Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU BẰNG ĐƯỜNG BIỀN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.61 KB, 19 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ GIAO NHẬN HÀNG HÓA XUẤT NHẬP KHẨU
BẰNG ĐƯỜNG BIỀN
1.1. Dịch vụ giao nhận.
1.1.1. Khái niệm.
Theo Quy tắc mẫu của Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA): Dịch vụ giao
nhận (Freight forwarding service) là bất cứ loại dich vụ nào liên quan đến vận chuyển, gom
hàng, lưu kho, bốc xếp, đóng gói hay phân phối hàng hóa cũng như các dịch vụ hoặc có liên
quan đến các dịch vụ trên kể cả các vấn đề hải quan, tài chính, mua bảo hiểm, thanh toán, thu
thập chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Theo Luật Thương mại Việt Nam: Dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại,
theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức vận chuyển,
lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người
nhận theo ủy thác của chủ hàng, của người vận tải hoặc người làm dịch vụ giao nhận khác
(gọi chung là khách hàng).
Như vậy, về cơ bản: giao nhận hàng hóa là tập hợp những công việc có liên quan
đến quá trình vận tải nhằm thực hiện việc di chuyển hàng hóa từ nơi gửi hàng (người
gửi hàng) đến nơi nhận hàng (người nhận hàng).
1.1.2. Đặc điểm của dịch vụ giao nhận vận tải.
Do cũng là một loại hình dịch vụ nên dịch vụ giao nhận vận tải cũng mang những đặc
điểm chung của dịch vụ, đó là nó là hàng hóa vô hình nên không có tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng đồng nhất, không thể cất giữ trong kho, sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời, chất
lượng của dịch vụ phụ thuộc vào cảm nhận của người được phục vụ. Nhưng do đây là một
hoạt động đặc thù nên dịch vụ này cũng có những đặc điểm riêng:
-
Dịch vụ giao nhận vận tải không tạo ra sản phẩm vật chất, nó chỉ làm cho đối tượng thay đổi
vị trí về mặt không gian chứ không tác động về mặt kỹ thuật làm thay đổi các đối tượng đó.
Nhưng giao nhận vận tải lại có tác động tích cực đến sự đến sự phát triển của sản xuất và
nâng cao đời sống nhân dân.
-
Mang tính thụ động: Đó là do dịch vụ này phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của khách hàng,
các qui định của người vận chuyển, các ràng buộc về luật pháp, thể chế của chính phủ (nước


XK, nước NK, nước thứ ba)…
-
Mang tính thời vụ: Dịch vụ giao nhận là dịch vụ phục vụ cho hoạt động XNK nên nó phụ
thuộc rất lớn vào lượng hàng hóa XNK. Mà thường hoạt động XNK mang tính chất thời vụ
nên hoạt động giao nhận cũng chịu ảnh hưởng của tính thời vụ.
-
Ngoài những công việc như làm thủ tục, môi giới, lưu cước, người làm dịch vụ giao nhận
còn tiến hành các dịch vụ khác như gom hàng, chia hàng, bốc xếp nên để hoàn thành công
việc tốt hay không còn phụ thuộc nhiều vào cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh nghiệm của
người giao nhận.
1.1.3. Yêu cầu của dịch vụ giao nhận vận tải.
Cũng như bất kỳ một loại dịch vụ nào, dịch vụ giao nhận vận tải hàng hóa tuy không có
những chỉ tiêu định tính để đánh giá chất lượng nhưng nó cũng có những yêu cầu đòi hỏi
riêng mà người giao nhận phải đáp ứng mới thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng. Một số
yêu cầu của dịch vụ này bao gồm:

Giao nhận hàng hóa phải nhanh gọn.
Nhanh gọn thể hiện ở thời gian hàng đi từ nơi gửi đến nơi nhận, thời gian bốc xếp,
kiểm đếm giao nhận. Giảm thời gian giao nhận, góp phần đưa ngay hàng hóa vào đáp ứng
nhu cầu của khách hàng, muốn vậy người làm giao nhận phải nắm chắc quy trình kỹ thuật,
chủng loại hàng hóa, lịch tàu và bố trí hợp lý phương tiện vận chuyển.

