1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--- ---
Nguyễn Thị Kim Phượng
SỰ TIẾP BIẾN NHO GIÁO Ở VIỆT NAM QUA TỤC NGỮ, CA DAO –
DÂN CA NGƯỜI VIỆT
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.34.01
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2014
2
Cơng trình đã được hồn thành tại: trường Đại học Khoa Học Xã hội &
Nhân Văn TPHCM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Giang
Phản biện:
1………………………………………………………………………
2……………………………………………………………………….
3………………………………………………………………………
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp cơ sở đào tạo
họp tại
………………………………………………………………………………..
Vào hồi ………..giờ……….ngày….………tháng… ……….năm……………
Phản biện độc lập 1………………………………………………………..
Phản biện độc lập 2…………………………………………………………
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:…………...........................................
1
DẪN NHẬP
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhìn vào diện mạo văn hóa truyền thống người Việt, chúng ta thấy
có một sự khác biệt rất lớn so với các dân tộc trong khu vực. Sự khác
biệt đó phần lớn do sự ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo trải qua nhiều thế
kỷ dân tộc Việt tiếp xúc với Nho giáo. Mục đích của luận án chúng tơi
là tìm hiểu ngun nhân và sự biến đổi cụ thể trong bản chất để tìm ra
những yếu tố đã góp phần tạo nên sự khác biệt đó qua tư liệu văn vần
dân gian là tục ngữ, ca dao – dân ca. Đồng thời, từ những phân tích và
kiến giải chúng tơi sẽ làm rõ thái độ của tầng lớp bình dân Việt đối với
tư tưởng thống trị Nho giáo và vai trò của đạo đức Nho giáo trong
quan niệm truyền thống của người dân Việt, thơng qua đó chứng minh
tính hiện đại của đạo đức Nho giáo đối với xã hội hiện nay.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
- Trước 1945
Nho giáo được đề cập thoáng qua trong phần giới thiệu ở các cơng
trình chú giải, sưu tập tục ngữ, ca dao – dân ca bởi một số nhà nho:
Vương Duy Trinh trong bài tựa của tập sách Thanh Hóa quan phong
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; Nguyễn Văn Mại với Việt Nam
phong sử; Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu…
- Sau năm 1945
Hầu hết, Nho giáo được bàn đến trong phần tiểu luận của các cơng
trình sưu tập. Trong các cơng trình này, dù nhìn Nho giáo ở góc độ
nào, các nhà nghiên đều cho rằng: một số nội dung tư tưởng Nho giáo
đã hòa hợp vào triết lý dân gian, tạo nên một hệ thống chuẩn mực đạo
đức riêng của người Việt.
Những vấn đề chưa được tập trung nghiên cứu:
(1) Xác định rõ những phạm trù, nội dung Nho giáo đã được người
dân tiếp nhận, qua đó khách quan cho thấy thái độ của người dân Việt
đối với tư tưởng Nho giáo.
(2) Nguyên nhân cụ thể dẫn đến sự xâm nhập của Nho giáo vào đời
sống người dân, sau đó được phản ánh vào lời ăn tiếng nói của họ như
thế nào. Từ đó, thấy được sự đóng góp tích cực lẫn ảnh hưởng tiêu cực
mà tư tưởng Nho giáo mang đến cho hệ thống biểu tượng đạo đức
truyền thống của người Việt.
(3) Phác họa một bức tranh tổng thể về thực tế biến đổi diện mạo
văn hóa của dân tộc Việt do những đường nét tiếp biến Nho giáo khắc
họa trên nền tư liệu tục ngữ, ca dao – dân ca.
III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Chúng tôi tập trung vào những phạm trù Nho giáo sau khi được
tiếp biến ở Việt Nam, xuất hiện rõ nét trong hai cơng trình (đều do
Nguyễn Xn Kính chủ biên): Kho tàng ca dao người Việt, gồm hai
2
tập với 12.487 bài, nhà xuất bản Văn hóa – Thơng tin ấn hành năm
2001 và 15.331 (con số cịn lại sau khi đã lược bỏ những câu trùng với
một số câu có hình thức 6 – 8 trong Kho tàng ca dao người Việt) câu
tục ngữ trong bộ Kho tàng tục ngữ người Việt, nhà xuất bản Văn hóa –
Thông tin ấn hành năm 2002.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bao gồm các phương pháp: liên ngành, phân tích, so sánh đối
chiếu, thống kê và lịch sử.
V. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đây là cơng trình nghiên cứu bao qt, hệ thống đầu tiên về Nho
giáo trong tục ngữ, ca dao – dân ca người Việt. Tập trung vào những
phạm trù Nho giáo xuất hiện nổi bật trong mảng văn vần dân gian,
chúng tôi xác định nội hàm của từng phạm trù, chỉ ra đâu là tiếp, đâu
là biến, qua đó xác định cụ thể giá trị tích cực và tiêu cực mà tư tưởng
Nho giáo tác động vào đời sống văn hóa người Việt, đồng thời làm rõ
thái độ của người Việt đối với tư tưởng Nho giáo nói riêng, văn hóa
ngoại lai nói chung.
Mặt khác, với phạm vi nghiên cứu mảng văn vần dân gian, luận án
đưa ra cái nhìn tổng quan về sự ảnh hưởng của Nho giáo trong tục
ngữ, ca dao – dân ca người Việt, góp phần vào việc nghiên cứu nội
dung tư tưởng của tục ngữ, ca dao – dân ca nói riêng và văn học dân
gian nói chung.
Những phân tích và đối chiếu với văn hóa bản địa trong cơng trình
sẽ làm rõ tính bền vững của những giá trị tinh thần truyền thống dân
tộc, từ đó có thể tham khảo để xây dựng khung chuẩn đạo đức ở thời
hiện đại.
VI. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG (46 trang)
Chương 2: SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ ĐẠO VÀ THIÊN
MỆNH TRONG TỤC NGỮ, CA DAO - DÂN CA NGƯỜI VIỆT
(36 trang)
Chương 3: SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ TRUNG – HIẾU,
NHÂN – NGHĨA TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA
NGƯỜI VIỆT (67 trang)
Chương 4: SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ TIẾT TRINH,
TAM TÒNG TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƯỜI
VIỆT (29 trang)
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.
Vấn đề tiếp biến văn hóa
Từ những định nghĩa cũng như thực tế tồn tại và phát triển của các
nền văn hóa trên thế giới chúng ta thấy tiếp biến văn hóa là một hiện
tượng mang tính quy luật và là bản chất của sự duy trì, phát triển của
mỗi nền văn hóa. Trong mỗi nền văn hóa ln thường trực một hiện
3
tượng tiếp biến văn hóa trải qua các giai đoạn cụ thể: “tiếp xúc”, “giao
lưu”, “trao đổi”, “biến đổi”,… xảy ra trong hai điều kiện: “tự nguyện”
và “cưỡng bức”. Trong đó, điều kiện “tự nguyện” thường mang lại
những thành quả thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, còn điều kiện “cưỡng
bức” rất dễ gặp sự chống đối, tẩy chay của cư dân bản địa.
Từ những cơ sở thực tiễn và lý thuyết chung, chúng ta có thể xem
tiếp biến Nho giáo ở Việt Nam là một quá trình tiếp xúc, biến đổi văn
hóa, diễn ra trong cả hai điều kiện “cưỡng bức” và “tự nguyện”.
Thành quả có được sau quá trình tiếp biến Nho giáo chủ yếu xảy ra
trong điều kiện “tự nguyện”. Khi đó, một số nhà cầm quyền và tầng
lớp Nho sĩ cấp tiến Việt Nam thời phong kiến đã chủ động tiếp nhận,
vận dụng học thuyết Nho giáo vào mục đích chính trị một cách linh
động và sáng tạo.
1.2. Nguyên nhân dẫn đến sự thâm nhập của Nho giáo vào
đời sống văn hóa tầng lớp bình dân Việt
Chủ yếu và có tính quyết định thuộc vào giai đoạn Hậu Lê và
Nguyễn, biểu hiện rõ nét qua các lĩnh vực: tổ chức nhà nước, pháp
luật, giáo dục, văn học – nghệ thuật.
1.2.1. Tổ chức nhà nước
Từ thời Lý đã manh nha một chủ trương trí thức hóa bộ máy quan
lại nên đã tạo điều kiện cho nho sĩ bước vào chính trường. Đến hậu
Trần, nho sĩ, nho sinh thay thế dần tầng lớp sư tăng và đạo sĩ ở những
cương vị trọng yếu. Tiến trình nho sĩ hóa bộ máy nhà nước được thúc
đẩy mạnh mẽ vào thời Hậu Lê, sau đó được các vua nhà Nguyễn kế
thừa. Bên cạnh, phát triển mạnh về lược, sự thúc đẩy biến đổi về chất
đối với nhân sự phục vụ cho triều đình phong kiến cịn được xúc tiến
mạnh mẽ và kiên quyết qua các quy định tuyển chọn, trọng dụng
những quan lại phải tu thân theo đạo đức Nho giáo của những người
đứng đầu nhà nước. Ngược lại, các vua cũng tỏ thái độ kiên quyết
trừng phạt nghiêm khắc những quan lại đi chệch ra ngoài những chuẩn
mực đạo đức do Nho giáo thiết lập để làm gương cho dân chúng.
1.2.2. Luật pháp
Với phương pháp cai trị dùng “pháp trị” kết hợp “đức trị”, các nhà
cầm quyền phong kiến hai triều Hậu Lê, Nguyễn đã biến luật pháp
thành phương tiện và chọn triết lý Nho giáo làm “cơ sở lý luận” để
xây dựng cũng như phổ biến các điều luật nhằm vừa thực hiện ý chí
của mình vừa “Nho giáo hóa” xã hội. Điều đó được thể hiện rõ nét và
có hệ thống qua hai bộ luật lớn: Lê triều hình luật (Luật Hồng Đức) và
Hồng Việt luật lệ (Luật Gia Long). Bên cạnh đó, để uốn nắn dần ý
thức tuân thủ phép vua trong dân chúng, hạn chế tình trạng phạm
pháp, buộc phải dùng đến hình phạt, các vua thường xuyên ban bố các
chỉ dụ, giáo huấn để răn dạy dân. Hình thức này cịn có tác dụng âm
thầm biến các điều khoản pháp lý thành Đạo lý khi có sự hỗ trợ của
các bản hương ước được lập ra theo định hướng “Nho giáo hóa” xã
hội ở các làng xã.
