BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
TIỂU LUẬN MÔN LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
TÊN ĐỀ TÀI
“ĐÁNH GIÁ CÁC ĐIỀU KIỆN KẾT HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN
GIA ĐÌNH 2014 ”
HỌ VÀ TÊN :
LÊ ĐĂNG VINH
NGÀY SINH :
10/02/2000
MÃ SINH VIÊN :
18A51010100
CHUYÊN NGÀNH:
LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI- 2020
1
MỤC LỤC
Trang
A-
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 3
B-
NỘI DUNG...................................................................................................................4
I-
Khái quát chung...............................................................................................4
1.
Khái niệm hôn nhân:........................................................................................4
2.
Khái niệm kết hôn:...........................................................................................4
II- Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014..................5
1.
Tuổi kết hôn.....................................................................................................5
2.
Ý chí tự nguyện................................................................................................7
4.
Các bên kết hôn không thuộc trường hợp cấm kết hôn.....................................9
a, Cấm kết hôn giả tạo......................................................................................................10
b, Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn.................................10
c, Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác
hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có
chồng, có vợ..................................................................................................................... 12
d) Cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ;
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã
từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con
riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng...................................................................14
5.
Không thừa nhận kết hôn cùng giới tính.........................................................15
III- Mở rộng..................................................................................................................... 16
1.
Thực trạng tuân thủ quy định về điều kiên hôn nhân theo luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 ở Việt Nam......................................................................................................16
2.
Một số kiến nghị, giải pháp cho thực trạng vi phạm điều kiện kết hôn theo Luật Hôn
nhân và gia đình 2014......................................................................................................17
C-
KẾT LUẬN.................................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................20
2
A-
MỞ ĐẦU
Công dân có quyền mưu cầu hạnh phúc, và một trong những việc thể hiện quyền mưu
cầu hạnh phúc là hôn nhân. Từ thời cộng sản nguyên thủy, khi con người mới tách ra khỏi thiên
nhiên đã có sự liên kết giữa đàn ông và đàn bà nhằm mục đích duy trì nòi giống. Cùng với sự
phát triển của xã hội và khả năng nhận thức của con người, sự liên kết đó được tác dộng và
củng cố trở thành một quan hệ xã hội. Được duy trì và phát triển bởi các quy ước chung của xã
hội gọi là vợ chồng, dần dần quan hệ vợ chồng được định hình, được các văn bản quy phạm
pháp luật gọi với nhiều tên gọi khác nhau và cuối cùng là hôn nhân.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của gia đình, từ quan niệm gia đình là tế bào của xã hội nên trong
từng thời kỳ phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm lớn tới vấn đề gia đình, đề
ra những chủ trương thể chế hóa bằng pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng. Khi nhà nước
quản lý và điều chỉnh quan hệ hôn nhân, sự kiện khởi đầu của hôn nhân là kết hôn là một sự
kiện pháp lý quan trọng mà nhà nước rất quan tâm. Kết hôn luôn dựa trên quan điểm bình đẳng,
tự nguyện. Tuy nhiên để làm phát sinh quan hệ hôn nhân thì phải đáp ứng được điều kiện kết
hôn do luật định. Điều kiện kết hôn được coi là yếu tố quan trọng cần được sửa đổi, bổ sung
sao cho phù hợp với biến động xã hội ngày nay. Để hiểu thêm về vấn đề này em xin được lựa
chọn phân tích về " Điều kiện kết hôn theo luật Hôn nhân và gia đình năm 2014".
3
B-
NỘI DUNG
I-
Khái quát chung
1.
Khái niệm hôn nhân:
Hôn nhân là sự liên kết giữa nam và nữ nhằm để chung sống lâu dài, cùng nhau xây
dựng gia đình và được pháp luật thừa nhận. Quan hệ hôn nhân được hình thành do sự kiện kết
hôn và được biểu hiện là một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân của mỗi bên nam nữ với tư
cách là vợ chồng.
Trong xã hội mà các quan hệ vợ chồng được coi là quan hệ pháp luật thì sự liên kết giữa
người nam và người nữ mang ý nghĩa như một trạng thái pháp lý. Trong đó quyền và nghĩa vụ
giữa vợ và chồng cùng tồn tại. Hôn nhân là một trong những cơ sở hình thành gia đình, gia
đình là tế bào của xã hội. Do vậy pháp luật Việt Nam đã có sự điều chỉnh bằng Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014, quy định rõ về những điều kiện, các quyền và nghĩa vụ,…
Như vậy, đến đây, hôn nhân không cò chỉ đơn giản là mối liên kết giữa nam và nữ nữa,
mà nó còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật, phải tuân theo những thủ tục và quy định của pháp
luật. Nói cách khác, hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi thực hiện các quy định của
pháp luật về kết hôn tại cơ quan đăng kí kết hôn nhằm chúng sống với nhau và xây dựng gia
đình hạnh phúc, ấm no, tiến bộ.
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, hôn nhân có các đặc điểm: tồn
tại giữa những người khác giới, có tính chất 1 vợ một chồng, là sự liên kết dựa trên cơ sở tự
nguyện của hai bên nam nữ xác lập mối quan hệ hôn nhân nhằm chung sống lâu dài, xây dựng
gia đình hạnh phú. Trong đó, các bên bình đẳng như nhau trước pháp luật và phải tuân thủ quy
định của pháp luật.
2.
