Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chính sách ưu đãi thuế, tài chính, ngân hàng ở một số đặc khu thuộc Trung Quốc và kiến nghị cho các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.72 KB, 7 trang )

BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT

CHÍNH SÁCH ƯU ĐÃI THUẾ, TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG Ở MỘT SỐ
ĐẶC KHU THUỘC TRUNG QUỐC VÀ KIẾN NGHỊ CHO CÁC ĐƠN VỊ
HÀNH CHÍNH - KINH TẾ ĐẶC BIỆT CỦA VIỆT NAM
Nguyễn Thị Lan Hương*

* TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
Thông tin bài viết:
Từ khóa: đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt,
ưu đãi thuế, tài chính
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 17/12/2017
Biên tập: 26/01/2018
Duyệt bài: 01/02/2018

Tóm tắt:
Mục tiêu lâu dài của xây dựng các đơn vị hành chính - kinh tế
đặc biệt là tạo ra sự phát triển đột phá trong phát triển kinh tế
và tạo ra mô hình mẫu cho phát triển, do đó ngay từ đầu không
thể đặt ra mục đích tạo nguồn thu cho Nhà nước mà cần từng
bước hướng các chủ thể kinh doanh tận dụng lợi thế của địa
bàn phát triển kinh doanh, tạo ra thu nhập bền vững trên cơ sở
đó củng cố vững chắc quyền tạo lập nguồn thu của Nhà nước.
Chính sách, pháp luật ưu đãi thuế, tài chính đột phá sẽ góp
phần cho sự phát triển các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt,
và quản lý hành chính gọn nhẹ trong đó có quản lý thuế sẽ tác
động hình thành phong cách quản lý và kinh doanh mới.

Article Infomation:
Keywords: special administrative economic


units, tax and financial incentives
Article History:
Received:
17 Dec. 2017
Edited:
26 Jan. 2018
Approved: 01 Feb. 2018

Abstract:
The long-term goal of the special administrative and economic
units is to create a breakthrough in economic developments
and a modality for developments. It is not to set a target of the
state budget generation, but to gradually provide convenient
conditions for the the business entities taking the advantages
for economic developments to create a sustainable revenue
for the state budget. The breakthrough policies and legal
provisions for tax and financial incentives will contribute to
the development of the special administrative and economic
units and streamlined administrative management, including
the tax administration and new modality of the business
management.

1. Quy định về chính sách thuế, tài chính
của Hồng Kông
Ngành kinh tế chính của Hồng Kông là
thương mại (xuất khẩu), tài chính, bảo hiểm,
du lịch, thương mại (trong nước và quốc tế,

26


Số 5(357) T3/2018

vận tải, dịch vụ chuyên môn và dịch vụ cho
các nhà sản xuất khác). Quy mô của ngành
tài chính lớn, chỉ sau thương mại và vận tải.
Đây là ngành đại diện cho Hồng Kông.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính thế


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
giới năm 2008, chính quyền Hồng Kông đã
bổ sung bốn ngành đại công nghiệp và chỉ
định sáu ngành đại công nghiệp sẽ góp phần
tăng trưởng của Hông Kông. Các ngành đó là
công nghiệp văn hóa, creative1, dịch vụ y tế,
dịch vụ giáo dục, công nghệ hóa học sáng tạo,
dịch vụ kiểm tra và kiểm định, công nghiệp
bảo vệ môi trường.
Năm 2012, các ngành này đóng góp
8,7% vào GDP của Hồng Kông2. Hồng Kông
có quan hệ thương mại mật thiết với Hoa Kỳ,
EU, ASEAN và Nhật Bản. Xuất khẩu của
Hồng Kông đứng thứ 8 trên thế giới, 90%
lượng xuất khẩu của Hồng Kông là hàng tái
xuất khẩu. Kinh tế Hồng Kông hiện nay dựa
vào kinh tế Trung Quốc, với 55% lượng xuất
khẩu (năm 2013) sang Trung Quốc.
Ở Hồng Kông, thuế thu nhập doanh
nghiệp (TNDN) có phân biệt pháp nhân và cá
nhân kinh doanh, trong đó thuế đối với pháp