1.2.3. Giáo dục
4
Giáo dục kết hợp chặt chẽ với giáo hóa đạo đức, chỉnh đốn
phong tục nên nội dung và hình thức giáo dục hướng đến mục đích tu
thân, hành xử theo “đạo thánh hiền” được chú trọng. Giáo dục được
mở rộng và khuyến khích đến từng làng xã, phát triển mạnh mẽ ở cả
hai loại hình cơng lập và tư thục. Việc thực hiện chủ trương này đồng
nghĩa với việc đạo đức Nho giáo được phổ biến rộng khắp. Kết quả
thực tế là một môi trường Nho giáo đã được tạo lập nơi làng quê Việt
Nam.
Giáo dục cũng được xem là một phương tiện để tuyển chọn nhân
sự Nho học bổ dụng vào bộ máy nhà nước, vì thế, triều đình phong
kiến đã dựa vào Nho giáo để xây dựng nội dung học tập, thi cử. Chủ
trương này không những đã tạo nên khơng khí sơi nổi học tập, ứng thí
để tiến thân, đổi đời nơi làng quê mà còn tạo ra một lực lượng nho sĩ,
nho sinh, thầy đồ… đông đảo. Họ là lực lượng nịng cốt và có vai trị
rất quan trọng trong việc “Nho giáo hóa” xã hội.
1.2.4. Văn học – Nghệ thuật
Nhằm vào mục đích chỉnh đốn phong tục, hướng người dân theo
“chính đạo”, các tác giả văn học đã cho ra đời những tác phẩm văn
học mang đậm tính chất giáo dục đạo đức, “đạo làm người” như loạt
bài “Bảo kính cảnh giới” của Nguyễn Trãi. Ngồi ra, Nguyễn Trãi cịn
có thêm một số bài với mục đích rõ ràng là răn dạy những người xung
quanh, đặc biệt là con cái trong gia đình như “Giới sắc”, “Giới nộ”,
“Huấn nam tử”. Nhà nho Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có một chùm thơ
răn dạy đạo lý như “Giới đệ tử sự sư”, “Tử sự phụ mẫu”, “Khuyến
phu đãi thê”…
Hình thức biểu diễn nghệ thuật cũng được các nhà nho khai thác
trong việc phổ biến “đạo thánh hiền”. Hình thức này đã thu được một
số kết quả tích cực khi trực tiếp tác động vào tâm thức người dân. Nó
định hướng cho quan niệm đạo đức xã hội và dần thay đổi hành vi ứng
xử của từng cá nhân theo những hình mẫu đạo đức trong sách truyện,
tuồng, chèo…
Một cô gái đã chọn sống theo gương các nhân vật trong sách,
truyện:
Chẳng thà em chịu đói chịu rách
Học theo cách bà Mạnh, bà Khương
Không thèm như chị Võ Hậu đời Đường
Làm cho bại hoại cang thường hư danh.
1.3. Nho giáo và tục ngữ ca dao – dân ca người Việt
Tục ngữ, ca dao – dân ca phản ánh tâm thức dân tộc, được các nhà
nho trân trọng lưu giữ bằng các hình thức:
(1) Tục ngữ, ca dao – dân ca được vận dụng vào sáng tác như
trong các tác phẩm thơ Nôm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…
(2) Các nhà nho xem tục ngữ, ca dao – dân ca như là đối tượng
thẩm mỹ cần giới thiệu để cộng đồng thưởng thức.
5
(3) Tầng lớp trí thức chủ trương sưu tầm, tập hợp tục ngữ, ca dao –
dân ca nhằm phác họa một bức tranh tư tưởng dân tộc. Những văn bản
sưu tầm sơ khai này là nguồn tài liệu quan trọng để các nhà nghiên
cứu thời hiện đại khai thác, tổng hợp thành những cơng trình tục ngữ,
ca dao – dân ca đồ sộ, phục vụ cho mục đích thưởng ngoạn, học tập
cũng như nghiên cứu ngày nay.
Chính những cơng việc này đã đưa một số nội dung Nho giáo, sau
khi được tiếp biến, trở thành một phần nội dung tư tưởng dân tộc,
được lưu lại trong tục ngữ, ca dao – dân ca, đồng thời biến tục ngữ, ca
dao – dân ca thành phương tiện truyền bá Nho giáo.
Tục ngữ, ca dao – dân ca là những tác phẩm văn học dân gian
nhưng thực tế chúng lại là kết quả của một q trình tạo dựng và ni
dưỡng của cả tầng lớp trí thức phong kiến và người dân lao động.
Tầng lớp trí thức vừa tạo tiền đề, cung cấp kiến thức cho người dân để
họ có thể lĩnh hội được ý nghĩa của tác phẩm do họ sáng tác, hay
chính người dân tự sáng tác ra những tác phẩm nghệ thuật mang nội
dung, hình thức bác học, làm cho sinh hoạt văn hóa địa phương phong
phú. Đồng thời, cũng chính tầng lớp trí thức nho sĩ trực tiếp chi phối,
định hướng cho những sinh hoạt văn hóa dân gian mang dấu ấn bác
học. Kiến thức mà tầng lớp trí thức phong kiến thu nhận chủ yếu là từ
sách vở thánh hiền, sắp xếp thành hệ thống đạo đức chuẩn mực, sau
đó truyền lại cho người dân. Vì thế, thơng qua tục ngữ, ca dao – dân
ca chúng ta có thể phần nào thấy được cách tiếp nhận, nội dung Nho
giáo trong quan niệm đạo đức, nhân sinh của người dân.
Chương 2
SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ ĐẠO VÀ THIÊN MỆNH
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƯỜI VIỆT
2. 1. Phạm trù Đạo 道
2.1.1. Đạo trong kinh điển
Đạo cơ bản có hai nghĩa: đường đi (nghĩa đen) và là đường lối ứng
xử (nghĩa bóng). Lão giáo và Nho giáo phát triển nghĩa của Đạo theo
những hướng riêng. Lão – Trang dùng Đạo để giải thích cho ý nghĩa
tối sơ và sự vận hành vô cực của thế giới thực thể, Đạo của Lão –
Trang trở thành một phạm trù triết học thuộc về vũ trụ luận; cịn Nho
giáo thì biến Đạo thành một triết lý đạo đức, nghiêng hẳn về nhân sinh
luận, phục vụ cho chính trị.
2.1.2. Đạo Nho giáo
Bên cạnh việc vận dụng Đạo theo nghĩa đen là đường đi, cách làm,
Nho giáo tập trung khai thác và phát triển nét nghĩa bóng của Đạo,
vận dụng vào giải thích cho những vấn đề thuộc về chính trị và mục
đích, lý tưởng của cá nhân thuộc về nhân sinh luận.
6
2.1.3. Đạo trong tục ngữ, ca dao – dân ca người Việt
Người dân Việt đã tiếp nhận nội dung và hình thức Đạo của Nho
giáo: Thiên đạo (Đạo Trời), Nhân đạo, Đạo hiếu, Đạo cang thường,
Đạo tào khang…
Muối mặn ba năm muối hãy cịn mặn
Gừng cay chín tháng gừng hãy cịn cay
Đạo nghĩa cang thường chớ đổi đừng thay
Dẫu có làm nên danh vọng, hay rủi có ăn mày ta cùng
theo nhau
Theo nhau cho trọn đạo trời
Dầu rằng không chiếu, trải tơi mà nằm.
Điều đáng chú ý là phần lớn Đạo trong tục ngữ, ca dao – dân
ca được vận dụng tập trung vào việc xác định tính bắt buộc của phép
tắc hành xử, là chuẩn mực đạo đức của xã hội, chi phối hành vi ứng
xử của mỗi cá nhân. Nó được cụ thể hóa trong các cụm từ nói về quan
hệ nhân luân và chuẩn mực đạo đức Nho giáo: Đạo quân thần, Đạo vợ
chồng, Đạo mẹ cha, Đạo con, Đạo cang thường, Đạo nghĩa… Tục ngữ
có câu “Đạo vợ, nghĩa chồng”. Người dân đã tiếp nhận ý nghĩa Đạo
luân lý và nâng lên thành những chuẩn tắc đạo đức mang tính bắt buộc
cho từng cá nhân. Sự tiếp biến tích cực này thể hiện rõ nét và mang
tính tự giác khi được vận dụng vào lời ăn tiếng nói của họ. Chúng tơi
thống kê được tục ngữ có 11 câu dùng Đạo với ý nghĩa là những quy
tắc tu thân, ứng xử xã hội trong tổng số 15 câu đề cập đến Đạo mang
nội dung tiếp biến tích cực, chênh lệch rất nhiều so với số lượng từ
Đạo được vận dụng trong tình huống phản ứng phá cách (3 lần), kiểu
như: “ Có thực mới vực được đạo”; “Hết tiền hết gạo, hết đạo hết
thầy”... Trong ca dao – dân ca thì số lượng lớn hơn, 141 trường hợp
dùng từ Đạo thì chỉ có hai bài Đạo được vận dụng trong tình huống
tiêu cực, con cái hờn trách cha mẹ. Tuy nhiên, nội hàm của Đạo vẫn
mang ý nghĩa chuẩn tắc đạo đức được xã hội quy định cho từng vị trí:
“Căm hờn Vệ Luật Lý Lăng/ Làm cho lỗi thửa đạo hằng quân thân”;
“Tưởng rằng là đạo mẹ cha/ Con trai con gái cũng là một thương”;
“...Thức khuya dậy sớm cho cần/ Quạt nồng ấp lạnh giữ phần đạo
con”...
Cũng trong ca dao – dân ca, Đạo tập trung vào mối quan hệ lứa đôi
chiếm tỉ lệ khá cao 106 bài trên tổng số 141 bài (75,1%).
Chim kia cịn có đơi có bạn
Em hãy xem cặp nhạn vấn vương
Làm người giữ đạo tào khương
Thủy chung như nhất, giữ đường ngãi nhân.
Qua ca dao – dân ca, Đạo đã được “làm mới”. Trong nó bao hàm
cả Nhân, Nghĩa và Tình theo cách các cặp vợ chồng quan niệm “Đốn
cây ai nỡ dứt chồi/ Đạo nghĩa vợ chồng giận rồi lại thương”.
Trong tục ngữ Đạo có vẻ cứng nhắc và nghiêng về hướng thực tế,
biểu hiện qua các câu: “Có nhân đạo mới có gạo nấu”; “Gia đạo nhà
ai nấy biết”. Đơi khi người dân cịn thẳng thắn cho rằng: “Có thực mới
vực được đạo”..., phủ định tính triết lý viển vông của Đạo.
7
Đối với người dân và đặc biệt qua lời tâm tình của các đơi trai
gái, chúng ta thấy chữ Đạo của người dân trở thành tiếng nói lương
tâm mang nặng Nhân, Nghĩa, Tình khơng đơn giản chỉ là chuẩn tắc
hành xử thiên về Trí.
2.2.