Khái niệm kết hôn:
Xét dưới góc độ xã hội học. Theo từ điển Hán Việt, kết hôn nghĩa là người nam lấy vợ.
Ở đây họ mặc định rằng người nữ không có vai vế, quyền lợi gì, và mặc nhiên rằng người vợ
chỉ có 1 người chồng, kết hôn là một vợ một chồng đối với phía vợ, do đó kết hôn trong trường
hợp này là người nam lấy vợ. Theo từ điển tiếng Việt, kết hôn là việc nam nữ chính thức lấy
nhau thành vợ thành chồng. Trong từ điển tiếng Việt đã có tiến bộ hơn khi có sự công bằng và
bình đẳng hơn trong việc kết hôn đối với cả nam và nữ. Nói tóm lại, dưới góc độ xã hội, kết
hôn được hiểu là việc xác lập quan hệ vợ chồng.
4
Dưới góc độ pháp lí: kết hôn là một chế định pháp lí.
Chế định kết hôn là tổng hợp những quy phạm pháp luật điều chỉnh việc xác lập quan hệ
vợ chồng, bao gồm các quy phạm pháp luậy về điều kiện kết hôn, đăng kí kết hôn và hình thức
xử lí đối với những trường hợp vi phạm pháp luật về kết hôn.
Kết hôn còn được hiểu là một sự kiện pháp lí mà nó được tiến hành tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền nhằm xác lập quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ. khi hai bên tuân thủ
những quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng đã có quy định về khái niệm hôn nhân, tại
khoản 5, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình: “kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ
chồng với nhau theo quy định của luật này về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn”.
Kết hôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó được quy định là một quyền cơ bản của con
người ( theo khoản 1, Điều 36, Hiến pháp 2013), đồng thời khoản 1 Điều 39 Bộ luật Dân sự
2015 cũng đã quy định kết hôn là một quyền nhân thân. Nó là quyền tự nhiên cơ bản của con
người được pháp luật ghi nhân và bảo vệ. Kết hôn là cơ sở quan trọng để tạo dựng gia đình,
góp phần duy trì và thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài người. Đồng thời, kết hôn còn là cơ
sở pháp lí để Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người kết hôn.
II- Điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Điều kiện kết hôn là những yêu cầu, nguyên tắc, những điều kiện cần thiết theo quy định
của pháp luật mà khi đáp ứng đủ các điều kiện trên thì nam nữ có thể kết hôn với nhau một
cách hợp pháp. Dựa trên cơ sở sự phát triển và không ngừng thay đổi của xã hội, điều kiện kinh
tế, sự phát triển về sinh học, yêu cầu về điều kiện cuộc sống,…Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam đã đưa ra những điều kiện cần thiết để phát sinh quan hệ pháp lý - kết hôn.
1.
Tuổi kết hôn
Theo quy định của Luật Hôn nhân Gia đình năm 2000, nam từ 20 trở lên,
nữ từ 18 trở lên là đủ tuổi kết hôn. Theo quy định này thì nam đã bước sang 20,
nữ đã bước sang 18 mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về tuổi kết hôn.
Tuy nhiên, với quy định điều kiện kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, độ tuổi
kết hôn của nam và nữ sẽ được nâng lên và được tính theo tuổi tròn, tức là bắt buộc nam phải
từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn.
5
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định tuổi kết hôn là căn cứ vào sự phát triển tâm
sinh lý của con người, căn cứ vào các điều kiện kinh tế- xã hội ở nước ta. Nam nữ kết hôn là
xác lập quan hệ hôn nhân – cơ sở của gia đình. Gia đình phải thực hiện các chức năng xã hội
của nó. Một trong những chức năng đó là chức năng sinh đẻ nhằm duy trì và phát triển nòi
giống.
Căn cứ vào sự phát triển tâm lý của con người, khi nam nữ đạt tuổi trưởng thành sẽ có
những suy nghĩ đúng đắn và nghiêm túc trong việc kết hôn của mình. Đó là một trong những
yếu tố đảm bảo cho quan hệ hôn nhân có thể tồn tại bền vững. Đồng thời, khi đạt tuổi trưởng
thành, nam nữ có thể tự mình lựa chọn và quyết định việc kết hôn. Mặt khác, khi đạt độ tuổi
trưởng thành, nam nữ đã có thể tham gia vào quá trình lao động và có thu nhập. Điều đó có
nghĩa là sẽ bảo đảm cho họ có thể có cuộc sống ổn định về kinh tế sau khi kết hôn. Đây là một
trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững. Như vậy, quy
định độ tuổi cho phép nam nữ kết hôn là tạo điều kiện cho việc xây dựng gia đình no ấm, bình
đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Đối với trường hợp nam nữ ly hôn mà một trong hai hoặc
cả hai chưa đủ 18 tuổi, nghĩa là chưa đủ năng lực hành vi dân sự sẽ có thể gây ảnh hưởng bất
lợi đến các bên.
Tuổi kết hôn được quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình 2014 là tuổi tối thiểu cho
phép nam nữ kết hôn. Khi đến tuổi luật định, nam nữ kết hôn vào tuổi nào là tùy hoàn cảnh
công tác, điều kiện sinh hoạt, sở thích của mỗi người. Luật hôn nhân và gia đình năm 2014
không có quy định về tuổi kết hôn tối đa dểcđảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện kết hôn.
