Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Đọc Địa danh Việt Nam trong tục ngữ - ca dao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.35 KB, 9 trang )

Đọc Địa danh Việt Nam trong tục ngữ-ca dao
Quý 1 năm 2007, cuốn sách "Địa danh Việt Nam trong tục ngữ-ca dao" (Nxb Từ điển
Bách khoa, 772tr.) do tác giả Vũ Quang Dũng biên soạn được xuất bản. Đây là cuốn sách
được biên soạn khá công phu, lần đầu tiên một số lượng lớn các địa danh ở Việt Nam xuất
hiện trong các câu ca dao, tục ngữ được tác giả tập hợp, chú giải theo dạng từ điển. Đọc qua
cuốn sách, chúng ta thấy được công sức tác giả đầu tư cho cuốn sách là khá lớn. Thông qua
các địa danh xuất hiện trong các câu ca dao, tục ngữ ở khắp mọi vùng Tổ quốc, chúng ta có
được những hiểu biết phong phú về phong tục tập quán, đặc sản, làng nghề truyền thống,
các nhân vật lịch sử, di tích, thắng cảnh...của đất nước mình. Tuy vậy, cuốn sách vẫn còn
những hạn chế nhất định. Cụ thể là về tài liệu tham khảo, cách thức ghi nguồn, làm bảng tra
cứu, lỗi morát, chú giải nội dung mục từ, việc xác định địa danh.
Đầu tiên là về nguồn tài liệu tham khảo. Trong số 33 tựa sách tác giả dùng để làm dẫn liệu
trong Địa danh Việt Nam trong tục ngữ-ca dao thì hầu như các sách biên soạn về văn học dân gian
ở Nam Bộ còn thiếu vắng khá nhiều, chỉ thấy một vài tên sách như Ca dao Đồng Tháp Mười, Văn
học dân gian Bến Tre, Văn học dân gian Tiền Giang (tập 1). Một điều nữa, là tác giả có ghi nguồn
"tư liệu điền dã" trong bảng sách dẫn, nhưng chúng tôi chỉ thấy có 2 địa danh trong tổng số mấy
ngàn địa danh trong sách được tác giả trực tiếp khảo sát. Đó là An Tử (làng) (tr.25) và Tri Chỉ
(làng) (tr.597).
Cách thức ghi nguồn dẫn tài liệu dưới mỗi địa danh cũng còn có chỗ bất hợp lý. Việc ghi dồn
nguồn xuất xứ của tất cả các câu ca dao, tục ngữ đối với 1 địa danh (mà có nhiều câu) chỉ tiện lợi
cho việc trình bày mục từ (địa danh) nhưng lại gây khó khăn cho người đọc. Bởi lẽ sẽ không xác
định được câu ca dao, tục ngữ đó được trích trong sách nào vì chúng được sắp xếp không theo một
thứ tự nào! Có thể thấy rõ điều đó qua rất nhiều địa danh ở trong sách như: An Nhơn (huyện)
(tr.20), Bến Thành (chợ) (tr.54), Bến Tre (tỉnh) (tr.55), Rạch Gầm (rạch) (tr.499)...
Toàn bộ cuốn sách dày 772 trang, song có tới 98 trang bảng tra. Đó là các bảng tra cứu: Địa
danh tự nhiên, Địa danh tên Nôm làng xã, Địa danh lịch sử văn hoá- kiến trúc nghệ thuật, Địa danh
kinh tế- xã hội. Vì đây là sách tra cứu dạng “từ điển” nên các bảng tra như trên rõ là không cần
thiết. Điều cần lưu ý thêm với tác giả là các khái niệm “địa danh kiến trúc nghệ thuật”, “địa danh
kinh tế- xã hội” không hề có trong bảng phân loại của các nhà địa danh học.
Lỗi morát đây đó xuất hiện khá nhiều trong sách đã làm lệch đi ý nghĩa trong việc “thưởng
thức” văn học dân gian hay việc tìm hiểu các thông tin về mỗi địa danh.