Phạm trù Thiên mệnh
2.2.1. Thiên mệnh trong kinh điển
Truyền thống dân gian Trung Quốc cho rằng Thiên là Trời, là ơng
tổ của vạn vật. Cịn Mệnh, theo Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê, có ba
nghĩa:
(1) Cái lẽ vơ hình, linh diệu của trời đất mà con người có khi hiểu
được, có khi khơng hiểu được; theo nghĩa đó thì mệnh (mạng) gần như
luật tự nhiên của hóa cơng.
(2) Những ngun do nào đó ta khơng rõ, ảnh hưởng một cách bất
ngờ tới những hoạt động của ta, khiến cho có kẻ tận lực mà khơng
thành việc, lại có kẻ khơng làm mà thành việc.
(3) Một sự tiền định, sức người khơng thể đổi được, như có người
sinh ra vốn thơng minh, có kẻ vốn ngu độn, quốc gia có thời thịnh,
thời suy, theo nghĩa này, mạng thường được gọi là định mạng, số
mạng.
Nho giáo kế thừa những ý nghĩa trên giải thích sự tồn tại của vạn
vật và biến chuyển của xã hội theo một trật tự do Trời định sẵn, trong
đó con người đóng vai trị trung tâm nhưng chịu sự chi phối trực tiếp
của Trời. Quyền lực của Trời được hiện thực hóa qua “con” của Trời
là vua . Đổng Trọng Thư cho rằng: “Con người nhận lãnh sinh mệnh
từ Trời, cho nên vượt trên tự nhiên và khác với mọi sinh vật khác.
Trong gia đình thì người có tình thân của cha con, anh em; ngồi xã
hội thì có nghĩa vụ vua tơi và kẻ trên người dưới, qy quần gặp gỡ thì
có sự cư xử đối với bậc già cả, người lớn và trẻ nhỏ”. Sự áp đặt và
ràng buộc theo cách cư xử này đã được Trương Hoành Cừ tiếp nối
nhưng vận dụng dịch lý để củng cố. Trong đó vua là con Trời, ngôi
vua là do Trời sắp đặt, mọi việc được mất ở đời đều do Trời quyết
định..., con người chỉ biết tận lực làm theo. Từ đây, xuất hiện các khái
niệm: Mệnh số, Định phận.
2.2.2. Thiên mệnh trong tục ngữ, ca dao – dân ca
Trước khi tiếp xúc với Nho giáo, người dân Việt đã có Trời của
mình. Từ thời Văn Lang – Âu Lạc, người Việt cùng với các dân tộc
vùng Đông Nam Á đã tôn thờ các thế lực siêu nhiên, thông qua những
hiện thân: thần cây, thần núi, thần đá, thần sông… Đến một giai đoạn
nhất định, người dân đã xác định trong số ấy có một nhân vật uy vũ
nhất, chi phối nhiều mặt đời sống của họ, đó là Trời. Trời là một thế
lực trung tâm của vũ trụ, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt của cư dân
nông nghiệp. Hiển hiện cụ thể bằng một hình trịn và có những tia
chiếu tỏa ra xung quanh. Đối với người dân Việt, Trời rất gần gũi, họ
có thể thơng giao dễ dàng: “Bắc thang lên hỏi ơng Trời/ Những tiền
cho gái có địi được khơng”. Họ cịn trao cho Trời cả tính cách của
con người và là “người” rất đời thường, cháu của con cóc.
8
Từ sự vận dụng dịch lý để giải thích sự hình thành nên thế giới tự
nhiên và xã hội của các nhà nho, người dân Việt tiếp xúc với một “ơng
Trời” có ý chí ý và quyền năng vơ hạn can thiệp vào đời sống, quyết
định vấn đề sinh, tử của con người như là “ơng tổ” của lồi người, đồi
thời cịn có khả năng chi phối các mối quan hệ xã hội. Khi đi vào ngôn
ngữ dân gian những nội dung đó được biểu đạt bằng những cụm từ:
Trời sinh, Trời làm, Trời định, của Trời… thể hiện tính “Người” của
Trời. Trời đã ảnh hưởng đến quan niệm nhân sinh của người dân theo
hai hướng: tích cực và tiêu cực.
Mệnh số
Hướng tích cực thể hiện qua cách người dân cho rằng: con người là
nhân tố quyết định, Mệnh Trời chỉ là yếu tố khách quan mang tính hỗ
trợ. Họ bảo rằng: “Dầu cho năm lọc bảy lừa/ Giàu sang tại số, nên hư
tại mình”. Đối với người dân, Trời đại diện cho lẽ phải, cho công lý,
phân xử công bằng, theo như cách họ tin tưởng: “Trời nào có phụ ai
đâu/ Hay làm thời giàu, có chí thì nên”. Điều này được phân tích rõ
hơn trong ca dao:
Trời sinh Trời chẳng phụ nào
Phong vân gặp hội anh hào ra tay
Trí khơn xếp để dạ này
Có cơng mài sắt có ngày nên kim.
Người dân phân biệt rõ ràng: kết quả của một quá trình lao động cần
cù là do “nhân định”. Nó thể hiện ý chí và nỗ lực của một cá nhân, còn
sự ngẫu nhiên tạo nên sức bật, vượt ra ngồi suy tính của con người
mới là “thiên định”. Tinh thần này chưa hẳn mang tính cách mạng
nhưng nó thể hiện sự tiếp biến linh động, tích cực của người dân từ
triết lý Thiên mệnh của Nho giáo. Người dân đã dùng Thiên mệnh,
Mệnh số để lập luận với mục đích điều hịa những xung đột trái chiều,
về lẽ sống chết, giàu sang, được mất, mang đến một sự tĩnh tại an
nhiên về tinh thần.
Hướng tiêu cực, khi Trời của người dân mở rộng tầm ảnh hưởng
đến cả sự sinh tử, được mất của con người như những câu tục ngữ:
“Tử sinh hữu mạng”; “Giàu sang tại số”; “Chữ rằng: phú quý tại thiên/
Giàu sang tại số hiển nhiên tại Trời”; “Khó giàu mn sự tại Trời/
Nhân sinh ai cũng kiếp người mà thôi”... Những câu tục ngữ, ca dao
này trên tốt lên sự bng xi, chấp nhận sự xếp đặt của Định số.
Đáng tiếc là suy nghĩ và quan niệm ứng xử với hoàn cảnh khách quan
tiêu cực này lại phổ biến, thể hiện qua con số mà chúng tôi thống kê
được. Trong tục ngữ 93 câu/ 101 câu số câu nói về Định số; ca dao –
dân ca thì có 210 bài/ 238 bài. Chưa nói đến số câu có sự xuất hiện
của từ Phận, một khái niệm thể hiện rõ nét xu hướng tiếp nhận tiêu
cực của người dân.
Phận
Phận là “danh vị” của từng cá nhân được Trời xếp đặt. Ứng với
“danh vị” đó là trách nhiệm với gia đình, xã hội mà một cá nhân phải
thực hiện đúng để hợp với “danh”. Trong ý nghĩa này người dân đã
tiếp nhận một cách thụ động và theo chiều hướng chấp nhận tiêu cực
kiểu như “Phận đành chịu số phong trần”; “Bôn ba chẳng qua số
9
phận”; “Khó đành phận khó, bèo đã biết thân bèo, bèo đâu dám chơi
trèo”; “Nghèo an phận nghèo”…
Tuy là xác định “danh vị” nhưng Phận chỉ dành cho những kẻ chịu
lệ thuộc, thấp bé như “phận làm tôi”, “phận làm con”, “phận đàn bà”,
“phận hồng nhan”, “phận nghèo”, “phận hèn”… Cách dùng này khá
phổ biến trong lời ăn tiếng nói của người dân. Tục ngữ có đến 34 câu
(tỉ lệ 0,22%), ca dao – dân ca có 224 bài (1,79%). Tuy nhiên, song
hành với từ Phận, triết lý dân gian lại cho ra đời một khái niệm phản
án đúng tâm tư nguyên vọng và ý chí mạnh mẽ của người dân là Thân.
Thân, ngoài cái vẻ như là một phiên bản của Phận, nó cịn ẩn chứa ý
thức về giá trị, sự tự tin, mạnh mẽ của người Việt, đặc biệt là đối với
đối tượng mà Phận ám chỉ, trong đó nổi bật là các chị em phụ nữ như
câu ca: “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.
Trở lại ca dao – dân ca chúng ta thấy Thiên định kết hợp với nhân
duyên nhà Phật tập trung vào mối quan hệ lứa đôi:
Phàn Lê Huê say mê Thái tử
Oán thù dữ còn đổi ra hiền
Huống chi phận thuyền quyên
Chẳng qua căn số định, giận phiền uổng công.
Qua văn bản tục ngữ, ca dao – dân ca chúng tôi nhận thấy Thiên
mệnh kết hợp với tín ngưỡng dân gian đã chi phối mạnh mẽ thế giới
quan, nhân sinh quan của người dân với định hướng buông xuôi theo
diễn biến tự nhiên, chấp nhận thân phận... Tuy nhiên, thực tế vẫn cịn
có nhiều trường hợp vượt ra ngoài định hướng chung.
Chương 3
SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ TRUNG – HIẾU,
NHÂN – NGHĨA TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA
NGƯỜI VIỆT
3.1. Cặp phạm trù Trung – Hiếu
3.1.1. Trung
Nghĩa cơ bản của Trung là chỉ tính ngay thật.
Theo cách biện luận của Nho giáo nguyên thủy chúng ta hiểu chữ
Trung ln có sự tương tác hai chiều. Mạnh Tử từng cho rằng: “Vua
mà coi bề tôi như tay chân, ắt tôi sẽ coi vua như bụng dạ. Vua mà coi
tơi như chó ngựa, ắt tơi sẽ coi vua như kẻ qua đường. Vua mà coi tôi
như bùn rác, ắt tôi coi vua như kẻ cướp người thù” (Quân chi thị thần
như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc tâm. Quân chi thị thần như
khuyển mã, tắc thần thị quân như quốc nhân. Quân chi thị thần như
thổ giái, tắc thần thị quân như khấu thù).
Thế nhưng đến Hậu Nho, Trung trở nên cực đoan, thiếu nhân văn.
Danh nho Đổng Trọng Thư cho rằng: “Đất thuận theo trời, giống như
vợ thuận theo chồng và bầy tôi thuận theo vua”. Cứng nhắc hơn khi
ông vận dụng thuyết Âm – Dương để quy các mối quan hệ xã hội
thành ba giềng mối mang tính rường cột: “Vua là giềng mối của bề
tôi, cha là giềng mối của con, chồng là giềng mối của vợ”. “Âm là cái
hợp với Dương. Vợ là cái hợp với chồng. Con là cái hợp với cha. Bầy
10
tơi là cái hợp với vua”. Trong đó vua là Dương, bầy tôi là Âm; cha là
Dương, con là Âm; chồng là Dương, vợ là Âm. Âm – Dương hòa hợp
là bản chất của tự nhiên. Vì là bản chất của tự nhiên nên con người
phải tuân theo để giữ cho đời sống xã hội cân bằng và thịnh trị.