nhân là 16,5%, cá nhân kinh doanh là 15%.
Thuế đối với thu nhập cá nhân (TNCN) có hai
loại: (i) áp dụng đối với thu nhập không khấu
trừ cá nhân là 15%, và (ii) đối với thu nhập
sau khấu trừ cá nhân theo biểu thuế lũy tiến
từng phần. Biểu thuế lũy tiến có 4 bậc, dưới
40.000 HKD3 là 2%, từ 40.000 đến 80.000
HKD là 7%, từ 80.000 đến 120.000 HKD là
12%, từ 120.000 HKD trở lên là 17%. Thuế
thu nhập từ bất động sản là 15%4.
Hồng Kông không đánh thuế tiêu
dùng, không đánh thuế thu nhập đối với
cổ tức, lợi nhuận vốn đầu tư (đối với đối
1
2
3
4
5
6

tượng không đầu cơ), miễn lãi suất tiền
gửi tại một số ngân hàng được chấp thuận.
Ngoài ra, thuận lợi đối với các doanh nghiệp
kinh doanh là được cho phép chuyển lỗ vô
thời hạn5.
Như vậy, có thể thấy thuế suất thuế
TNDN và thuế TNCN ở Hồng Kông có sự
ưu đãi hơn so với một số nước trong khu vực,
Trung Quốc đại lục và Việt Nam.
2. Quy định về chính sách thuế, tài chính

của Macao
Kinh tế Macao dựa vào ngành kinh
doanh casino và du lịch do các hạn chế về
điều kiện đất đai và về dân số. Kinh doanh
casino ở Macao đóng góp lớn trong tăng
trưởng kinh tế. Năm 2013, tỷ lệ tăng trưởng
kinh doanh casino và kinh doanh du lịch
chiếm 11,9% (năm 2012 là 9,9%). Ngành
kinh doanh casino được luật hóa từ năm 1947
và sau các cuộc cạnh tranh quyết liệt, đến
năm 2001 chỉ còn một công ty độc quyền.
Sau đó, với chính sách mở cửa gọi vốn đầu tư
nước ngoài, đến tháng 2/2014 đã có 06 công
ty kinh doanh và 36 địa điểm kinh doanh với
doanh thu khoảng 451 tỷ USD. Bên cạnh đó,
từ năm 2003, Chính phủ Trung Quốc dỡ bỏ
lệnh cấm du lịch Macao, số người du lịch
tăng lên, hạ tầng cơ sở hoàn thiện với đường
sắt cao tốc đã làm tăng trưởng khách du lịch,
nên đã giúp phát triển hoạt động kinh doanh
này6. Ngoài ra, Macao còn có công nghiệp
dệt, thời trang, sản xuất pháo hoa. Gần đây,
một số ngành nghề quy mô nhỏ như sản xuất

Lĩnh vực công nghiệp liên quan đến sản xuất sản phẩm có quyền sở hữu trí tuệ như nghệ thuật, phim ảnh, game, thiết
kế trang phục, quảng cáo.
香港における金融ビジネスの立地競争力に関する調査研究、株式会社大和総研所 報告書。平成26年11月
(Báo cáo Nghiên cứu điều tra về năng lực cạnh tranh trong ngành tài chính, thương mại tại Hồng Kông, Viện Nghiên
cứu DAIWA), tr. 10.
Theo tỉ giá ngày 13/10/2017, 1 HKD =2.909,6 VND.