Về cách tính tuổi kết hôn: Điểm a Khoản 1 Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã quy
định về độ tuổi kết hôn của nam là từ đủ 20, nữ từ đủ 18. Ví dụ: Chị A sinh ngày 1/1/1990 thì
đến ngày 1/1/2008 chị A tròn 18 tuổi, từ sau ngày 1/1/2008 trở đi chị A có quyền kết hôn.
Các trường hợp vi phạm về độ tuổi kết hôn sẽ bị xử lý hành chính theo như Nghị định
số 110/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 24 tháng 9 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân
sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; cụ thể là điều 47 Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định
Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn :
“1.Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi tổ
chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
6
2.Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi cố ý duy trì quan hệ
vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án
nhân dân buộc chấm dứt quan hệ đó."
Hoặc có thể bị xử lý hình sự theo điều 183 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội tổ
chức tảo hôn:
"Người nào tổ chức việc lấy vợ, lấy chồng cho những người chưa đến tuổi kết hôn, đã
bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm."
2.
Ý chí tự nguyện
Xuất phát từ quyền con người được công nhận trên toàn thế giới trong Bản Tuyên ngôn
quốc tế nhân quyền của Liên Hợp Quốc năm 1948. Điểm b Điều 8 Luật hôn nhân và gia đình
2014 quy định “Việc kết hôn do nam nữ tự nguyện quyết định”.
Khoản 1 Điều 39 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “ Cá nhân có quyền kết hôn, ly hôn, quyền
bình đẳng của vợ chồng, quyền xác định cha, mẹ, con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền
nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong quan hệ hôn nhân, quan hệ cha mẹ và con và
quan hệ giữa các thành viên gia đình”.
Tự nguyện trong kết hôn là việc hai bên nam nữ tự mình quyết định việc kết hôn và thể
hiện ý chí là mong muốn trở thành vợ chồng của nhau. Mỗi bên nam nữ không bị tác động bởi
bên kia hay của bất kỳ người nào khác khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Sự
mong muốn trở thành vợ chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là gắn
bó với nhau, cùng nhau xây dựng gia đình. Sự tự nguyện của các bên trong việc kết hôn là yếu
tố quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững.
Thứ nhất, để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, những người muốn kết hôn phải
cùng có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn nộp tờ khai đăng ký kết hôn. Trong trường hợp đặc
biệt nếu một trong hai người không thể đến nộp hồ sơ đăng ký kết hôn mà có lý do chính đáng
thì có thể gửi cho ủy ban nhân dân nơi đăng ký kết hôn đơn xin nộp hồ sơ vắng mặt, trong đơn
phải nêu rõ lý do vắng mặt, có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư trú. Vào ngày UBND tiến
hành đăng ký kết hôn và trao giấy chứng nhận kết hôn thì đôi nam nữ phải có mặt để một lần
nữa, hai người phải trả lời trước cán bộ hộ tịch và đại diện cơ quan đăng ký kết hôn rằng đến
lúc bấy giờ họ vẫn hoàn toàn tự nguyện kết hôn với nhau.
7
Thứ hai, pháp luật không cho phép cử người đại diện trong việc đăng ký kết hôn, đồng thời
pháp luật cũng không cho phép những người kết hôn vắng mặt tại lễ đăng ký kết hôn. Thông
thường, lễ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau tại Việt Nam được tiến hành tại
ủy ban nhân dân cấp xã. Tuy nhiên, trong những trường hợp quá cần thiết để đảm bảo quyền lợi
cho hai bên nam nữ hoặc của con cái họ, lễ đăng ký kết hôn có thể được tiến hành tại nhà ở, cơ
quan, đơn vị bộ đội, bệnh viện… nhưng dù ở đâu cũng phải có mặt cả hai người kết hôn.
Thứ ba, pháp luật quy định việc kết hôn phải không có hành vi cưỡng ép kết hôn, lừa dối để
kết hôn hoặc cản trở việc kết hôn tự nguyện, tiến bộ. Do đó, những trường hợp kết hôn do
cưỡng ép, bị lừa dối đều coi là kết hôn trái pháp luật.
3.
Năng lực chủ thể của hai bên kết hôn
Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình 2014, một trong các điều kiện
để nam nữ có thể kết hôn với nhau đó là cả hai bên nam nữ phải không mất năng lực hành vi
dân sự. Theo quy định của pháp luật hiện hành, người mất năng lực hành vi dân sự là người do
bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình nên tòa án ra quyết định tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự khi có yêu
cầu của người có quyền, lợi ích liên quan và trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm
quyền theo quy định tại Điều 22 Bộ luật dân sự năm 2015.
Theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, khi nam, nữ kết hôn, giữa họ phát sinh quan hệ
hôn nhân và gia đình, đồng thời họ phải thực hiện nghĩa vụ đối với vợ, với chồng mình và đối
với các con. Nhưng những người đang mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì không thể nhận thức và thực hiện được trách
nhiệm làm vợ, làm chồng, làm cha, làm mẹ. Do vậy, nếu họ kết hôn sẽ ảnh hưởng tới quyền lợi
của vợ hoặc chồng và con cái họ. Hơn nữa, một trong những điều kiện kết hôn quan trọng để
đảm bảo cho hôn nhân có giá trị pháp lý là phải có sự tự nguyện của các bên nam, nữ. Những
người đang mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình thì không thể thể hiện được ý chí của họ một cách đúng đắn trong việc
kết hôn, không thể đánh giá được sự tự nguyện của họ. Đồng thời, căn cứ khoa học cho rằng,
bệnh tâm thần là loại bệnh có tính di truyền nên các nhà làm luật cũng cho rằng, cần phải có
quy định cấm những người mắc bệnh này kết hôn để bảo đảm cho con cái sinh ra được khỏe
mạnh, bảo đảm cho nòi giống được phát triển tốt và bảo đảm cho gia đình hạnh phúc.