Trung theo Nho giáo vào Việt Nam đã được khai thác, định hướng
một cách phức tạp.
Đối với giai cấp cầm quyền, Trung xốy vào mối quan hệ vua tơi,
có xu hướng cực đoan, nhằm vào mục đích bảo vệ quyền lợi và uy thế
của các nhà cầm quyền. Điều đó thể hiện rõ qua các điều khoản của
luật pháp. Trong khi đó đối với người dân, Trung thiên về luân lý, đạo
đức.
Chịu sự chi phối của tư tưởng chính thống, một chữ Trung với vua
cứng nhắc, kiên định đã tồn tại trong quan niệm ứng xử của người
dân. Họ bảo rằng: “Làm tơi cứ ở cho trung/ Đừng ở hai lịng sau hóa
dở dang”. Tuy nhiên, chữ Trung quân của họ đôi khi lại trở nên linh
động quyền biến, dựa trên quyền lợi dân tộc. Nếu ơng vua khơng đứng
về phía họ, khơng vì quốc gia, dân tộc thì đối với người dân đó là ơng
vua bất trung. Họ khơng hề e dè khi bình xét hai vua:
Trời ơi trơng xuống mà coi
Nước Nam cơ khổ, “con trời” hai ông
Hàm Nghi chính thực vua trung
Cịn như Đồng Khánh là ơng vua xằng.
Một khi vua bất trung với dân với nước thì người dân cũng khơng
cần phải cư xử tơn kính, ngược lại còn thẳng thắn phê phán. Cần thiết
họ thu về chú tâm cho gia đạo nếu hiện thực xã hội đảo điên và họ
khơng tìm được đấng minh qn để giữ đức Trung. Chữ Trung của
người dân hướng đến đối tượng là cha mẹ, như cách họ biểu đạt:
Câu thơ ba chữ rành rành:
Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là ba
Chữ trung thì để phần cha
Chữ hiếu phần mẹ, đơi ta chữ tình.
Hay
Hữu bằng tự viễn phương lai
Lạc hồ quân tử lấy ai bạn cùng
Chữ hiếu, chữ trung là trung với mẹ
Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân
Yêu nhau bao quản xa gần.
Tuy có sự thay đổi đối tượng nhưng cơ bản chữ Trung của người
dân cũng tập trung nói đến mối quan hệ quân thần, Trung với vua
chiếm số lượng vượt trội so với Trung hướng đến cha mẹ. Tục ngữ thì
số lượng câu ít ỏi (8 câu) không bộc lộ rõ, nhưng ca dao – dân ca thì
điều đó thể hiện rất rõ: 26 bài so với 2 bài đề cập đến Trung lứa đôi và
1 bài Trung hướng đến mẹ, 1 bài hướng đến cha. Xét về bản chất, đối
với người dân, chữ Trung thể hiện một nhân cách trọng Đạo lý hơn là
việc thực thi bổn phận, vì vậy, chữ Trung của họ linh động theo nhận
thức lẽ đúng sai, thể hiện sự quý trọng, tri ân đôi khi gần nghĩa với
Hiếu nếu hướng đến hai bậc sinh thành.
3.1.2.
Hiếu
Có thể tóm lược nghĩa của Hiếu Nho giáo trong các nội dung sau:
11
- Đó là phẩm hạnh cơ bản nhất vì nó dựa trên cơ sở tình thâm. Từ
đây nó quyết định nhân cách, uy tín của một cá nhân trong quan niệm
xã hội.
- Hiếu thể hiện ý thức ân trả ân, nghĩa trả nghĩa mà cha mẹ đã
dành cho con cái.
- Nó được biểu hiện cụ thể qua Lễ trong cách cư xử với cha mẹ.
- Hiếu tổng hòa các đức tính: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
- Hiếu có vai trị quan trọng trong sự thịnh trị của quốc gia, dân
tộc vì nó cảm đến Trời.
Đối với người dân Việt lịng hiếu thảo xuất phát từ tình yêu thương
cha mẹ là sự bộc phát tự nhiên theo bản năng, như cách họ tâm sự:
Gió đưa cây cửu lý hương,
Xa cha xa mẹ thất thường bữa ăn,
Sầu riêng, cơm chẳng muốn ăn
Đã bưng lấy bát, lại dằn xuống mâm.
Khi tiếp xúc với khái niệm Hiếu của Nho giáo, chữ Hiếu của người
dân đã có những chuyển biến rõ nét theo hướng tự giác. Người con
nhận thức đầy đủ lý do, mục đích và cách hành xử đối với hai đấng
sinh thành. Nội dung này được đúc kết trong bài ca dao mà người Việt
nào cũng thuộc nằm lịng:
Cơng cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con.
Sự hiếu kính với cha mẹ thể hiện thiết thực nhất là việc người con
phải lập thân bằng con đường khoa cử để làm rạng rỡ tơng mơn, vui
lịng cha mẹ.
Trai thời đọc sách ngâm nga
Dùi mài kinh sử để chờ đại khoa
Nữa mai nối đặng nghiệp nhà
Trước là mát mặt sau là hiển thân.
Việc thứ hai cũng nhằm vào mục đích thỏa ý nguyện của cha mẹ
và trọn đạo làm con chính là lập gia thất. Người con ý thức rõ ràng:
“Thờ cha kính mẹ đã đành/ Theo đơi theo lứa mới thành thất gia”.
Cũng vì lý do này mà việc lập thành gia thất của con cái không chỉ là
một bước ngoặc cuộc đời mà còn là một hành xử thuộc về Đạo lý.
Hơn nữa, nó khơng chỉ là một tâm nguyện của các bậc làm cha làm
mẹ mà nó cịn là bổn phận của những đấng sinh thành. Các bậc cha
mẹ bảo rằng: “Nuôi con những tưởng về sau/ Trao duyên phải lứa,
gieo cầu phải nơi”. Vì ý nghĩa đạo lý mà hôn sự của con cái chỉ những
bậc cha mẹ, tơn trưởng mới có quyền quyết định. Quyền hạn này được
quy định rõ ràng trong các bộ luật. Người con hoàn toàn bị động: “Phụ
mẫu sơ sinh hãy để người định/ Trong việc vợ chồng chờ lịnh mẹ
cha”. Lui vào thế bị động chính là cách thể hiện lịng hiếu kính, thuận
tùng cha mẹ của người con. Người con luôn nhớ rằng: “Cha mẹ đặt
đâu con ngồi đó”. Tuy nhiên, lạm dụng quyền hạn được luật pháp bảo
trợ, cùng với thái độ thuận tùng tuyệt đối của người con trong chuyện
tình duyên, một số bậc sinh thành đã biến con mình thành “đồ vật” để
12
trao đổi, vụ lợi, đẩy người con vào những tình huống bi kịch. Người
con gái thì bị gả bán, ép dun, cấm ngăn... như lời cơ gái tâm tình với
chàng trai: “Chàng thương thiếp thì thiếp thương trả/ Biết thầy mẹ ở
nhà gả bán nơi nao”. Còn các anh con trai thì ln bị dằn vặt khi đứng
trước hai chữ Hiếu, Tình. Các anh thổ lộ:
Bây giờ bn bán theo ai
Nặng đầu chữ hiếu, nhẹ vai chữ tình
Hiếu tình buồn bực trong mình
Sợ thầy hãi mẹ làm thinh vui cười.
Đứng trước Hiếu, Tình người con thường chọn hy sinh Tình nếu
Hiếu, Tình đối lập: “Chỉ Kim tương cha mẹ khơng thương/ Dứt đạo
cang thường, anh cam bụng chịu/ Thôi thôi buông áo anh ra về, em
bận bịu làm chi”. Hoặc họ tìm cách dung hợp: “Ơn thầy tày núi, nghĩa
mẹ tày non/ Hai ta là đạo làm con/ Muốn duyên vừa đẹp ý phải cúi
luồn mẹ cha”.
Qua diễn biến tâm trạng của các chàng trai, cô gái khi đứng trước
sự chọn lựa Hiếu – Tình, chúng ta nhận ra rằng: trong truyền thống,
chữ Hiếu đã có một vai trị quan trọng trong hệ tư tưởng của người
dân Việt. Nó chiếm lĩnh ý thức hành xử và là thước đo phẩm hạnh của
một người trong quan niệm xã hội. Chữ Hiếu thiên về Trí đã định
hướng cho lịng hiếu thảo xuất phát từ bản năng của người con.
Như vậy, đối với Nho giáo, quan hệ huyết thống (phụ tử hữu thân)
là cơ sở để xây dựng và đánh giá nhân phẩm của một người thông qua
hành vi hiếu thảo với cha mẹ. Động lực chính để người con tỏ sự hiếu
kính với cha mẹ là vì bổn phận (phụ tử chủ ân), bị chi phối bởi Lễ và
mục đích cuối cùng là tạo dựng uy tín cá nhân để tiến đến cơng cuộc
“bình thiên hạ”. Trong khi đó, đối với người dân Việt, Hiếu nảy sinh
từ tình cảm và được ni dưỡng bởi Đạo lý. Tình yêu thương và nhu
cầu được yêu thương cha mẹ là mục đích và là động lực thúc đẩy
người con xem việc kính trọng, phụng dưỡng cha mẹ là lẽ sống.
Người Việt mượn vỏ ngôn ngữ chữ Hán là Hiếu và một phần nội dung
đạo lý phù hợp với tâm thức dân tộc để chuẩn hóa ý nghĩa Hiếu kính
của riêng họ, để cùng nhắc nhở nhau thực hiện và cũng nhằm vào mục
đích răn dạy thế hệ sau.
3.1.3.
Sự kết hợp Trung Hiếu (Hiếu Trung)
Sở dĩ có sự kết hợp về hình thức của Trung, Hiếu như chúng ta
thường thấy vì có sự quan hệ mật thiết về mặt nội dung cả trong
nguyên thủy lẫn sau khi đã biến đổi của hai khái niệm. Cả hai đều
đóng vai trị rất quan trọng trong quan niệm chính trị của giai cấp cầm
quyền cũng như quan niệm luân lý của người dân. Người dân có câu
nói: “Những người hiếu đễ trung trinh, vẻ vang tiên tổ, thơm danh họ
hàng”. Các bậc cha mẹ luôn kỳ vọng
Nuôi con cho được vng trịn
Mạ thầy dầu dãi, xương mịn gối long
Con ơi, cho trọn hiếu trung
Thảo ngay một dạ, kẻo luống công mẹ thầy.