「香港の税務行政と税制の概要」、税大ジャーナル23号、5月2014年 (Khái quát chế độ thuế và quản lý hành
chính thuế Hồng Kông, Tạp chí Thuế số 23, tháng 5/2014 - bản tiếng Nhật), tr. 259.
「香港税制」(Về chế độ thuế của Hồng Kông - bản tiếng Nhật), 2017年01月26日Tải từ: />world/asia/hk/invest_04.html .
香港・マカオ経済概観(一国二制度のもと、「中国経済」との関係を深める香港・マカオ経済について
)在香港日本総領事館・経済班 2014年6月(Báo cáo về toàn cảnh kinh tế Hồng kông và Makao trong quan hệ
với Trung quốc. Tháng 6/2014, Lãnh sự quán Nhật Bản tại Hồng Kông, Nhóm Kinh tế - bản tiếng Nhật).
Số 5(357) T3/2018

27


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
đồ chơi, làm hoa giả và thiết bị điện tử... cũng
phát triển.
Mặc dù là lãnh thổ thuộc Trung Quốc
nhưng chính quyền Macao có sự độc lập nhất
định trong định hướng phát triển và quản lý
kinh tế - xã hội. Macao có nguồn tài chính
dồi dào nên thực hiện chế độ miễn các chi phí
giáo dục và y tế, người dân ở đây có tuổi thọ
thuộc loại cao nhất thế giới7.
Hệ thống tài chính bao gồm ngân
hàng và các công ty bảo hiểm của Macao có
những đặc thù. Macao không quản lý ngoại
hối, đồng vốn ra vào Macao tự do, ngân
hàng có thể thực hiện nghiệp vụ ngoại hối và
nghiệp vụ của ngân hàng offshore. Macao
có đồng tiền riêng là MOP, giá trị của đồng
tiền MOP của Macao ngang với tiền HKD
của Hồng Kông.

Macao không đánh thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng (GTGT).
Thuế thu nhập với mức thuế suất thấp và thủ
tục thu thuế đơn giản nên đã thu hút đầu tư
trên toàn thế giới.
Năm 2014, thuế TNDN: dưới 60.000
MOP được miễn thuế; thu nhập trên 60.000
MOP nộp 12%. Chủ thể nộp thuế được
chia thành hai nhóm, doanh nghiệp nhóm A
theo tiêu chí điều kiện về vốn trên 01 triệu
MOP và bình quân thu nhập chịu thuế trên
500.000 MOP trong 3 năm, đăng ký từ tháng
4-6 hàng năm; doanh nghiệp nhóm A được
chuyển lỗ trong vòng 3 năm, còn nhóm B
không được chuyển lỗ8.
Thu nhập của cá nhân có thể được trả
bằng các đồng ngoại tệ với phương pháp

7
8

khác nhau. Thu nhập được khấu trừ cố
định 25%/tổng thu nhập. Đối với thu nhập
chịu thuế, thu nhập dưới 95.000 MOP được
miễn thuế. Trên mức thu nhập được miễn
thuế, thuế sẽ bị đánh theo biểu thuế lũy tiến
từng phần với 6 bậc thuế suất: 7%, 8%, 9%,
10%,11%,12%. Ngoài ra, người trên 65 tuổi
và người tàn tật 60% trở lên được miễn thuế
với mức 135.000 MOP/năm9.

Thuế bất động sản cố định đánh vào
thu nhập từ bất động sản ở Macao, thu nhập
từ cho thuê bất động sản, tiện ích nhận được
của người sử dụng hoặc tiện ích mang tính
kinh tế nhận được thông qua việc sử dụng
bất động sản đối với bất động sản là nhà ở.
Từ năm 2010, thuế suất đối với nhà ở là 6%,
tài sản cho thuê là 10%. Năm 2012, miễn
giảm tiền thuế là 3.500 MOP được công bố
trong Báo cáo của Trưởng hạt Macao10.
Đánh thuế kinh doanh, Macao có phân
biệt phạm vi hoạt động và ngành nghề kinh
doanh theo công bố, đối với ngân hàng là
80.000 MOP, còn đối với các ngành khác
có thể là từ 150 đến 1.500 MOP11. Thuế đối
với kinh doanh du lịch (nhà hàng, phòng
massage, khách sạn…) là 5%/tổng khoản
tiền thu được từ cung cấp dịch vụ12.
3. Chính sách thuế, tài chính của đặc khu
kinh tế Quảng Đông và Qianhai
Mô hình đặc khu kinh tế Qianhai là sự
tiếp nối phát triển dựa trên lợi thế phát triển
kinh tế của Đặc khu kinh tế tại tỉnh Quảng
Đông Trung Quốc.
Đặc khu kinh tế Quảng Đông được
hình thành từ những năm 80 của thế kỷ