Giao nhận chính xác an toàn.
Đây là yêu cầu quan trọng để đảm bảo quyền lợi của chủ hàng và người vận chuyển.
Chính xác là yếu tố chủ yếu quyết định chất lượng và mức độ hoàn thành công việc bao gồm
chính xác về số lượng, chất lượng, hiện trạng thực tế, chính xác về chủ hàng, nhãn hiệu. Giao
nhận chính xác an toàn sẽ hạn chế đến mức thấp nhất sự thiếu hụt, nhầm lẫn, tổn thất về hàng
hóa.

Bảo đảm chi phí thấp nhất.

Giảm chi phí giao nhận là phương tiện cạnh tranh hiệu quả giữa các đơn vị giao nhận.
Muốn vậy phải đầu tư thích đáng cơ sở vật chất, xây dựng và hoàn chỉnh các định mức, các
tiêu chuẩn hao phí, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ.
1.1.4. Vai trò của dịch vụ giao nhận vận tải.
Vai trò quan trọng của giao nhận ngày càng được thể hiện rõ trong xu thế toàn cầu hóa
như hiện nay. Thông qua:
- Giao nhận tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông nhanh chóng, an toàn và tiết kiệm mà
không cần có sự tham gia của người gửi cũng như người nhận tác nghiệp.
- Giao nhận giúp cho người chuyên chở đẩy nhanh tốc độ quay vòng của phương tiện
vận tải tận dụng tối đa và hiệu quả sử dụng của các phương tiện vận tải cũng như các phương
tiện hỗ trợ khác.
- Giao nhận giúp giảm giá thành các hàng hóa xuất nhập khẩu do giúp các nhà xuất
nhập khẩu giảm bớt chi phí như: chi phí đi lại, chi phí đào tạo nhân công, chi phí cơ hội...
1.2. Người giao nhận.
1.2.1. Khái niệm.
Theo Quy tắc mẫu của FIATA: Người giao nhận là người lo toan để hàng hóa được
chuyên chở theo hợp đồng ủy thác và hành động vì lợi ích của người ủy thác mà bản thân
anh ta không phải là người chuyên chở. Người giao nhận cũng đảm nhận thực hiện mọi công
việc liên quan đến hợp đồng giao nhận như: bảo quản, lưu kho, trung chuyển, làm thủ tục hải
quan, kiểm hóa...
Theo Luật Thương mại Việt Nam: Người giao nhận là thương nhân có giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh về dịch vụ giao nhận hàng hóa. Người giao nhận có thể là:
- Chủ hàng: khi chủ hàng tự đứng ra đảm nhận công việc giao nhận hàng hóa của mình.
- Chủ tàu: Khi chủ tàu thay mặt người chủ hàng thực hiện dịch vụ giao nhận.
- Đại lý hàng hóa, công ty xếp dỡ hay kho hàng, người giao nhận chuyên nghiệp hay
bất kỳ người nào khác có đăng ký kinh doanh dịch vụ giao nhận hàng hóa.
Vậy, Người giao nhận là người:
- Hoạt động theo hợp đồng ủy thác với chủ hàng, bảo vệ lợi ích của chủ hàng.
- Lo việc vận tải nhưng chưa hẳn là người vận tải. Có thể là người có hoặc không có
phương tiện vận tải, có thể sử dụng, thuê mướn người vận tải hoặc trực tiếp tham gia vận tải.