Trong địa danh Bến Tre (tỉnh) (tr.55-56) có câu Dừa xanh Sóc Sãi, tơ vàng Ba Tri nhưng lại
viết là “sóc sãi” khiến người đọc không biết đó là gì. Cũng vậy, ở trang 56 có câu Muối ngon ở
Cảnh mặn nồng. Thực ra đó là Gảnh, một địa danh ở huyện Ba Tri (Bến Tre), nơi tiếp giáp giữa
giồng với đầm lầy hoặc khu đất trũng do phù sa bồi đắp nên. Ví dụ như gảnh Bà Hiền, gảnh Mù U
ở xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri (Thạch Phương- Đoàn Tứ chủ biên, Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa
học xã hội, 2001, tr.1.305) Cầu Ngang (xóm) (tr.99) một lần nữa lập lại cái sai khi viết Gảnh là
Cảnh.
Chụt (làng) (tr.123) địa danh Bé bị biến thành Ré. Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh
Paullus Của giải thích: “Vũng nhỏ ở dựa gành có thể cho ghe thuyền núp gió” và “Chụt Nha Trang
chỗ núp gió ở tại Nha Trang về tỉnh Khánh Hoà” (Imprimerie Rey Curiol & Cie, 1895, tome I,
tr.172). Xóm Chụt là tục danh của làng Trường Tây, một vạn chài nằm bên cửa Bé (cửa Nha
Trang, cửa Trường Đông), trước đây thuộc xã Vĩnh Nguyên, huyện Vĩnh Xương, nay thuộc
phường Vĩnh Nguyên, TP. Nha Trang (Khánh Hoà). Dân ghe bầu ra vô thường ghé Chụt buôn bán
đệm buồm, dây neo, dây chằng, phao, lưới...nhất là lá buông và song mây, hai loại đặc sản của
Khánh Hoà và được bày bán rất nhiều ở đây. Họ còn ghé lại đây để nghỉ ngơi, chè chén, trao đổi
tình hình mua bán. Trong Bài vè thuỷ trình từ Huế vô Sài Gòn của dân ghe bầu có đoạn: Nha
Trang xuống Chụt bao xa/ Kẻ vô mua đệm, người ra mua chằng/ Anh em mừng rỡ lăng xăng/
Người hỏi thăm vào, kẻ hỏi thăm ra/ Anh em chè rượu hỉ ha (Bùi Quang Tung, Tập san Sử Địa, số
17-18, 1970, tr.45).
Giảm Thọ (đèo) (tr.239) được chú thích:” đèo thuộc huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam, là đoạn
đường gập ghềnh, khó đi”. Giảm Thọ và đèo Le là hai dốc đèo trong câu ca dao nổi tiếng Gập
ghềnh Giảm Thọ, Đèo Le/ Cu ngói quảy mè, cà cưỡng cõng khoai thì trong sách này in sai thành
“cá cường cong khoai”. Cà cưỡng hay gọi là chim cưỡng là một loại chim biết nói tiếng người.
Giảm Thọ là dốc núi cao làm ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Quế Sơn và Đại Lộc, tỉnh Quảng
Nam. Để tránh các đồn bót của giặc, con đường vận tải, tiếp tế bắc – nam thời kháng chiến chống
Pháp (1946-1954) được mở qua đây. Đường xuyên sơn rất gian khổ vì dốc quá cao phải mất trọn
một ngày đường để vượt qua, do đó bộ đội, dân công gọi tên là dốc Giảm Thọ. Đèo Le dài 8km,
băng qua dãy núi Hòn Tàu, nối hai vùng Trung và Tây huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Nguyên
là một đường mòn xuyên rừng hẹp, có nhiều cây le mọc, đi lại rất khó khăn. Năm 1937, các nhân
sĩ ở Quế Sơn như Nguyễn Đình Hiến, Lâm Xuân Quế, Nguyễn Đình Dương… đã đứng ra vận

động nhân dân mở con đường đèo Le. Công trình được hoàn thành vào mùa hè 1939 (theo Thạch
Phương, TP. Hồ Chí Minh).
Nhân đây xin cung cấp thêm một dị bản nữa: Gập ghềnh Giảm Thọ – Đèo Le / Cu cu quảy mè,
cà cưỡng cõng con.