中華人民共和国マカオ特別行政区(Về đặc khu kinh tế Macao CHND Trung Hoa - bản tiếng Nhật), trang 11.
Tham khảo Macao SAR Tax Profile, June 2015, KPMG tải từ />Macao-2015.pdf.
9 Theo Bảng tổng hợp về thuế suất trang 52,53「マカオ進出に関する制度情報」、日本貿易振興機構、香港事務

所、2012年 3月 (Thông tin về xúc tiến đầu tư Macao, Jetro Nhật Bản, Văn phòng đại diện Hồng Kông, 3/2012 ). 
10 Sđd chú thích 15, trang 55
11 Sđd chú thích 15, trang 58
12 Sđd chú thích 15, trang 60 

28

Số 5(357) T3/2018


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
trước13. Đặc khu kinh tế này được thành lập
để thu hút đầu tư của các doanh nghiệp Hồng
Kông, người lao động từ các địa phương của
Trung Quốc đại lục. Ban đầu, đặc khu này
phát huy vai trò là nơi gia công hàng xuất
khẩu. Sau đó, doanh nghiệp từ các nước, khu
vực như Đài Loan và Nhật Bản đến đầu tư.
Năm 1990, thị trường chứng khoán Thâm
Quyến được thành lập và Thâm Quyến trở
thành một biểu tượng của cải cách kinh tế.
Sau khi Hồng Kông được trao trả về Trung
Quốc, tỉnh Quảng Đông và Hồng Kông đã
ký kết Hiệp định khung hợp tác kinh tế.
Hiệp định này dựa trên Hiệp định thắt chặt
quan hệ ngoại thương giữa Hông Kông và
Trung Quốc đại lục (CEPA) và kế hoạch phát
triển cải cách kinh tế Đồng bằng Châu Giang
(2008-2013).
Trong lĩnh vực tài chính, Trung Quốc

phát triển hệ thống tài chính bằng việc nâng
cao vị thế tài chính của Hồng Kông và phát
triển tài chính của Quảng Đông. Hai địa
phương này đã hỗ trợ để thiết lập các định chế
tài chính, mở rộng quyết toán ngoại thương
bằng đồng NDT tại Hồng Kông. Hay nói cách
khác, Trung Quốc đã thực hiện được sự nhất
thể hóa Hồng Kông và Quảng Đông trong
lĩnh vực tài chính14.
Tháng 8/2010, Chính phủ Trung Quốc
đã thông qua Kế hoạch Phát triển có hệ thống
ngành dịch vụ hiện đại Hồng Kông tại Qianhai
Thâm Quyến.
Chính phủ Trung Quốc ban hành chính
sách mới với nội dung bao gồm: (i) mở rộng
hơn nữa quan hệ ngoại thương giữa Trung

Quốc đại lục và Hồng Kông; (ii) nâng cao vị
thế tài chính của Hồng Kông; hỗ trợ phát triển
thị trường offshore NDT- dịch vụ ngân hàng
cho người không cư trú tại Hồng Kông15; (iii)
hỗ trợ tham gia các Hiệp định kinh tế quốc tế
và khu vực của Hồng Kông; thúc đẩy đầu tư
với sự hỗ trợ của doanh nghiệp Trung Quốc
và Hồng Kông; phát huy vai trò quan trọng
của Hồng Kông trong quan hệ kinh tế Quảng
Đông, Hồng Kông, Macao.
Thành lập khu kinh tế đặc biệt Qianhai
thuộc Thẩm Quyến - “Khu hợp tác dịch vụ
công nghiệp mô hình Hồng Kông”, là tham

