hướng “mở” và“động” (không khép kín, không
hạn chế số người được định sẵn một cách chủ quan như vừa qua nhiều nơi đã
làm và được rà soát, điều chỉnh thường xuyên theo sự phát triển của cán bộ để
kịp thời bổ sung nhân tố mới). Sau đào tạo nhất thiết phải gắn với bồi dưỡng, bố
trí, sử dụng cán bộ, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quy hoạch,
đào tạo cán bộ.
Tăng cường công tác luân chuyển cán bộ, coi đây là khâu đột phá trong
công tác cán bộ. Vừa đẩy mạnh việc luân chuyển, vừa thận trọng, giải quyết tốt
quan hệ giữa luân chuyển với ổnđịnh và xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên
môn sâu; vừa coi trọng đáp ứng yêucầu trước mắt, vừa coi trọng mục đích bồi

dưỡng, rèn luyện, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận. Quá trình thực hiện công tác
luân chuyển cần có bước đi thích hợp, làm tốt công tác tư tưởng, nêu rõ mục
đích, yêu cầu luân chuyển đối với nơi đi, nơi đến và đối với cán bộ được luân
chuyển, đồng thời theo dõi, giúp đỡ, tạo điều kiện cho cán bộ luân chuyển hoàn
thành nhiệm vụ.
Nâng cao năng lực lãnh đạo. Trước hết, phải tiếp tục đổi mới phong cách
lãnh đạo, phương pháp ra nghịquyết theo hướng ngắn, gọn, thiết thực, mang tính
khả thi cao, xác định khâu trọng tâm, trọng điểm để tổ chức thực hiện. Chú trọng
việc xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp hoạt động giữa các khối, các
ngành, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ, hội họp. Tăng cường công tác kiểm tra
của Đảng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong Đảng coi trọng công tác thanh tra của
các cơ quan Nhà nước, đoàn thể trong việc chấp hành các Nghị quyết của Đảng
pháp luật của Nhà nước. Xây dựng một đội ngũ cán bộ cốt cán từ trường đến
phòng đến sở thật sự là hạt nhân lãnh đạo.
Phải tiếp tục kiện toàn các cơ quan tham mưu, tăng cường công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ có trình độ đại học, sau đại học chuyên ngành, chuyên sâu
từng lĩnh vực để có tâm nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu, góp
phần làm tốt vai trò tham mưu. Một vấn đề cũng hết sức quan trọng thuộc về
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước cấp trên, đó là cần có chính sách, chế độ tốt
hơn, hợp lý hơn trong công tác cán bộ. Thực tế cho thấy: Chính sách, chế độ
công bằng, hợp lý là một trongnhững nguyên nhân khơi dậy lòng nhiệt thành,
sức cống hiến và sự đoàn kết của đội ngũ cán bộ; khuyến khích sự suy nghĩ sáng
14


tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá nhân, tạo điều kiện cho cán bộ trở
thành người lãnh đạo và quản lý giỏi.

15




×