Nhưng ký hợp đồng ủy thác giao nhận với chủ hàng là người giao nhận chứ không phải
là người vận tải.
- Cùng với việc tổ chức vận tải, người giao nhận còn làm nhiều việc khác trong phạm
vi ủy thác của chủ hàng để đưa hàng từ nơi này đến nơi khác theo những điều khoản đã cam
kết.
- Người giao nhận có thể làm các dịch vụ một cách trực tiếp hoặc thông qua đại lý và
thuê dịch vụ của người thứ ba khác.
- Người làm dịch vụ giao nhận khi nhận việc vận chuyển hàng hoá thì phải tuân theo
quy định của pháp luật chuyên ngành về vận tải.
Trong xu thế thương mại toàn cầu hoá cùng với sự phát triển nhiều hình thức vận tải
mới trong những thập niên qua. Ngày nay, người làm dịch vụ giao nhận hàng hoá giữ vai trò
quan trọng trong vận tải và buôn bán quốc tế. Những dịch vụ người giao nhận thực hiện
không chỉ dừng lại ở các công việc cơ bản truyền thống như đặt chỗ đóng hàng, nơi dùng để
kiểm tra hàng hoá, giao nhận hàng hoá mà còn thực hiện những dịch vụ chuyên nghiệp hơn
như tư vấn chọn tuyến đường vận chuyển, chọn tàu vận tải, đóng gói bao bì hàng hoá, …
1.2.2. Phạm vi các dịch vụ của người giao nhận.

Dịch vụ thay mặt người gửi hàng (Người XK).
Người giao nhận với những thoả thuận cụ thể sẽ giúp khách hàng của mình (người XK)
những công việc sau:
- Lựa chọn tuyến đường, phương thức vận tải và người vận tải thích hợp.
- Lưu khoang với hãng tàu đã chọn lựa.
- Nhận hàng hoá và cấp các chứng từ liên quan.
- Nghiên cứu các điều kiện của thư tín dụng (L/C) và các văn bản luật pháp của chính
phủ liên quan đến vận chuyển hàng hoá của nước XK, nước NK, kể cả các quốc gia chuyển
tải hàng hoá, cũng như chuẩn bị các chứng từ cần thiết.
- Ðóng gói hàng hoá (trừ khi hàng hoá đã đóng gói trước khi giao cho người giao nhận)
có tính đến tuyến đường, phương thức vận tải, bản chất hàng hóa và các luật lệ áp dụng nếu
có nước XK, các nước chuyển tải và các nước đến.
- Tư vấn cho người xuất khẩu về tầm quan trọng của bảo hiểm hàng hoá.

- Chuẩn bị kho bảo quản hàng hoá, cân đo hàng hoá (nếu cần).
- Vận chuyển hàng hoá đến cảng, sắp xếp việc khai hải quan, thực hiện các thủ tục về lệ
phí ở khu vực giám sát hải quan, cảng vụ, và giao hàng hoá cho người vận tải.
- Nhận B/L từ người vận tải, sau đó giao cho người xuất khẩu.
- Theo dõi quá trình vận chuyển hàng hoá đến cảng đích bằng cách liện hệ với người
vận tải hoặc đại lý của người giao nhận ở nước ngoài.
- Ghi chú về những mất mát, tổn thất đối với hàng hoá (nếu có).
- Giúp người xuất khẩu trong việc khiếu nại đối với những hư hỏng, mất mát hay tổn
thất của hàng hoá.

Dịch vụ thay mặt người nhận hàng (Người NK).
Người giao nhận với những thoả thuận cụ thể sẽ giúp khách hàng của mình (người NK)
những công việc sau:
- Theo dõi quá trình vận chuyển hàng hoá trong trường hợp người NK chịu trách nhiệm
về chi phí vận chuyển.
- Nhận và kiểm tra tất cả các chứng từ liên quan đến quá trình vận chuyển hàng hoá.
- Nhận hàng từ người vận tải và nếu cần, trả cước phí.
- Chuẩn bị các chứng từ, nộp các lệ phí giám sát hải quan, các lệ phí liên quan.
- Chuẩn bị kho hàng chuyển tải (nếu cần thiết).
- Giao hàng hoá đã làm thủ tục hải quan cho người NK.