Giồng Luông (ấp) (tr.247) nên sửa xã Đại Điển thành xã Đại Điền cho đúng.
Hậu (sông) (tr.278) sách ghi “cửa Đanh An”, đúng ra phải gọi là cửa Định An. Cửa này cùng
với cửa Trần Đề và cửa Ba Thắc đưa nước sông Hậu đổ ra biển Đông, chỗ giáp giới giữa hai tỉnh
Trà Vinh và Sóc Trăng. Trước năm 1829 gọi là Lai Cảng, nằm về phía bắc cửa Trần Đề (hay Trấn
Di) (Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002, tr.203)
Hội An (tr.298) có câu Chầu rày xa phố Hội An lại bị biến thành “chầu này”, làm mất đi vẻ đẹp
của câu ca dao xứ Quảng. Chầu rày trong tiếng địa phương có nghĩa là “từ nay”.
Mỹ Hội (xã) (tr.387) trong câu ca dao Biết vào Đồng Tháp, ăn bông súng với củ co thấu trời
nên sửa “Biết” thành “Bắt” cho chính xác.
Mỹ Lồng (chợ) (tr.387) xã Mỹ Thạnh in nhầm thành Mỹ Thạch.
Rạch Gầm (rạch) (tr.499) Bầu ghe đóm đậu sáng trời sửa lại “Bần gie” cho đúng với câu ca dao
trong sách đã dẫn. Ở Mỹ Tho (Tiền Giang) cũng có một dị bản khác: Bần gie đóm đậu sáng ngời/
Rạch Gầm Xoài Mút muôn đời oai linh.
Sa Hoàng (mũi) (tr.506) câu Gác ra khỏi mũi Sa Hoàng nên chỉnh lại thành “Vát ra” cho đúng.
Chạy vát (louvoyer, faire des bordée) là chạy thuyền theo hình dích dắc theo một hướng nào đó để
tránh hoặc lợi dụng gió ngược. Vè Các lái có nhiều câu như: Vát mũi chạy vào Bãi dài, Con Nghê;
Vát một hồi tỏ rạn Thuỳ Vân; Vát một hồi lồng lộng xa khơi. Câu ca dao Vát ra khỏi mũi Sa
Hoàng/ Kìa là Bú Nú, Tam Quan nhiều dừa được dẫn trong sách này vốn là một câu trong bài Vè
Các lái (Hát vô) của dân ghe bầu miền Trung.
Sở Thượng (địa danh) (tr.522) “ngặt” in sai thành “ngắt”.
Sơn Đốc (ấp) (tr.522) địa danh Mỹ Bồng sửa lại Mỹ Lồng (Bến Tre) cho chính xác.
Tân Phước (xã) (tr.538) sửa “cá lác” thành “cá lóc”. Cá lóc nấu canh chua thì ngon tuyệt!
Tổng Châu (chợ) (tr.586) trong câu Thấy cô đươm đệm trên đầu giắt ghim, sửa từ “đươm”
thành “đươn”(đồng nghĩa với đan).
Trong việc chú giải nội dung mục từ của sách Địa danh Việt Nam trong tục ngữ-ca dao nổi lên
một số lỗi cơ bản như: không chú giải địa danh, chú sai về địa danh, chú giải những thông tin

không cần thiết, không xác định được loại hình địa danh hoặc xác định sai, thiếu cập nhật các đơn
vị hành chính.
Trong sách có 6 địa danh không được tác giả chú giải hoặc chú giải rất chung chung, cho có lệ.
Bạch Hổ (địa danh) (tr.36) tác giả chỉ ghi “thuộc tỉnh Thừa Thiên- Huế” gần như không cung
cấp thông tin gì cho bạn đọc. Xin bổ sung thêm: Bạch Hổ là tên hiện nay của cầu Dã Viên (tên
đúng là Dữ Dã viên), cầu xe lửa bắc qua sông Hương đoạn phía trước góc tây nam kinh thành Huế.