8
Như vậy, khi toàn án ra quyết định tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sự thì
người đó bị cấm kết hôn. Quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án là cơ sở để cơ quan đăng
ký kết hôn từ chối đăng ký kết hôn nếu người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
xin đăng ký kết hôn. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện nay quy định cấm người mất
năng lực hành vi dân sự kết hôn là xuất phát từ tính nhân đạo của pháp luật xã hội chủ nghĩa
nhằm bảo vệ quyền tự do kết hôn của mỗi các nhân, người kết hôn phải được tự mình lựa chọn
quyết định. Đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho vợ chồng, con cái và các thành viên khác
trong gia đình.
4.
Các bên kết hôn không thuộc trường hợp cấm kết hôn
Điểm d Khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định
“d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm
a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này”.
Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định:
“2. Cấm các hành vi sau đây:
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
c) Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có
chồng, có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa
những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng
là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con
riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;
e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì
mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;
h) Bạo lực gia đình;
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao
động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.”
9
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, các bên kết hôn không thuộc trường
hợp cấm kết hôn. Cụ thể:
a, Cấm kết hôn giả tạo
Khoản 11 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “11. Kết hôn giả tạo là
việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước
ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm
mục đích xây dựng gia đình.”
Vậy kết hôn giả hay kết hôn giả tạo là thuật ngữ chỉ về một cuộc hôn nhân theo
những hợp đồng, thỏa thuận ngầm trái quy định với pháp luật để tiến hành kết hôn vì những lý
do khác hơn là những lý do xây dựng gia đình hay kết hôn trên cơ sở tình yêu. Thay vào đó,
một cuộc hôn nhân được dàn xếp cho lợi ích cá nhân (về kinh tế, tài sản, địa vị xã hội, vấn đề
cư trú, nhập cảnh...) hoặc một số nhóm mục đích khác chẳng hạn như hôn nhân chính trị. Trong
nhiều trường hợp nó được gọi là hôn nhân giả tạo. Kết hôn giả nói chung là vẫn đảm bảo về
mặt thủ tục và cặp vợ chồng vẫn được cấp hôn thú tuy nhiên mục đích kết hôn không đảm bảo,
việc kết hôn và các thủ tục pháp lý chỉ là hình thức trên mặt giấy tờ, chứ hai người không hề
chung sống với nhau hoặc nhanh chóng ly hôn sau khi đã đạt mục đích. Những cuộc hôn nhân
giả thường ký một hợp đồng hoặc thỏa thuận ngầm để khai thác lỗ hổng pháp lý hay kẽ hở của
pháp luật với nhiều hình thức tinh vi khác nhau.
Như vậy, việc kết hôn giả vì những mục đích khác hơn là mục đích xây dựng gia đình đã
dần phá vỡ ý nghĩa cao đẹp của mái ấm gia đình, đồng thời đây cũng là hành vi lách luật, gây
ra rắc rối cho cơ quan quản lý về an sinh – xã hội cũng như kinh tế, gây ra tổn hại đến lợi ích
chung của toàn thể cộng đồng.
b, Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn
Khoản 8 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “8. Tảo hôn là việc lấy
vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 8 của Luật này.”
Theo đó, tảo hôn là trường hợp kết hôn trong đó vợ và chồng hoặc một trong hai người là trẻ
em hoặc người chưa đến tuổi kết hôn. Tập tục tảo hôn trước đây có mặt ở nhiều nơi, chủ yếu ở
vùng cao, nơi đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống với nhiều hủ tục lạc hậu. Việc tảo hôn sẽ
10
gây ảnh hưởng rất lớn tới đời sống vợ chồng, sức khỏe của bà mẹ và trẻ em. Kết hôn qua sớm
khi chưa có nhận thức đầy đủ, chưa đến tuổi trưởng thành sẽ rất khó khăn trong lao động, kiếm
sống, phát triển kinh tế gia đình. Xây dựng gia đình khi chưa nhận thưc s đầy đủ, không sựa
vào tình yêu sẽ khiến vợ chồng có nhiều bất đồng không đáng, đồng thời khi vợ chồng đã
trưởng thành họ sẽ có sự nhìn nhận lại về cuộc hôn nhân của mình nên rất dễ rạn nứt đổ vỡ.
Đặc biệt kết hôn và sinh con khi cơ thể chưa phát triển hoàn thiện sẽ gây nguy hiểm và ảnh
hưởng rất lớn đến người vợ và con của họ. Nhận thấy những nguy hiểm và hạn chế đó mà Nhà
nước đã nghiêm cấm tảo hôn để đảm bảo cuộc sống hạnh phúc của gia đình.
Cấm người đại diện trong kết hôn, nghĩa là toàn bộ quá trình từ đăng kí cho đến tổ chức
kết hôn đều phải do hai bên nam nữ tiến hành, không có trường hợp cử người đại diện tiến
hành thay.