- Giúp người NK trong việc khiếu nại với các tổn thất, mất mát của hàng hoá.
- Giúp người NK trong việc lưu kho và phân phối hàng nếu cần.

Các dịch vụ khác.
Ngoài các dịch vụ kể trên, người giao nhận còn cung cấp các dịch vụ khác theo yêu cầu
của khách hàng như dịch vụ gom hàng, tư vấn cho khách hàng về nhu cầu tiêu dùng, các thị
trường mới, tình huống cạnh tranh, chiến lược XK, các điều kiện giao hàng phù hợp, các điều
khoản thương mại thích hợp cần phải có trong hợp đồng ngoại thương …
1.3. Địa vị pháp lý về người giao nhận.

Do chưa có luật lệ quốc tế quy định về địa vi pháp lý của người giao nhận nên ở các
nước khác nhau thì địa vị pháp lý của người giao nhận có khác nhau.

Theo các nước sử dụng luật Common law.
Người giao nhận có thể lấy danh nghĩa của người ủy thác (người gửi hàng hay người
nhận hàng) thì địa vị người giao nhận dựa trên khái niệm về đại lý. Hay có thể đảm nhận vai
trò của người ủy thác (nhân danh và hành động bằng lợi ích của chính mình). Tự mình chịu
trách nhiệm trong quyền hạn của chính mình.
Hoạt động của người giao nhận khi đó phụ thuộc vào những quy tắc truyền thống về
đại lý, như việc phải mẫn cán khi thực hiện nhiệm vụ của mình, phải trung thực với người ủy
thác, tuân theo những chỉ dẫn hợp lý của người ủy thác, mặt khác được hưởng những quyền
bảo vệ và giới hạn trách nhiệm phù hợp với vai trò của một đại lý.
Trong trường hợp người giao nhận đảm nhận vai trò của người ủy thác (hành động cho
lợi ích của mình), tự mình ký kết hợp đồng với người chuyên chở và các đại lý, thì người
giao nhận sẽ không được hưởng những quyền bảo vệ và giới hạn trách nhiệm nói trên, mà
phải chịu trách nhiệm cho cả quá trình giao nhận hàng hóa kể cả khi hàng nằm trong tay
những người chuyên chở và đại lý sử dụng.

Theo các nước sử dụng luật Civil law.
Có quy định khác nhau nhưng thông thường người giao nhận lấy danh nghĩa của mình
giao dịch cho công việc của người ủy thác họ vừa là người ủy thác và vừa là đại lý. Đối với
người ủy thác (người nhận hàng hay người gửi hàng) họ được coi là đại lý còn đối với người
chuyên chở họ lại là người ủy thác. Tuy nhiên thể chế mỗi nước sẽ có những điểm khác biệt.
Liên đoàn các hiệp hội giao nhận quốc tế (FIATA) đã soạn thảo Điều kiện kinh doanh
tiêu chuẩn để các nước tham khảo xây dựng các điều kiện cho ngành giao nhận của nước
mình, giải thích rõ ràng các nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của người giao nhận.
Điều kiện kinh doanh tiêu chuẩn quy định người giao nhận phải:
- Tiến hành chăm sóc chu đáo hàng hóa được ủy thác.
- Điều hành và lo liệu vận tải hàng hóa được ủy thác theo chỉ dẫn của khách hàng về
những vấn đề có liên quan đến hàng hóa đó.

- Người giao nhận không nhận đảm bảo hàng đến vào một ngày nhất định, có quyền
cầm giữ hàng khi khách hàng của mình không thanh toán các khoản phí.
- Chỉ chịu trách nhiệm về lỗi lầm của bản thân mình và người làm công cho mình,
không chịu trách nhiệm về sai sót của bên thứ ba, miễn là đã tỏ ra cần mẫn thích đáng trong
việc lựa chọn bên thứ ba đó.
Những điều kiện này thường được hình thành phù hợp với tập quán thương mại hay thể
chế pháp lý hiện hành ở từng nước.

×