Cầu khánh thành trước ngày 5-9-1908. Cầu xe lửa này còn nối liền cồn Dã Viên, cồn đất được
chọn làm thế “hữu bạch hổ” cho kinh thành Huế, với đất liền. (Đỗ Bang chủ biên, Từ điển lịch sử
Thừa Thiên Huế, Nxb Thuận Hoá, 2000, tr.525-526) Bến Cổ (bến) (tr.53) được chú giải là “tức
bến Cổ Tân nay là khu vực phía bắc Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam” thì thử hỏi bạn đọc sẽ biết
được địa danh này ở đâu trên đất nước Việt Nam, trừ một số người am hiểu? Sổ tay địa danh Việt
Nam của Đinh Xuân Vịnh (Sđd, tr.141) ghi rất rõ:”Làng thuộc huyện Thọ Xương, thành Hà Nội, ở
cạnh làng Cựu Lâu, nay là khu vực Nhà hát Lớn và Viện Bảo tàng Lịch sử, thuộc quận Hoàn
Kiếm, TP. Hà Nội”. Bùi Thiết cũng cho biết thêm:”Phố Cổ Tân thuộc quận Hoàn Kiếm, theo trục
chéo từ phố Tông Đản đến phố Tràng Tiền, nằm ở góc tây bắc Nhà hát Lớn Hà Nội. Vốn là khu
vực Bến Cỏ (Thảo Tân) từ thời Lê, đến thời Nguyễn là đất thôn Cổ Tân, tổng Phúc Lâm, huyện
Thọ Xương” (Từ điển Hà Nội địa danh, Nxb Văn hoá-Thông tin, 1993, tr.75-76).
Bến Tre (sông) (tr.55) cũng chỉ thấy chú “thuộc tỉnh Bến Tre”. Sông Bến Tre chảy từ Tân Hào,
huyện Giồng Trôm (trung tâm cù lao Bảo) qua thị xã Bến Tre, đổ ra sông Hàm Luông, dài 30km.
Đây là một trong những con đường thuỷ quan trọng của tỉnh Bến Tre, nối liền sông Hàm Luông
với sông Mỹ Tho qua đoạn kênh Chẹt Sậy- An Hoá (Địa chí Bến Tre, Sđd, tr.1.263) Bình Ba (địa
danh) (tr.58) ở địa danh này tác giả không chú gì hơn ngoài “thuộc tỉnh Khánh Hòa”. Đảo Bình Ba
án ngữ mặt đông bán đảo Cam Ranh, có tác dụng chắn sóng nên có nghĩa là “dẹp sóng” hoặc
“sóng yên”. Ngoài ra còn có vũng Bình Ba, nơi đây nổi tiếng với đặc sản tôm hùm. (Nguyễn Văn
Khánh- Giang Nam chủ biên, Địa chí Khánh Hoà, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003, tr.21, 49).
Chợ Củi (sông) (tr.117) được chú: “còn gọi là Sài Giang, là một nhánh của sông Thu Bồn”.
Chú giải này không chính xác. Thực ra, sông Chợ Củi hay Sài Thị Giang chỉ là một đoạn hạ lưu
của sông Thu Bồn, từ xã Điện Phong, huyện Điện Bàn (Quảng Nam), ở về phía cuối Gò Nổi, băng
qua cầu Mống (cầu Câu Lâu) ngang qua dinh trấn Thanh Chiêm xưa, nay là xã Điện Phương
(huyện Điện Bàn). Còn đoạn sông từ Hội An đến cửa Đại gọi là sông Hoài. Đoạn trung lưu sông

Chợ Củi có chợ ngôi chợ mang tên chợ Củi chuyên bán củi được khai thác từ phía thượng nguồn,
kết bè thả trôi về, nhằm cung cấp chất đốt cho dinh trấn Thanh Chiêm, các lò gạch ở phía Thanh
Hà, phố cổ Hội An và các tàu thuyền nước ngoài đến đây buôn bán trong các thế kỷ XVII-XVIII.
Chợ nằm phía bên tả ngạn sông Chợ Củi, nay không còn nữa. Theo sách Đại Nam nhất thống chí
năm Tự Đức thứ 3 (1850), sông Chợ Củi đổi tên thành Sài Thị Giang và được ghi vào điển thờ.