Sau khi được tiếp nhận và đối tượng của Trung thay đổi, hướng
đến hai đấng sinh thành thì cả hai tương đồng về ý nghĩa, tạo nên một
13
cặp từ ghép đẳng lập như trong bài ca dao: “Một câu phân với nữ
trinh/ Ơn cha nghĩa mẹ cho trọn tình hiếu trung”.
Ngồi ra, sự kết hợp này cịn để diễn đạt tình cảm và bổn phận của
người con gái đối với cha mẹ trong ca dao, như các cơ bảo rằng:
“Khoan khoan hãy đợi em cùng/ Em cịn hai chữ hiếu trung chưa
đền”. Đối với các cô gái, dù không được đến trường để tiếp thu kiến
thức một cách chính thức và quy củ nhưng họ vẫn có đủ khả năng lĩnh
hội điều hay lẽ phải một cách thấu đáo bởi họ cũng là những con
người biết suy nghĩ, có lịng trắc ẩn, thương tâm. Đối với người dân,
Đạo lý “cương thường” không những là phép tắc ứng xử mà là lý lẽ
của lương tâm, là tiêu chuẩn đạo đức chung để đánh giá nhân cách nên
đối tượng hướng đến là tất cả mọi thành viên trong cộng đồng. Vì thế,
họ bảo rằng: “Làm người phải biết cương thường”. “Cương thường” ở
đây khơng nhằm vào mục đích phục vụ chính trị mà thuộc phạm vi
đạo đức nhân luân, ai cũng cần phải tu rèn nên khơng có sự phân biệt
trai gái.
3.1.4. Trung, Hiếu đối sánh với Tình
Một bài ca dao giới thiệu vị thế của ba chữ Trung, Hiếu, Tình:
Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm lấy áo ta đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành,
Chữ “trung”, chữ “hiếu”, chữ “tình” là ba.
Đối với những người con dân quê, đời sống tinh thần và tình cảm
của họ khơng chỉ có lý trí của Trung, Hiếu mà cịn có cả ham muốn
dục vọng là Tình. Chữ Trung biểu hiện trách nhiệm cơng dân, vì
nước; chữ Hiếu là đạo làm con trong gia đình; chữ Tình là nghĩa tào
khang, sự địi hỏi thỏa mãn tình cảm giới tính. Đây là ba bổn phận mà
Nho giáo đã từng đề cập dưới quan điểm đạo đức chính trị gọi là “tam
cương”. Người dân diễn giải lại thành hai câu thơ lục bát: “Làm trai
giữ trọn ba giềng/ Thảo thân, ngay chúa, vợ hiền chớ vong”. Tuy
nhiên, chưa có sự cân bằng, thường vẫn thiên về Trung hay Hiếu, cịn
Tình – tình cảm vợ chồng bị giới hạn bởi Lễ nên có sự phịng ngừa
theo ngun tắc: “phu thê chủ biệt”, khơng được phép say đắm, thiết
tha theo bản năng. Trong ca dao – dân ca, cả ba nhiều lần được đặt đối
sánh, tạo nên một thế đứng kiềng ba chân, một thế đứng lý tưởng bởi
sự vững chắc của nó.
Nho giáo tập trung vào con người, thấy được vai trò của con người
trong q trình tiến hóa chung của tự nhiên và xã hội. Con người là
những sinh vật có lý trí, hiểu biết nên có thể tự chủ trong việc gây
dựng cuộc sống xã hội. Cái Trí chủ đạo cho mọi hoạt động, chi phối
cả cái Tình của con người. Mọi hành vi, ngay cả cảm xúc hỉ nộ ái ố…
đều phải đặt dưới sự kiểm sốt của Trí. Nho gia ln tin vào sự ảnh
hưởng bên ngồi, sự lĩnh hội lý lẽ từ giáo dục giúp con người có đủ lý
trí để kềm nén, kiểm sốt những dục vọng bản năng bên trong, trong
đó có tình cảm lứa đơi. Chính sự tách bạch dục vọng và ý chí, tập
trung vào Trí xem nhẹ Tình đã làm giảm đi ý nghĩa nhân văn của Nho
giáo. Vì vậy, nó đã gặp sự phản ứng khi bản năng thức tỉnh, đời sống
riêng tư của mỗi người được quan tâm hơn. Đồng thời, bản thân chữ
Trung hướng đến vua đã có sự mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực tiễn,
14
tạo nên sự thất vọng trong các hiền sĩ, nho sinh… và họ đã chọn
hướng thay đổi đối tượng để dung hịa, thích nghi với thực tế và cũng
để tự an ủi cho nỗi buồn của chính mình. Họ chia sẻ tâm trạng đó với
người dân bằng những lời tâm tình mà giờ đã trở thành những sản
phẩm nghệ thuật của cộng đồng. Cộng đồng đồng cảm và mượn lời họ
để truyền cho nhau những xúc cảm chung. Còn Hiếu, tuy là Đại đạo
nhưng vì sự áp đặt, nhiều phần bức ép đã đẩy người con đến những
hành vi ngoài ý muốn như trách hờn cha mẹ. Chính những bất cập, phi
lý đó đã làm lung lay vị trí của Trung, Hiếu. Khi bản năng trỗi dậy
đánh thức ham muốn cá nhân trong mỗi con người, đơi lần chữ Tình
đã kéo được người con về phía mình. Sở dĩ Tình làm được điều đó vì
nó được gia tăng sức mạnh của Nghĩa. Đối với các chàng trai cơ gái,
Tình khơng chỉ là xúc cảm, tình u thương mà nó cịn bao hàm cả lý
trí, sự tri ân người bạn đời.
3.2. Cặp phạm trù Nhân – Nghĩa
3.2.1.
Nhân
Nho giáo định nghĩa về Nhân:
- Nhân là lòng trắc ẩn, cảm thương người: “Nhân là sự trắc ẩn
của lòng người” (Trắc ẩn chi tâm, nhân dã).
- Nhân gắn với Trí: “Chỉ người có lịng nhân mới biết yêu ghét
như thế nào” (Duy nhân giả năng háo nhân, năng ố nhân).
- Đức Nhân phục vụ mục đích chính trị.
Mạnh Tử xác lập vị trí duy nhất cho phương pháp chính trị này khi
bảo rằng: “Dân chúng kéo nhau theo bậc nhân đức, như nước chảy về
chỗ thấp, thú chạy về chỗ hoang” (Dân chi qui nhân dã, du thủy chi
tựu hạ, thú chi tẩu khoáng dã).
Chữ Nhân của người dân Việt đơn giản là tình thương và sự cảm
thông giữa người với người trong cộng đồng như cách họ thường
khuyên bảo nhau : “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”.
Khi tiếp xúc với chữ Nhân Nho giáo, người Việt đã có một chữ
Nhân mang tính tự giác, có sự định hướng về hành vi, đối tượng và
kết quả.
Trước hết chúng ta thấy về mặt hình thức :
Hữu bằng tự viễn phương lai
Lạc hồ quân tử lấy ai bạn cùng
Chữ hiếu, chữ trung là trung với mẹ
Chữ nhân, chữ nghĩa là ái với ân
Yêu nhau bao quản xa gần.
Cách vận dụng này đã làm cho chữ Nhân của người dân khơng cịn
sự giản dị gần gũi, nó trở thành một khái niệm mang tính triết lý rút ra
từ kinh sách. Khi cần trau chuốt cho câu từ, người dân vẫn thường
mượn dùng hình thức này.
Về nội dung, chữ Nhân của người đã có thiên hướng duy tâm:
“Phụ người Trời phụ, thương người Trời thương”. Ca dao có bài:
Hễ muốn ra con người tử tế
Phải dễ dàng chớ để ai hờn
15
Làm ơn ắt hẳn nên ơn
Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ.
Bài ca dao đã cho thấy một sự “suy tính”, có mục đích rõ ràng của
việc làm Nhân. Đồng thời ở đây cũng chỉ rõ cho mọi người cách thức
thực hiện lòng Nhân như thế nào.
Quan sát cách bộc lộ lịng Nhân, người dân đã tìm ra được “cơng
cụ” “định lượng” và “định tính” cho chữ Nhân của họ, đó là hồn
cảnh thực tế và thời gian. Họ bảo rằng: “Thức lâu mới biết đêm dài/
Ở lâu mới biết là người có nhân”. Hành động bộc phát nhất thời và
trong điều kiện bình thường chưa thể xem đó là việc làm xuất phát từ
lòng Nhân, cần phải được kiểm chứng. Đến đây lịng Nhân khơng
chỉ là sự thương cảm sẻ chia mà cịn có sự bền bỉ, theo đuổi mục
đích của việc làm. Chính những địi hỏi này đã biến Nhân thành một
phẩm chất lý tưởng, khó đạt tới. Mặc dù vậy, người dân vẫn luôn kỳ
vọng mọi người có thể đạt tới nên họ thường khuyên bảo và động
viên nhau trau dồi đức Nhân:
Ai ơi! Đừng vội, chớ lo
Khăng khăng giữ lấy trượng phu cho bền
Ai ơi! Giữ lấy đạo hiền
Trồng cây lấy đức, xây nền lấy nhân.
Vì đối với họ, Nhân khơng chỉ là lịng trắc ẩn, sự thương tâm, sẻ chia,
bảo bọc nhau của những thành viên sống trong cùng một cộng đồng
mà Nhân còn là nhân cách của “con người tử tế”, là phẩm giá của
những đấng “trượng phu”. Hơn nữa, vốn dĩ trong tâm thức của họ đã
tồn tại và duy trì một chữ Nhân kết hợp với lòng từ bi, bác ái của nhà
Phật: “Làm người tích đức tu nhân”, đã trở thành phương châm sống,
định hướng cách hành xử đầy tính nhân hậu, bao dung của người Việt
bao thế hệ xưa và nay. Chữ Nhân của họ giờ đây trở nên thiêng liêng.
Tất cả sự biến đổi tích cực về chữ Nhân đã được Trần Văn Giàu
tổng kết: “Khi ta hiểu rằng nhân là thương người; nhưng chính trong
cái điều tưởng như đơn giản ấy có cả một quan niệm rất đẹp được
người Việt lồng vào chữ “nhân” – chữ này vốn là một từ mà người
Việt vay mượn của người Hán.”