Cấm các hành vi lừa dối, cưỡng ép, cản trở kết hôn. Cưỡng ép kết hôn, cản trở kết hôn là
hành vi cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người khác kết hôn
hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh
thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác. Trong đó:
Uy hiếp tinh thần là hành vi đe dọa sẽ gây thiệt hại về danh dự, tính mạng, sức khỏe cho
người khác khiến họ rơi vào trạng thái lo sợ, hoảng loạn nên phải thực hiện hành vi trái với ý
muốn của họ. Ví dụ: anh A uy hiếp chị B nếu không cưới anh thì anh A sẽ giết cả nhà chị B,
đồng thời, ngày nào anh cũng nhắn khủng bố tinh thần, gửi những món quà man rợ có máu tới
tặng chị, theo dõi hành vi của cả gia đình chị và còn tới nhà đe dọa cả bố mẹ chị. Trong trạng
thái bị đe dọa tới không lối thoát chị B đành chấp nhận lấy anh A.
Hành hạ ngược đãi, được thể hiện qua các hành vi đối xử một cách tồi tệ, khiến cho
người khác đau đớn về tinh thần lẫn vật chất đến mức không chịu được nên quyết định phải
làm theo việc trái ý muốn của họ. Ví dụ: vì quá yêu chị C, mà không được chị C chấp nhận. D
đã giam lỏng chị C trong một gian phòng ở nhà mình. Ngày ngày bức ép chị C phải yêu mình,
mắng chửi, xúc phạm, xé quần áo, có hành vi cưỡng hiếp chị C, sau đó lại tiến hành đánh đâhp
dã man ép chị C đồng ý lấy mình. Sau ba tháng bị hành hạ dã man, chị C đành chấp nhận lấy
anh D.
Yêu sách về vật chất là những hành vi đòi hỏi về vật chất một cách quá đáng. Ví dụ: E
và G yêu nhau và muốn tính chuyện cưới xin, nhưng vì nhà E quá nghèo, nên gia đình G có ý
11
không thuận. Khi E đến xin cưới G thì gia đình nhà G đưa ra điều kiện thách cưới là 10 cây
vàng, 2 con trâu, 5 con heo,… khiến E bối rồi và không thể chuẩn bị được để từ chối ý muốn
của E. hành động của gia đình G được coi là hành động ngăn cản hôn nhân của G và E.
Về lừa dối kết hôn, đây là hành vi có ý của một bên làm cho bên kia hiểu sai lệch dẫn
đến đang kí kết hôn. Nếu không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đăng kí kết hôn. Ví
dụ: A và B yêu nhau một thời gian. Vì thấy không hợp nên A chủ động chi tay B. B níu kéo
không thành nên đã giả vờ là mình có thai với A và yêu cầu A chịu trách nhiệm với cái thai
trong bụng. Vì trách nhiệm, A đành đồng ý kết hôn với B.
Như vậy, hành vi tảo hôn vi phạm điều kiện kết hôn về độ tuổi, các hành vi cưỡng ép kết
hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn đều là các hành vi vi phạm về ý chí tự nguyện của hai bên
nam nữ khi xác lập quan hệ hôn nhân, do vậy các hành vi đó đều bị pháp luật cấm. Nhà nước
đã có quy định chặt chẽ về vấn đề này, cụ thể là tại điều 181 Bộ luật hình sự năm 2015 quy
định:
“Người nào cưỡng ép người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người
khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép hoặc cản trở
người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc
bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị
phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm.”
c, Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người đang có chồng, có vợ
Điều 36 Hiến pháp 2013 quy định: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình. Hôn nhân
theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng,…”
Trên nguyên tắc hiến định, Khoản 1 Điều 2 Luật Hôn nhân gia đình khẳng định hôn
nhân phải được xây dựng trên nguyên tắc một vợ một chồng. Hệ thống pháp luật nước ta quy
định khi kết hôn nam nữ phải tuân theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một chồng. Những người
được quyền kết hôn phải là những người chưa có vợ có chồng hoặc đã có vợ/ chồng nhưng
vợ/chồng chết hay vợ chồng đã ly hôn. Vì vậy Điểm c Khoản 2 Điều 5 và Điểm d Khoản 1
Điều 8 quy định cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng
với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
12
người đang có chồng, có vợ. Tuy nhiên đối với những trường hợp nam nữ lấy nhau nhưng
không đăng kí kết hôn và chung sống với nhau trong quan hệ vợ chồng trên thực tế trước khi
luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thì vẫn được Nhà nước thừa nhận. Ngoài ra
người đang có vợ, có chồng còn bao gồm cả những người đã sống chung với người khác như
vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987 và đang chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Hiện nay vẫn còn tồn tại một số trường hợp một chồng hai vợ hoặc một vợ hai chồng.
Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ, có chồng ở miền Nam nhưng khi tập kết
ra Bắc lại lấy vợ, lấy chồng khác. Nhà nước đặc biệt quan tâm tới vấn đề này và coi đây là hậu
quả chiến tranh, những trường hợp này theo nhà nước là cần được bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các đương sự, đặc biệt là đối với phụ nữ và con. Trên tinh thần đó Tòa án nhân
dân tối cao đã ra thông tư số 60/DS ngày 22/2/1978 hướng dẫn các tòa án địa phương khi giải
quyết các vụ việc liên quan. Do đó, tuy vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng nhưng
không bị coi là kết hôn trái pháp luật.