Tên đoạn sông được lấy từ tên chợ. Nơi đây, xưa cũng có bến đò mang tên Chợ Củi. (theo Thạch
Phương, TP. Hồ Chí Minh) Dơi (hang) (tr.158) tác giả có chú là ở chân đèo Hải Vân song không
cho biết là thuộc tỉnh Thừa Thiên- Huế hay TP. Đà Nẵng. Hang Dơi nay thuộc xã Lộc Hải, huyện
Phú Lộc (Thừa Thiên- Huế).
Chú sai về địa danh là lỗi thường bắt gặp trong sách.
Ba Giồng (ngã ba) (tr.29) ở phần chú giải thì nói rõ là chỉ hệ thống ba giồng cát chạy dài từ
huyện Châu Thành, Cai Lậy đến Cái Bè thuộc tỉnh Tiền Giang. Nhưng ở loại hình địa danh thì cho
là “ngã ba”, chắc có lẽ nhầm với địa danh ngã ba Giồng (nay thuộc xã Xuân Thới Thượng, huyện
Hóc Môn, TP. Hồ Chí Minh), tại đây vào năm 1941 Pháp đã xử bắn Nguyễn Thị Minh Khai, Lê
Hồng Phong, Phan Đăng Lưu... trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Bảo (làng) (tr.44) sách chép “tức Cù Lao Bảo thuộc tỉnh Bến Tre” đã là quá sai. Cù lao Bảo
cùng với cù lao Minh và cù lao An Hóa là ba cù lao hình thành nên diện mạo tỉnh Bến Tre, một
tỉnh có độ dài sông rạch đứng nhất nước. Hiện cù lao Bảo gồm một phần huyện Châu Thành,
huyện Giồng Trôm, huyện Ba Tri và thị xã Bến Tre.
Bắc Thành (làng) (tr.48) là “tên gọi xuất hiện vào thời Lê Trung Hưng, chỉ vùng đất phía bắc
gồm các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hà Tây, Hà Nội”. Tác giả đã
chú sai địa danh này, Bắc Thành mãi đến đầu thời vua Gia Long (1802-1819) mới thành lập, gồm
11 trấn với 5 nội trấn (Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương) và 6
ngoại trấn (Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên) (Nguyễn
Đình Đầu, Việt Nam quốc hiệu & cương vực qua các thời đại, Nxb Trẻ, 1999, tr.86). Do vậy
không thể đồng nhất “làng” là “Bắc Thành”, tức cả Bắc Bộ hiện nay.
Cái Cối (cầu) (tr.81) xã Thạnh Mỹ An sửa lại thành xã Mỹ Thạnh An (thị xã Bến Tre) cho đúng
và huyện Thạnh Mỹ trước nay chưa từng có ở tỉnh Bến Tre. Cầu Cái Cối là cây cầu sắt bắc qua
sông Bến Tre, trên tỉnh lộ 887 và 885 từ thị xã Bến Tre về hai huyện Giồng Trôm và Ba Tri. Rạch
Cái Cối nằm bên tả ngạn sông Bến Tre, đối diện với chợ Bến Tre. Do ở đây có nghề đóng cối xay

lúa bằng tre và xóm thợ thủ công phục vụ cho việc xay giã lúa nên có tên trên. Trong sách Văn học
dân gian Bến Tre (Nguyễn Phương Thảo- Hoàng Thị Bạch Yến, Nxb Khoa học xã hội, 1988,
tr.166) mà Vũ Quang Dũng dẫn trong mục từ này vẫn chú thích rõ:”Cái Cối nay thuộc xã Mỹ
Thạnh An, thị xã Bến Tre”.
Chân Trâu (núi) (tr.108) ghi là huyện Sơn Tịnh nhưng lại thuộc tỉnh Quảng Nam? Quãng Ngãi
mới đúng chứ.
Giằng Say (thác) (tr.244) ở đây chính là thác Dằng Xay đã được ghi chép trong sách của nhà
thơ Quách Tấn (Xứ Trầm Hương) và Nguyễn Đình Tư (Non nước Khánh Hoà).