3.2.2. Nghĩa
Nghĩa gốc của Nghĩa là lẽ phải, điều đúng. Nho giáo giải thích
Nghĩa theo các ý sau:
- Động cơ của Nghĩa xuất phát từ ý thức vì người, vì cái lợi của
cộng đồng. Nghĩa có quan hệ chặt chẽ với Lợi (Vì cơng Lợi là hợp
Nghĩa, vì tư Lợi là trái với Nghĩa).
- Nghĩa bị chi phối bởi Lễ nhằm giữ vững kết cấu xã hội tôn ti.
- Nghĩa đi liền với Nhân.
Khổng Tử đã đưa ra tiêu chí hành xử của người quân tử: “Quân tử
nghĩa lấy làm cơ bản, lễ lấy làm khn phép, hành xử thì cốt giữ cho
khiêm tốn, trong chữ Tín cốt phải ngay thẳng, mới là bậc quân tử”
(Quân tử, nghĩa dĩ vi chất, lễ dĩ vi hành, tốn dĩ xuất chi, tín dĩ thành
chi, quân tử tai). Cách nêu vấn đề mang tính mặc định của Khổng Tử
cho thấy dường như những khái niệm này đã được thông hiểu nên mọi
người chấp nhận một cách tự nhiên và đã được nâng lên thành chuẩn
mực trong hành xử. Cùng thời với Khổng Tử, Mặc Tử cũng khơng có
16
định nghĩa rõ ràng cho Nghĩa nhưng lại xem nó là vật báu của thiên hạ
dưới góc nhìn của Lợi. Vì theo Mặc Tử, kết quả của những hành xử
theo Nghĩa là mang đến công lợi cho cộng đồng. Nghĩa trong những
cách dẫn dụng của Khổng Tử, Mặc Tử thuộc về nhận thức. Xuất phát
từ nhận thức, Nghĩa trở thành lý lẽ, lý lẽ này dựa trên công lợi mà lập
luận nên Nghĩa chính là điều đúng, mọi người phải làm theo.
Nghĩa trong tâm thức dân gian Việt mang đậm tinh thần vì người,
vì cộng đồng. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, Thạch Sanh giúp Lý
Thông, cứu công chúa... là những bằng chứng cụ thể chứng minh cho
chữ Nghĩa của người dân Việt. Khi tiếp nhận chữ Nghĩa Nho giáo,
Nghĩa người dân có một chữ Nghĩa mới nổi bật yếu tố lý trí:
- Chữ Nghĩa của họ có sự cân nhắc rõ ràng: “Con kiến cịn có vua
tơi/ Huống chi lồi người chẳng có nghĩa dư?”
- Hành động của Nghĩa hướng đến từng đối tượng cụ thể:
Hướng đến vua: “Vua tơi sẵn có nghĩa dày/ Cha con thân lắm,
đấng người nên trông”...
Hướng đến mẹ cha:
Ơn cha ba năm cúc dục
Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn
Biết lấy chi trả Nghĩa khó khăn
Đơi lứa ta phải lên non xắn đá, xây lăng phụng
thờ.
Hướng đến thầy:
Mẹ cha công đức sinh thành
Ra trường thầy dạy học hành cho hay
Muốn khơn thì phải có thầy
Khơng thầy dạy dỗ, đố mày làm nên
Mười năm luyện tập sách đèn
Công danh gặp bước chớ quên ơn thầy
Yêu kính thầy mới làm thầy
Những phường bội bạc sau này ra chi.
Nghĩa vợ chồng: “Một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen”;
“Xin đừng phụ nghĩa tào khang, bạc vàng dễ kiếm, bạn lang khó
tìm”. Một câu khác định rõ: “Anh em cốt nhục đồng bào/ Vợ chồng
là nghĩa lẽ nào chẳng thương?”
Chữ Nghĩa Nho giáo đã gia thêm cho chữ Nghĩa của người
dân Việt đặc tính lý trí, làm cho chữ Nghĩa của họ đã khơng cịn tự
phát, trở nên tự giác. Trong chừng mực nào đó sự tự giác là một yếu
tố tích cực trong trường hợp cần cân nhắc cẩn trọng trước khi hành
hiệp. Đến Lục Vân Tiên điều đó đã thể hiện rất rõ: “Nhớ câu kiến
nghĩa bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”. Bên cạnh đó
yếu tố lý trí đã giúp người dân đúc kết cho mình một chữ Nghĩa
mang tính “vượt gộp”.
Nghĩa được “định lượng” và xếp vào loại quý giá nhất: “Tiền là
gạch, ngãi là vàng.”; “Ơn nghĩa mắc hơn mua.”; ca dao có câu: “Trai
mà chi, gái mà chi/ Sinh ra có nghĩa có nghì thì hơn”. Câu ca dao là
một bằng chứng hùng hồn về sự tiếp biến Nho giáo linh động của
người dân. Họ đã chọn giá trị bản chất là Nghĩa nâng nó lên thành
17
biểu tượng đạo đức và hết mực trân trọng. Ngược lại, bỏ qua những
quan niệm hủ bại xem thường con gái của Nho giáo. Vì theo họ chỉ có
Nghĩa mới có giá trị trường tồn. Họ bảo rằng: “Đường mịn, nhân
nghĩa khơng mịn.”; ca dao có câu: “Sơng sâu nước chảy đá mòn/ Của
kia ăn hết, nghĩa còn ghi xương”.
Một đặc điểm nổi bật là Nghĩa tập trung vào mối quan hệ vợ chồng
theo cách diễn đạt của câu tục ngữ: “Chim gà, cây cau, rau cải, nhân
ngãi vợ, đầy tớ con”. Chính sự bộc lộ tập trung này đã biến chữ Nghĩa
thành nhân vật trữ tình cùng được vận dụng với các từ ngữ khác như
qua, bậu, loan, phụng... Chúng ta xem cách vận dụng trong câu ca dao
sau: “Chim quyên xuống đất tha mồi/ Tôi xa người nghĩa, đứng ngồi
khơng n”. Nhân vật trữ tình “người nghĩa” bộc lộ đầy đủ quan niệm
về tình u, về hơn nhân của ơng bà ta xưa. Nét đẹp của Tình cảm lứa
đôi bộc lộ qua Nghĩa: “Đã rằng là nghĩa vợ chồng/ Dầu cho nghiêng
núi cạn sông chẳng rời”. Nghĩa đã giúp cho Tình bền chặt. Ngược lại,
Tình giúp cho Nghĩa dịu ngọt hơn. Tình Nghĩa hỗ trợ cho nhau để mối
tình lứa đơi khơng những sâu đậm mà con bền chặt, trường tồn, khiến
những người trong cuộc luôn sống và cư xử có trước có sau, như cách
các nhân vật tâm sự: “Thương tình nhớ ngãi cố tri/ Tình thâm ngãi
nặng ra đi tìm nường”. Một bài ca dao khác chứng minh sự đóng góp
khơng nhỏ của Nghĩa vào sự bền chặt của tình cảm lứa đơi:
Nghĩa đa mang thề nguyền đã nặng
Mối tình này kết đặng chớ xa
Chạnh đau lòng như thiết như tha
Nhớ câu thề non hẹn bể lẽ đâu mà dám quên.
Giờ đây nét đẹp của Tình bộc lộ qua Nghĩa. Nghĩa, Tình bỗ trợ cho
nhau làm cho tình cảm lứa đơi càng bền chặt.
Nghĩa, suy cho cùng là những hành xử nhân ái, kính nhượng,
tương thân tương trợ giữa người với người. Nghĩa là bản chất nhân
văn của con người. Ở đâu có con người ở đó có sự xuất hiện của
Nghĩa. Đối với Nho giáo, Nghĩa là con đường đưa con người đạt đến
tính chân thiện, trải dài qua các mối quan hệ: Nghĩa vua – tôi, biểu
hiện qua đức Trung quân; Nghĩa mẹ cha, là trách nhiệm nuôi dạy con
cái của cha mẹ; đối với người con, Nghĩa lồng trong đạo Hiếu; vợ
chồng, Nghĩa là sự tương kính và thủy chung; trong quan hệ anh em,
đó là sự nhường nhịn, yêu quý nhau; đối với quan hệ bạn bè, cư xử
sao cho được lòng tin. Tính nền tảng cơ bản của Nghĩa đơi khi lại nổi
bật, trở thành đại diện cho những đức tính mà nó nâng đỡ. Chúng ta
thường nghe các cụm từ: Nghĩa vua tôi, Nghĩa mẹ cha, Nghĩa chồng,
Nghĩa vợ, Nghĩa anh em, Nghĩa bạn bè... Nghĩa vừa là nguyên nhân
thúc đẩy đưa đến những hành xử cao đẹp vừa là mục đích hướng đến
của những lối hành xử đó.
3.2.3. Sự kết hợp Nhân Nghĩa (Nghĩa Nhân)
Nghĩa là sự biểu hiện cụ thể của lòng Nhân qua từng hành vi ứng
xử giữa người với người của mỗi cá nhân. Câu tục ngữ: “Thằng vô
nghĩa ở bất nhân, dối thầy trở bạn” đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ
giữa Nhân và Nghĩa. Cả hai đều có cùng mục tiêu vì người và đưa đến
kết quả như nhau: “Những người nhân nghĩa chả hàn vi bao giờ”.
Nhân Nghĩa trở thành một từ ghép đẳng lập được dùng khá phổ biến
18
trong ngơn từ dân gian (tục ngữ có 11 câu, ca dao – dân ca có 150
bài).
Sự kết hợp Nhân Nghĩa là một biến thể của Nghĩa trong giới hạn
quan hệ lứa đơi: “Quan Cơng thuở trước có nghì (Nghĩa)/ Em ở có
nghĩa, anh vì nghĩa nhân”.
Đạo đức Nho giáo là đạo đức chính trị, đối tượng hướng đến là
những người đàn ông thuộc tầng lớp trên. Tiếp nhận Nho giáo, triều
đình phong kiến Việt Nam vẫn duy trì phương pháp chính trị bằng đạo
đức kết hợp với pháp trị đã biến hệ thống triết lý Nho giáo thành
chuẩn mực hành xử của xã hội, buộc mọi người phải tuân thủ. Các
phương tiện luật pháp, giáo dục, văn học – nghệ thuật... được khai
thác vào cơng cuộc “Nho giáo hóa” xã hội một cách đồng bộ, nhất
quán, có tác dụng hỗ trợ nhau làm cho Nho giáo từng bước thấm dần
vào đời sống người dân. Đồng thời, với sự uyển chuyển vận dụng của
phần lớn nho sĩ qua nhiều hình thức đã biến hệ thống đạo đức Nho
giáo cứng nhắc thành “đạo làm người”, thay đổi sâu sắc nhãn quan
của người dân đối với Nho giáo. Từ đó các khái niệm: Trung, Hiếu,
Nhân, Nghĩa Nho giáo dung hợp với đạo đức truyền thống của dân tộc
để trở thành những biểu tượng văn hóa của người Việt. Trong đó chứa
đựng nội dung cơ bản là đạo đức truyền thống của người Việt kết hợp
với tính triết lý của đạo đức Nho giáo biến những hành xử Chân,
Thiện của người dân từ bản năng thành tự giác có định hướng với mục
tiêu rõ ràng: vì người, vì cộng đồng là trên hết. Triết lý làm người này
khơng cịn phân biệt trên dưới, sang hèn, nam nữ, tất cả mọi người
trong xã hội đều phải cố gắng tu rèn, ngay cả các cô gái vốn bị Nho
giáo xem là những người “khó dạy” không đủ khả năng tiếp thu được
những lý lẽ Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa của Nho giáo. Họ là đối tượng
mà trước đây Nho giáo đã vạch riêng cho họ những tiêu chuẩn đạo
đức khác: Tiết trinh, Tam tòng, Tứ đức để bình xét nhân phẩm của họ.