Luật hôn nhân gia đình cấm người đang có vợ, có chồng kết hôn hoặc chung sống như
vợ chồng với người khác nhằm xóa bỏ chế độ đa thê dưới thời phong kiến. Xuất phát từ bản
chất của hôn nhân xã hội chủ nghĩa, chỉ có hôn nhân một vợ một chồng mới bảo đảm sự bền
vững và hạnh phúc gia đình, vợ chồng mới thực sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình quy định cấm người đang có vợ, có chồng chung sống
như vợ chồng với người khác nhằm chống ảnh hưởng lối sống của xã hội tư sản trong hôn
nhân. Chung sống như vợ chồng là hành vi của hai bên nam nữ tuy không phải là vợ chồng
nhưng đã ăn ở với nhau và coi nhau là vợ chồng. Người đang có vợ hoặc có chồng mà chung
sống như vợ chồng với người khác sẽ ảnh hưởng tới quyền của người vợ, người chồng hợp
pháp của họ, đồng thời ảnh hưởng tới lối sống lành mạnh trong gia đình và xã hội, ảnh hưởng
tiêu cực tới việc xây dựng chế độ hôn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa.
Để đảm bảo cho nguyên tắc kết hôn một vợ, một chồng; Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp
nhằm ngăn chặn, ví dụ như khi đăng kí kết hôn thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký
kết hôn phải xác minh tình trạng hôn nhân của các bên nam, nữ và chỉ tiến hành đăng kí kết
hôn cho họ khi cả nam và nữ đều đang không có vợ, có chồng. Bên cạnh đó cũng có các biện
pháp xử lý đối với những người có hành vi vi phạm như xử phạt hành chính
13
"1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000đồng đối với một trong các hành vi sau:
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồnggiữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
đ) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;
e) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồnggiữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố
chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của
chồng" ( khoản 1, điều 48, Nghị định số 67/2015/ NĐ-CP sửa đổi nghị định 110/2013/NĐ-CP).
Hoặc có thể bị xử lý hình sự theo điều 182 Bộ luật Hình Sự 2015 quy định tội vi phạm
chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
“1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người
khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với
người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống
như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.”
d) Cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về
trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi;
giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể,
cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng
Theo quy định của pháp luật, những người có họ trong phạm vi ba đời bị cấm kết hôn với
nhau. Cách tính như sau: Những người có cùng một gốc sinh ra thì cha mẹ là đời thứ nhất, anh
chị em cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh chị em con
chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba. Như vậy, những người có họ trong phạm vi
ba đời bị cấm kết hôn với nhau, cụ thể là: Cấm kết hôn giữa anh chị em cùng cha mẹ, khác mẹ
hoặc cùng mẹ khác cha; cấm bác ruột, chú ruột, cậu ruột kết hôn với cháu gái; cấm cô ruột, dì
ruột kết hôn với cháu trai; cấm anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì kết hôn
với nhau.
14
Dựa trên nghiên cứu sinh học, việc hôn nhân trong phạm vi ba đời sẽ gây suy thoái giống
nòi, biến đổi nguồn gen tốt, xuất hiện nững nguồn gen kajn nguy hiểm, gây biến dạng dị tật.
Kết hôn trong phạm vi ba đời,, con sinh ra có thể bị bại não, liệt, thiểu năng trí tuệ,… do vậy,
Luật hôn nhân gia đình cấm những người có quan hệ huyết thống kết hôn với nhau để đảm bảo
cho con cái sinh ra được khỏe mạnh, nòi giống phát triển lành mạnh, đảm bảo lợi ích gia đình
và xã hội.
Pháp luật về hôn nhân và gia đình không chỉ cấm kết hôn giữa những người có quan hệ
huyết thống mà còn cấm kết hôn giữa những người có quan hệ cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa
những người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố
dượng với con tiêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Vì quan hệ giữa người với người
ở Việt Nam vô cùng phức tạp, đồng thời Việt Nam là một quốc gia có lích sử phong kiến với
các thuần phong mỹ tục từ xa xưa. Những quy định này nhằm làm ổn định, lành mạnh các mối
quan hệ trong gia đình, phù hợp với đạo đức xã hội, bảo đảm thuần phong, mỹ tục của dân tộc,
bảo đảm các nguyên tắc của cuộc sống.
Điểm b khoản 2 điều 48 Nghị Định 67/2015/NĐ-CP quy định về việc kết hôn cùng trực
hệ như sau:
“2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000đồng đối với một trong các hành vi sau:
b) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồngvới người có cùng dòng máu về trực hệ.”
Bên cạnh đó, điều 184 Bộ luật Hình sự 2015 cũng quy định về tội loạn luân :
“Người nào giao cấu với người mà biết rõ người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em
cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha, thì bị phạt tù từ 01 năm
đến 05 năm.”
5.
Không thừa nhận kết hôn cùng giới tính.
Luật hôn nhân gia đình 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính”
nhưng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính” tại khoản
2 Điều 8.