Trong sách Ca dao Nam Trung Bộ (Thạch Phương- Ngô Quang Hiển sưu tầm, tuyển chọn, giới
thiệu, Nxb Khoa học xã hội, 1994, tr.72) được Vũ Quang Dũng dẫn, ghi rõ câu ca dao của Khánh
Hoà là: Ngựa Lồng, Trâu Đụng, Giằng Xay/ Khỏi ba thác ấy khoanh tay mà ngồi. Xin được nói
thêm, trong ba cách viết về địa danh Dằng Say/ Giằng Say/ Giằng Xay thì Giằng Xay mơi là chính
xác. Ở Quảng Nam có ba địa danh: dốc Giằng Xay, làm ranh giới tự nhiên giữa TP. Tam Kỳ và
huyện Tiên Phước; bến Giằng Xay sau được đọc rút gọn lại thành bến Giằng, thuộc huyện Nam
Giang; huyện Giằng vốn là huyện Bến Giằng được đọc rút gọn lại, nay là huyện Nam Giang. Ở
TP. Hồ Chí Minh có hai địa danh: Giằng Xay ở Thủ Đức, có tên trên bản đồ năm 1885; sông
Giằng Xay ở huyện Cần Giờ, vốn là tên cây gỗ tạp, dùng làm thuốc dân tộc. Giằng Xay bị nói và
viết chệch thành Dần Xây (Lê Trung Hoa chủ biên, Từ điển địa danh thành phố Sài Gòn- Hồ Chí
Minh, Nxb Trẻ, 2003, tr.171).
Nhiều địa danh trong sách được chú giải với những thông tin không cần thiết, quá dài dòng,
khiến người đọc nghĩ đến việc tác giả đã quá “ôm đồm” trong việc cố nhặt thật nhiều thông tin cho
nội dung sách được “phong phú”. Tiêu chí biên soạn của cuốn sách, theo chúng tôi nên là cung cấp
hiểu biết về đất nước qua địa danh trong ca dao, tục ngữ thì sẽ xác hợp hơn. Do vậy, đối tượng mô
tả chính ở đây là địa danh xuất hiện trong ca dao, tục ngữ và được chú giải ở mức độ cần thiết, với
những thông tin liên quan về địa lý, lịch sử, văn hóa phù hợp. Nó khác hoàn toàn với những từ
điển địa danh lịch sử- văn hóa hiện đã được xuất bản khá nhiều.
Bát Tràng (làng) (tr.45) được mô tả vị trí, thay đổi địa lý trong lịch sử, làng nghề, đình làng.
Nhưng tác giả đã dành khá nhiều dòng cho việc liệt kê tên tuổi, chức quan của các nhà khoa bảng,
vì chỉ cần viết cô đọng về truyền thống khoa cử của làng là đủ. Việc mô tả đầy đủ các nhà khoa
bảng đó là nhiệm vụ của các từ điển lịch sử hay từ điển giáo dục.

Can Lộc (huyện) (tr.83) có các thông tin về vị trí, diện tích, dân số và các đơn vị hành chính.
Nếu thông tin của mục từ chỉ có vậy thì chẳng khác từ điển các đơn vị hành chính. Sao tác giả lại
không nêu những thông tin về đặc trưng văn hóa- lịch sử của Can Lộc (Hà Tĩnh). Chẳng hạn như
về truyền thống khoa cử, nơi đã từng sản sinh ra những nhân tài cho đất nước như: Lê Trực, Phan
Kính, Nguyễn Huy Oánh, Ngô Đức Kế, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Đổng Chi,
Nguyễn Từ Chi, Nguyễn Du Chi, Nguyễn Đình Tứ, Phan Đình Diệu...
Chợ Lách (huyện) (tr.118) cũng tương tự như địa danh Can Lộc nhưng có nêu được đặc điểm
về thổ nhưỡng gắn với vùng đặc sản trái cây của tỉnh Bến Tre.
Dóng (làng) (tr.156) mô tả chi tiết tới diễn trình lễ hội Phù Đổng Thiên vương. Thiết nghĩ, các
từ điển lễ hội, lễ tục sẽ làm việc này tốt hơn là mục tiêu đặt ra cho cuốn sách này.

×