Chương 4
SỰ TIẾP BIẾN CÁC PHẠM TRÙ TIẾT TRINH, TAM TÒNG
TRONG TỤC NGỮ, CA DAO – DÂN CA NGƯỜI VIỆT
4.1. Phạm trù Tiết trinh
Mục tiêu hướng đến của việc giáo hóa phẩm hạnh Tiết trinh cho
phụ nữ từ các nhà cầm quyền phong kiến không nhằm vào đạo đức
luân lý mà nhằm vào mục tiêu chính trị. Vua Minh Mệnh đã “cảnh
báo” trong Huấn Địch thập điều: “Trong sự giao tế nam nữ, tình dục
rất dễ mê hoặc, nếu không dùng lễ để đề phịng, thì đầu mối của nó
tuy rất nhỏ mà cái họa gây ra lại rất lớn”. Theo tinh thần đó, một số
địa phương đã duy tâm hoá hành vi thất tiết gian dâm của người phụ
nữ: “Ở đây có đức lấy trai/ Cho nên Trời hạn, nắng hồi khơng mưa”.
Hậu quả chỉ gán cho người phụ nữ còn người đàn ơng thì khơng
những được bao che mà cịn được khuyến khích: “Trai tài lấy năm lấy
bảy, gái chính chuyên chỉ lấy một chồng” đã tạo ra nhiều bất công và
cả bất nhân. Ca dao biện minh cho tính “trăng hoa” của người đàn ông
một cách thiếu công bằng, bức ép người phụ nữ:
Đàn ơng tính khí hoang tàn
Đàn bà con gái giữ giàng nết na
19
Phịng khi nó bỏ tay ra
Nín đi thì dại, nói ra mang điều.
Đây cũng là nguyên nhân mang tính bản chất làm nảy sinh những
hiện tượng phá cách, phản ứng theo kiểu thách thức: “Anh đánh thì tơi
chịu địn/Tính tơi hoa nguyệt mười con chẳng chừa”. Đôi khi người
phụ nữ bất chấp sự trừng phạt dã man của lệ làng, luật tục. Họ tuyên
bố: “Tính quen chừa chẳng được đâu/ Lệ làng, làng bắt mấy trâu mặc
làng”. Câu khác thể hiện sự liều lĩnh coi thường luật pháp: “Anh ơi!
Anh đợi tơi cùng/ Tơi cịn đốt mã cho chồng tơi đây”. Tình trạng này
mang tính phổ biến thể hiện qua những con số: tục ngữ 11 câu phá
cách so với 10 câu tuân thủ luật tục; ca dao – dân ca có 89 bài phá
cách so với 57 bài tuân thủ luật tục.
Tuy nhiên, vì tính chính thống nên thực tế đối với xã hội Việt Nam
thời phong kiến Tiết trinh vẫn là phẩm hạnh cơ bản, quyết định số
phận và nhân cách của một người phụ nữ. Nó chi phối quan niệm xã
hội, người đàn ơng có thể bỏ vợ nếu người vợ có những hành vi khơng
chính đính. Điều này được phản ánh qua tình huống đối đáp của đôi
vợ chồng:
Chồng trách vợ:
- Ai làm cho ngược lái chiếc thuyền tình
Sao em chẳng biết giữ gìn tiết trinh.
Người vợ phản ứng:
- Thơi anh đừng có đem dạ đổi dời
Anh nghe chi thế sự, rã rời gia cang.
Người chồng biện minh:
- Chẳng phải anh kiếm điều đặng dứt nghĩa lìa
tình
Bởi anh thấy em lắm sự bất bình nên phải xa.
Đối với các cô gái Tiết trinh là nhân phẩm, lòng tự trọng và sự
trọng thị của xã hội dành cho cá nhân cũng như gia đình, dịng họ cơ
nên các cơ cũng phải ép mình tn theo. Các cơ tuyên bố: “Mặc ai ép
nghĩa nài tình/ Phận mình là gái chữ trinh làm đầu”.
Các chàng trai thì cho rằng: “Phận anh quân tử bất quý ngàn vàng/
Chữ Trinh em giữ, anh chẳng màng vàng cân”. Về mặt bản chất, giữ
gìn Tiết trinh và theo đạo Tịng phu có quan hệ hỗ tương. Thúy Kiều
đã khẳng định: “Đã cho vào bậc bố kinh/ Đạo tòng phu, lấy chữ trinh
là đầu”. Giữ gìn Tiết trinh là trơng giữ “tài sản” của chồng một cách
cẩn trọng. Đó là một trong những biểu hiện của ý thức phục tùng, tôn
trọng chồng của người vợ. Một người vợ sống theo đạo Tịng phu
khơng ai dám làm tổn hao đến “tài sản” của chồng bằng hành vi thất
Tiết.
4.2. Phạm trù Tam tòng
Đạo lý này buộc người phụ nữ cả đời phụ thuộc vào ba người đàn
ông: cha, chồng và con, trải qua ba giai đoạn làm con, làm vợ, làm
mẹ. Mỗi giai đoạn người phụ nữ phải thực hiện đúng danh phận của
mình. Trong ba danh phận đó làm vợ là nổi bật và khắc nghiệt nhất vì
nó dài nhất và có nhiều bổn phận chồng chéo, trói buộc người phụ nữ
khi họ về sống với gia đình chồng. Thế nhưng, thực tế văn bản tục
20
ngữ, ca dao – dân ca lại cho thấy người phụ nữ Việt hầu như thuận
tùng theo đạo lý Tòng phu, biểu hiện qua sự chênh lệch của các con
số: tục ngữ có 24 câu so với 5 câu phản ứng phá cách, bất tùng; ca dao
có 112 bài thể hiện ý thức thuận tùng của người phụ nữ, phản ứng
ngược lại chỉ có 6 bài. Theo chúng tơi sở dĩ có kết quả như vậy vì một
số lý do:
Thứ nhất, người phụ nữ Việt nhận thức rằng: đây là Đạo lý
mang nội dung vì người, nặng trách nhiệm của một cá nhân đối với
gia đình và xã hội. Khi đã về làm vợ, người vợ được chồng nhỏ to:
... Anh cậy em coi sóc trăm đường
Để anh bn bán trẩy trương thơng hành
Cịn chút mẹ già ni lấy cho anh
Để anh buôn bán thông hành đường xa
Liệu mà thờ kính mẹ già
Đừng tiếng nặng nhẹ người ta chê cười
Dù no dù đói cho tươi
Khoan ăn bớt ngủ liệu bài lo toan
Cho anh đành dạ bán buôn.
Theo lời người chồng thì đã có một sự phân cơng rõ ràng: người
đàn ông lo việc bên ngoài, người vợ chu toàn việc nội trợ và cũng là
để giúp giảm gánh nặng cho chồng. Vì ý nghĩa này mà Tịng phu trở
thành điều đúng, lẽ phải các cô nên theo. Các cô gái bảo rằng: “Phận
gái xuất giá tòng phu phải lẽ”.
Mặt khác, theo diễn biến tình cảm của các chàng trai cơ gái thì Đạo
tịng phu cịn là ước nguyện thỏa tình riêng, trọn nghĩa vợ chồng của
các chị, như họ tâm sự:
Một lời thề khơng dun thì nợ
Hai lời thề khơng vợ thì chồng
Ba lời thề khở (khởi) núi lấp sơng
Em quyết theo anh đi cho trọn đạo kẻo luống công anh
đợi chờ.
Đây cũng là lý do thứ hai khiến các cô xem thuận theo chồng là
một lẽ tất nhiên.
Một lý do khác nữa, xét về mặt quyền lợi, nếu sống theo đạo Tịng
phu các cơ giữ được chữ Hịa và đơi khi có thể được cả sự chia sẻ,
cảm thơng của gia đình chồng:
Lúc bé cịn mẹ cịn cha
Lấy chồng con gái hóa ra dâu người
Gái khơn, gái phải nghe lời
Thờ chung bác mẹ ắt thời chở che.
Nhường nhịn chồng, tơn kính cha mẹ chồng để được khơng khí gia
đình ấm êm hạnh phúc thì đó là một điều hay, lẽ phải mà ai cũng nên
theo. Hơn nữa, quan hệ vợ chồng lại mang tính rường cột đối với việc
giữ hịa khí, nề nếp gia đình như người dân khẳng định: “Phu phụ hịa,
gia đạo thành” thì hành xử thuận tùng của người vợ càng trở nên quan
trọng. Người dân thường răn dạy, nhắc nhở cách cư xử của người vợ
luôn phải ở thế nhún nhường chồng, chủ động giải quyết mâu thuẫn:
“Chồng giận thì vợ làm lành”.
21
Ngoài những lý do về mặt nhận thức, thái độ ứng xử tơn trọng và
sự trân trọng vai trị, cơng lao của vợ từ phía người chồng là động lực
để người phụ nữ bền chí làm trịn bổn phận. Người chồng nhún
nhường nhờ cậy: “Đường gia trung nội trợ anh khẩn cầu đến em”.
Cũng chính câu nói này nó làm cho đạo Tịng phu của người phụ nữ
Việt đậm tính nhân văn bởi nó hàm chứa ý nghĩa “bình đẳng” trong
quan hệ vợ chồng. Cá nhân người chồng, cũng như xã hội ln đánh
giá cao vai trị của người phụ nữ qua các hình thức tri ân, tưởng
thưởng vì sự đỗ đạt của người chồng. Đối với người Việt, trong quan
hệ vợ chồng, người chồng không phải là kẻ bề trên, sai khiến người vợ
mà là trụ cột của gia đình, có nhiệm vụ phân cơng và chịu trách nhiệm
trước mọi thành viên trong gia đình về sự yên bình, hịa mục của
chính tập thể nhỏ này. Người vợ với vai trị “phụ tá”, nhận sự phân
cơng của chồng. Hơn nữa, ngồi nhiệm vụ được chồng ủy thác, người
vợ cịn có trách nhiệm khuyên bảo, góp ý xây dựng để người chồng
thấy được những sai sót mà sửa đổi nhằm hoàn thiện bản thân, làm
gương cho những người xung quanh, cốt yếu là giữ được uy tín cá
nhân để thực hiện những việc lớn lao.