Kết hôn là mưu cầu hạnh phúc chính đáng của mỗi con người. thế giới ngày càng phát
triển thì không chỉ có hai phái nam nữ mà còn có thế giới thứ ba ( người đồng tính). Xuất phát
từ nhu cầu hạnh phúc, những người đồng giới cũng có nhu cầu kết hôn, tìm kiếm cuộc sống hai
người. Xã hội cũng đã có sự thừa nhận mạnh mẽ đối với giới tính thứ ba này, nhiều quốc gia
15
trên thế giới đã chấp nhận hôn nhân đồng giới như ở Mỹ. Trước xu thế hội nhập, sự phát triển
của kinh tế, chính trị của đất nước. Các nhà làm luật đã thay đổi cách nhìn nhận về kết hôn
đồng giới. Thay vì cấm kết hôn như trước kia, thì Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã để
ngỏ về vấn đề này, nhằm tạo ra sự hợp lí, nhân đạo và tiến bộ. Như vậy những người đồng giới
tính vẫn có thể kết hôn tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Đây
cũng được coi là một bước tiến nhỏ trong việc nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới
tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay.
III- Mở rộng
1.
Thực trạng tuân thủ quy định về điều kiên hôn nhân theo luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014 ở Việt Nam.
Mặc dù đã có những quy định pháp luật về vấn đề kết hôn, hôn nhân, gia đình. Tuy
nhiên do chưa thể phổ biến sâu rộng, ý thức nhân dân còn hạn chế đặc biệt là với người đồng
bào dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Do vậy ở những nơi này, việc
tuân thủ pháp luật vẫn chưa được triệt để, nghiêm túc. Còn tình trạng nhân dân không biết luật,
tuân theo phong tục tập quán ở địa phương. Cán bộ, các cơ quan có thẩm quyền chưa vào cuộc
kịp thời, công tác quản lí hôn nhân vfa gia đình còn buông lỏng, chưa được nâng cao hoạt động
tuyên truyền pháp luật còn hạn chế. Nên …
Tình trạng tảo hôn vẫn không có dấu hiệu giảm mà xảy ra ở 63 tỉnh thành trên cả nước.
Trung du miền núi phía Bắc là các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao hơn so với các vùng khác trong cả
nước. Trong độ tuổi từ 10 - 17 tuổi, cứ 10 em trai thì có 01 em có vợ, 05 em gái có 01 em có
chồng. Các tỉnh có tỷ lệ tảo hôn cao là Lai Châu, Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên
Bái, Cao Bằng, trong đó tỉnh Lai Châu có tỷ lệ tảo hôn cao nhất là 18,6%. Hôn nhân cận huyết
xảy ra chủ yếu ở miền núi phía Bắc: Tại tỉnh Lai Châu, từ năm 2004 - 2011 có trên 200 đôi; ở
Lào Cai có 224 đôi; theo Chi cục Dân số và Kế hoạch hóa gia đình tỉnh Cao Bằng, hôn nhân
cận huyết thống ở Cao Bằng diễn ra nhiều nhất đối với dân tộc Dao 64% và Mông 61%. ở
Nghệ An tỉ lệ các em nữ kết hôn ở tuổi 13 vô cùng phổ biến. Tảo hôn vi phạm nghiêm trọng
quy định về độ tuổi mà pháp luật về hôn nhân và gia đình quy định.
Đặc biệt tục bắt vợ đã trở thành một thông lệ diễn ra trong đời sống các dân tộc thiểu số
nhất là đối với dân tộc H’Mông. Trong những năm gần đây, tục bắt vợ đã có nhiều biến tướng,
16
xuất hiện những kẻ lợi dụng việc này để bắt giữ người trái pháp luật,… ảnh hưởng không nhỏ
đến đời sống pháp luật, cuộc sống của các bé gái,… Tục bắt vợ vi phạm vè quy định kết hôn tự
nguyện của hai bên, một số trường hợp nó còn vi phạm về tuổi kết hôn và hôn nhân cận huyết
thống.
Hôn nhân cận huyết thống vẫn diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước, tập trung nhiều ở các
dân tộc thiểu số dãy Trường Sơn và Tây Nguyên. Nguyên nhân là do hiểu biết còn hạn chế,
không được tư vấn về sức khỏe sinh sản, hôn nhân và gia đình, sự phổ biến của pháp luật ở
những vùng này còn hạn chế. Nên người dân còn chưa nhận biết được rằng hôn nhân cận huyết
thống gây ra hệ lụy vô cùng nghiêm trọng về vấn đề nòi giống. ở một số tỉnh ở Tây Nguyên.
Đặc biệt là Đăklăk hôn nhân cận huyết thống vẫn diễn ra khá phức tạp, các cặp đôi còn chưa
đăng kí kết hôn, sống chung như vợ chồng, nhưng hầu hết những đứa trẻ sinh ra đều bị bại não,
teo não, dị tật bẩm sinh, mang các nguồn gen đột biến nguy hiểm,… thậm chí có trường hợp
các em nhỏ trong làng bị dị tật bại não do cả làng sống chung và chỉ kết hôn trong làng với
nhau, nguồn gen không được mở rộng. Thêm vào đó là tục nối dây xảy ra phổ biến ở người ÊĐê và Vân Kiều . Hai tập tục trên ở phía dãy Trường Sơn và khu vực Tây Nguyên đã vi phạm
các quy định về hôn nhận cận huyết, sự tự nguyện trong hôn nhân, và quy định về kết hôn một
vợ một chồng.
Kết hôn giữa những người cùng giới cũng diễn ra nhiều hơn, do sự để ngỏ của pháp luật
về vấn đề này. Một số trường hợp xảy ra tranh chấp do các cuộc hôn nhận không được pháp
luật thừa nhận và bảo vệ.
Nhìn chung dù đã có những quy định cụ thể về các đièu kiện đăng kí kết hôn, tuy nhiên
tình trạng vi phạm những điều kiện này còn diễn ra rất phổ biến và chưa có dấu hiệu giảm ở
các địa phương trong cả nước.
2.
Một số kiến nghị, giải pháp cho thực trạng vi phạm điều kiện kết hôn theo Luật Hôn
nhân và gia đình 2014.
Bài trừ nạn tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống là nhiệm vụ cấp bách vừa trước mắt,
vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị. Để thực hiện việc đấu tranh bài trừ nạn tảo hôn và hôn
nhân cận huyết thống, đòi hỏi mỗi cán bộ, Đảng viên, từng tổ chức đoàn thể phải chủ động,
năng động, sáng tạo trong cuộc đấu tranh này, cụ thể là: Đối với mỗi cán bộ, đảng viên phải
thật sự gương mẫu trong đấu tranh bài trừ nạn tảo hôn và HNCHT, phải coi là nhiệm vụ
17
củađảng viên trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thờ ơ, vô cảm
với các tệ nạn này là một trong những biểu hiện của suy thoái, nhất là đối với con, em của cán
bộ, đảng viên. Đối với cấp chính quyền cơ sở, ngoài những nhiệm vụ tổ chức, quản lý, điều
hành phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng thì nhiệm vụ tổ chức, quản lý,
điều hành việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng là một nhiệm vụ
rất cơ bản, cấp bách và lâu dài.
Cần giáo dục tuyên truyền sâu rộng những quy định của pháp luật về hôn nhân đến các vùng
sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn có nhiều dân tộc thiểu số. Muốn vậy trước hết người cán
bộ địa phương cần tích cực thường xuyên tuyên truyền, giảng giải cho bà con hiểu. Chỉ ra cái
sai cái đúng, ngăn chặn những hành vi lệch lạc trái với quy định kết hôn. Đồng thời tiến hành
giáo dục phổ cập, đưa những kiến thức cơ bản về điều kiện kết hôn đến sâu rộng, đặc biệt là đối
với lứa tuổi thanh niên. Không chỉ tuyên truyền giáo dục giới tính sức khỏe sinh sản mà còn
phải giáo dục về quy định về việc kết hôn. Ngăn chặn những tập tục vi phạm quy định như tục
nối dây, bắt vợ,…
Các cơ quan có thẩm quyền cần làm nghiêm và rõ đối với các trường hợp đăng kí kết
hôn. Xử phạt nghiêm các trường hợp tảo hôn, xử lí kịp thời với các trường hợp kết hôn trái
pháp luật. không bao che, cho qua đối với những trường hợp đăng kí kết hôn mà không đủ điều
kiện. xử lí theo đúng các quy định đã có trong các nghị định và Bộ luật hình sự.
Nhà trường cần hcung tay giúp sức bảo vệ các học sinh. Nhất là các bạn nữ dân tộc thiểu
số. Kết hợp giáo dục, động viên, tuyên truyền cho cả phụ huynh và học sinh hiểu rõ và tường
tận về quy định điều kiện kết hôn.
Lên án những hành vi lệch lạc, biến tướng về hôn nhân trong xã hội. đấu tranh với
những trường hợp kết hôn trái quy định, đi ngược lại với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn
hóa của người dân.
Không ngừng hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình cho
phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và tuyền thống của Việt Nam. Nhất là về
vấn đề kết hôn đồng giới.
18
C-KẾT LUẬN
Điều kiện kết hôn luôn là vấn đề quan trọng, đặt lên hàng đầu trước khi hai bên đăng kí
kết hôn. Dựa trên sự phát triển về kinh tế, chính trị, khoa học công nghệ và cả sinh học. Mỗi
quốc gia có 1 quy định riêng. Những quy định về điều kiện kết hôn ở Việt Nam là hợp lí và phù
hợp với điều kiện phát triển hiện tại của đất nước. Điều kiện kết hôn là cơ sở nền tảng để
hướng tứoi hôn nhân bình đẳng tự nguyên. Xây dựng hạnh phúc gia đình lâu dài và vững bền.
Sự bền vững và hạnh phúc của gai đình là động lực phát triển xã hội, xây dựng kinh tế, ổn định
đất nước. Do vậy, việc tuân thủ những quy định về điều kiện kết hôn theo Luật hôn nhân và gia
đình năm 2014 là vô cùng quan trọng.
Trên đây là bài nghiên cứu của em. Do tài liệu và phạm vi tìm hiểu nghiên cứu còn hạn
hẹp. Bài làm còn nhiều thiếu sót. Rất mong các thầy cô xem xét và góp ý. Em xin chân thành
cảm ơn!
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia, năm 2015.
2.
Bộ luật dân sự năm 2015.
3.
Bộ luật hình sự năm 2015.
4.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
5.
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP năm 2013, quy đinh xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp,hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp hợp tác xã.
6.
Nghị định số 67/2015/NĐ-CP năm 2015, sửa đổi, bổ sung Nghị định 110/2013/NĐ-CP.
7.
Trần Thị Thu Hiền- Viển Kiểm Sát Nhân Dân Thành phố Đồng Hới, “Những điểm mới của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014”, 26/01/2015
20