Triều đình cịn chuộng Thi Thư
Khun anh đèn sách sớm trưa học hành
May nhờ phận có cơng danh
Mà anh phú q ấy mình vẻ vang
Khun đừng trai gái hoang toàng
Khuyên đừng chè rượu nữa mang tiếng cười
Cũng đừng cờ bạc đua chơi
Sao chọn sự nghiệp ra người trượng phu
Làm sao nên tiếng danh nho
Thần trung, hiếu tử để cho khen cùng.
Như vậy, về mặt hình thức, đạo Tòng phu do Nho giáo xuất xướng,
nhưng nội dung và ý nghĩa của những việc làm theo đạo Tòng phu mà
người dân Việt thể hiện đã vượt ra ngoài định hướng của Nho giáo.
Nho giáo đặt ra triết lý Tịng phu nhằm trói buộc người phụ nữ vào
người chồng, tách họ khỏi những sinh hoạt xã hội, nhồi vào họ mặc
cảm tự ti, thấp kém để hạn chế sức mạnh tiềm ẩn của những con người
có dáng vẻ bên ngoài yếu đuối nhưng mạnh mẽ và bền bỉ trong ý chí.
Trong vai trị này đạo Tịng phu của Nho giáo phục vụ cho mục đích
giữ vững tơn ti trật tự do Nho giáo thiết lập cho xã hội phong kiến.
Mục đích này đã dẫn đến một hệ lụy, định cho người phụ nữ một thân
phận suốt đời làm nô lệ cho người đàn ơng. Nương theo lý lẽ Tịng
phu, người Việt đã phát huy vai trò “nội tướng” của người vợ. Mặc dù
không tham gia vào những việc trọng đại nhưng những gì mang tính
thiết yếu liên quan đến kinh tế gia đình thì người chồng gần như trơng
cậy vào vợ.
Khách quan mà nhận xét, trong kết quả này chúng ta khơng thể phủ
nhận sự đóng góp của triết lý Tòng phu vào việc xây dựng nên phẩm
hạnh và nhân cách của người phụ nữ Việt Nam. Chính sự chặt chẽ của
triết lý Tòng phu: “Ghe bầu trở lái về đông/ Làm thân con gái thờ
chồng nuôi con”, sau đó lại được tiếp tục trong vai trị người mẹ,
người con dâu: “Có con gây dựng cho con/ Có chồng gánh vác nước
non nhà chồng”, đã tạo nên tính cách chịu thương, chịu khó, hy sinh
22
cho gia đình, chồng, con và một khả năng đảm đang, dẻo dai của
người phụ nữ Việt. Phụ nữ Việt truyền thống khơng những giỏi việc
nước mà cịn đảm việc nhà, một khả năng chu toàn khiến phụ nữ ở các
quốc gia khác khó lịng mà theo kịp.
KẾT LUẬN
I. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC GIẢI QUYẾT
(1) Qua việc vận dụng linh hoạt của các Nho sĩ cấp tiến một số triết
lý Nho giáo phức tạp hay không nổi bật đã được cụ thể hóa hoặc
khơng tập trung phổ biến. Ngược lại những triết lý có ảnh hưởng quan
trọng đến nhân luân, sự ổn định của xã hội và quyền lợi của giai cấp
phong kiến thống trị rất được nhấn mạnh. Đạo đức Nho giáo khi đến
với người dân đã tách khỏi ý nghĩa chính trị, trở thành những quy định
về cách tu thân, ứng xử giữa người với người cụ thể và rõ ràng trong
mọi hành vi. Vì thế, một số triết lý siêu hình như Đạo trở thành những
quy tắc ứng xử và là lý lẽ của lương tâm gắn chặt với đời sống hiện
thực. Đạo với ý nghĩa nguyên lý đã được vận dụng để chuyển tải
nguyên tắc đạo đức chuẩn mực, xác lập tính chính thống cho phép tắc
ứng xử xã hội. Trong khi đó Thiên mệnh đã phát huy khả năng khống
chế tinh thần bằng ý nghĩa tâm linh, mệnh số, Định phận. Trong một
giới hạn nhất định kết hợp với yếu tố tâm linh từ các tôn giáo khác,
thuyết Thiên mệnh của Nho giáo đã chi phối phần nào thế giới quan
và quan niệm nhân sinh của người dân. Tuy nhiên, sự chi phối đó vẫn
có sự kiểm sốt nhất định bởi tư duy thực tế, tin vào khả năng con
người là chính của những người lao động.
(2) Người dân đã tiếp nhận tư tưởng Nho giáo với nhận thức: đó là
những đạo đức nhân văn cơ bản của “đạo làm người” – Đạo lý, vì thế
họ tỏ rõ sự trân trọng đối với chúng. Họ đã dùng hình thức tục ngữ, ca
dao – dân ca vừa để phổ biến vừa nhằm lưu giữ tư tưởng chung của
thời đại.
(3) Dưới cái nhìn tích cực như vậy, người dân đã dung hợp đạo đức
Nho giáo với những yếu tố văn hóa vốn dĩ của mình tạo nên những
chuẩn mực làm người lấy bản thiện làm gốc. Trong đó các khái niệm
Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, Tiết trinh, Tòng phu, của Nho giáo trở
thành hệ thống “lý thuyết” đóng vai trị định hướng, góp phần chuẩn
hóa các quan niệm đạo đức sẵn có trong dân gian. Về nội hàm các đức
tính Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa đã trở thành biểu tượng đạo đức truyền
thống của người Việt, xây nên tính cách ơn hịa, tơn kính người trên,
nhường kẻ dưới của những bậc nam nhi nhưng khi cần cũng đủ dũng
mãnh để sẵn sàng ra tay nghĩa hiệp giúp người, hy sinh vì quyền lợi
quốc gia dân tộc như hành động của các nghĩa quân Yên Bái với sáu
chữ vàng: “Khơng thành cơng thì thành nhân”.
Người con gái được chú trọng răn dạy về ý thức giữ gìn Tiết trinh,
thuận tùng chồng, bồi thêm nét đẹp cho tính nhân hậu, chịu thương
chịu khó nhưng đảm đang hết mực của chị em. Người phụ nữ Việt với
những nét đẹp tâm hồn đã trở thành chỗ dựa vật chất và tinh thần cho
cả gia đình khi cần và gián tiếp làm tăng sức mạnh toàn dân, giúp dân
tộc Việt Nam vượt qua nhiều giai đoạn lịch sử khó khăn.
23
(4) Bản thân các yếu tố Nho giáo với những giá trị nhân văn
nguyên thủy, kết hợp với sự vận dụng linh hoạt của những người
mang nặng trách nhiệm “giáo hóa”, theo thời gian Nho giáo đã làm
thay đổi diện mạo văn hóa người Việt, trở thành bản sắc văn hóa
truyền thống của dân tộc, một số cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
(5) Trong điều kiện lịch sử nhất định, cùng nhận thức giới hạn của
một số nho sĩ, dưới sự bảo trợ của triều đình phong kiến đã xảy ra tình
trạng “bắt chước máy móc”, buộc người dân vào thế “tiếp nhận cưỡng
bức”, dẫn đến hệ lụy những định lệ phong kiến hủ bại được xây trên
nền tảng triết lý Nho giáo trở thành những thành phần không mong
muốn, tồn tại cùng với hệ thống biểu tượng văn hóa tiến bộ trong
phong tục truyền thống của người dân Việt. Đồng thời, tình trạng tiếp
biến thiếu linh động đã biến một số phong tục trở thành hủ tục khiến
cho đời sống người dân trở nên nặng nề, gây ra những cái nhìn thiếu
thiện cảm đối với một số nội dung Nho giáo, dồn ép người dân đến
tình huống phản kháng, chống đối, bộc phát thành những lời ca, câu
hát. Nội dung chống đối thể hiện trong tục ngữ, ca dao – dân ca cho
thấy sự thẳng thắn, trung thực, khơng chấp nhận những lề thói bất
nhân, bất cơng âm ỉ trong tâm thức của người Việt, khi có điều kiện
chúng biến thành những hành động thực tế không một chút khoan
nhượng với cái xấu. Hiện tượng này trong một thời gian dài trở thành
điểm nổi bật, đại diện cho thái độ của người dân đối với tư tưởng
thống trị Nho giáo. Trên quan điểm giai cấp chúng được nâng lên
thành thái độ tẩy chay, chống đối mà người dân lao động dành cho tư
tưởng thống trị, Nho giáo. Đồng thời sự tiếp biến tiêu cực trở thành
“điểm đen” trong quá trình nhìn nhận sự ảnh hưởng của Nho giáo, tư
tưởng phong kiến vào đời sống người dân và đã bị các nhà nghiên cứu
phê phán gay gắt.
Trong tình hình mới, thế giới đang nỗ lực khẳng định vai trị của
văn hóa đối với sự phát triển chung của xã hội, sự ảnh hưởng mang
tính quyết định của văn hóa đối với kinh tế đã buộc các quốc gia có
những động thái tích cực và những quyết sách tập trung vào sự bảo
tồn, giao lưu, trao đổi, tiếp biến văn hóa ngoại sinh để đáp ứng với xu
hướng tồn cầu hóa kinh tế hiện nay. Ở Việt Nam, trước đây, Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ phương cách xây dựng đời sống tinh thần cho xã hội
hiện đại qua hình thức giao lưu, tiếp biến văn hóa khi Người tỏ ý
khơng đồng tình với việc cải cách văn hóa triệt để của Trung Quốc,
Người cho rằng: “Với việc xóa bỏ những lễ nghi tưởng niệm Khổng
Tử, chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái với
tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hồn
thiện mình, về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng
Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc tác phẩm của Lê - nin”. Theo lời
Người, chúng ta không ngần ngại, một lần nữa tiến hành “tiếp biến” tư
tưởng của Khổng Tử dung hợp với nội dung cách mạng của hệ thống
lý luận Mác – Lê - nin nhằm xây nên một hệ thống biểu tượng văn hóa
mới phù hợp với tình hình hiện nay của quốc gia và thế giới?
II. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA CƠNG TRÌNH
- Thứ nhất, chúng tơi chưa thể giải thích được lý do tại sao các
phạm trù đạo đức Nho giáo không xuất hiện tương đồng và đầy đủ