vọng của chính quyền Trung Quốc nhằm xây
dựng Hồng Kông thu nhỏ tại Thâm Quyến
trong Trung Quốc đại lục. Kế hoạch cho xây
dựng khu vực này được phê chuẩn năm 2010,
sau đó, Chính phủ đã xúc tiến hoàn thiện hạ
tầng cơ sở để thu hút đầu tư nước ngoài.
Chính phủ Trung Quốc dự kiến phát
triển khu kinh tế đặc biệt với tổng giá trị đầu
tư là hơn 45 tỷ NDT và nhằm phát triển các
ngành chủ đạo là dịch vụ tài chính và công
nghệ thông tin, với số vốn đăng ký là 140
tỷ NDT, với khoảng 1.000 nhà đầu tư tham
gia, trong đó hơn 70% vốn của HSBC (Anh),
Sumitomo Mitsui (Nhật Bản) và UBS (Thụy
Sỹ)16.
Trung Quốc mong muốn thu hút doanh
nghiệp và tài năng lao động đến từ Hồng Kông,
nên thuế TNDN áp dụng chỉ với mức 15%,
không đánh thuế TNCN đối với các chuyên
gia tài chính (the Financial Professionals),
luật sư, kế toán và những người có khả năng
sáng tạo (creative people)17.

13 Đặc khu hình thành theo Quyết định về đặc khu kinh tế tại tỉnh Quảng Đông của Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu
Nhân dân Toàn quốc nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 26/8/1980.
14 Tham khảo bài「中国深圳前海地区での金融自由化に向けた実験のスタート」、関根栄一、李刊中国資本市
場研究、 2013 Spring 61頁(“Khởi động thử nghiệm hướng tới tự do hóa tài chính tại Qianhai Thâm Quyến - Trung
Quốc”Sekine, Tạp chí Nghiên cứu thị trường Trung Quốc, Mùa xuân, 2013, trang 61 ).
15 Ngân hàng ngoài nơi cư trú của người gửi tiền, người mở tài khoản là người không cư trú trên địa bàn quản hạt, lợi thế
của ngân hàng này là thuế suất thấp hoặc miễn thuế, sử dụng gửi tiền đơn giản, được bảo đảm trước sự biến động khu

vực, chính trị và tài chính.
16 Đặc khu kinh tế Qianhai tại Thâm Quyến là một dự án đầy tham vọng..., tải lên bởi FBNC Vietnam, ngày 20/8/ 2013.
17 “The more special economic Zone” 7, July 2012. www.economist.com/node/21558307
Số 5(357) T3/2018

29


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
Ngoài ra, Trung Quốc thực hiện ưu đãi
đối với các doanh nghiệp đăng ký thành lập
tại Qianhai; ưu đãi cho vay vốn đối với các
doanh nghiệp thành lập và kinh doanh tại
Qianhai từ các ngân hàng thực hiện dịch vụ
bằng đồng NDT tại Hồng Kông thông qua
các giao dịch quyết toán tại các ngân hàng
ở Thâm Quyến. Các doanh nghiệp này phải
sử dụng vốn nhằm phát triển các ngành công
nghiệp tại Qianhai và được hỗ trợ vay vốn để
nhập khẩu và hoạt động khác. Bên cạnh đó,
quy định cấm sử dụng vốn để đầu tư để đầu tư
chứng khoán, hàng hóa phái sinh; cho vay ủy
thác; mua hàng hóa kinh doanh vốn và tài sản;
mua bất động sản ngoài bất động sản sử dụng
cho doanh nghiệp… Bên cạnh đó, ban hành
chủ trương của Chính phủ tự do hóa về tài
chính để doanh nghiệp có thể vay ngân hàng
Hồng Kông với lãi suất thấp18.
4. Một số kiến nghị về chính sách ưu đãi
thuế, tài chính cho các đơn vị hành chính

- kinh tế đặc biệt ở nước ta
4.1 Nhóm các biện pháp ưu đãi về
thuế
i) Ưu đãi thuế TNCN
Dự thảo Luật Đơn vị hành chính kinh tế (HC-KT) đặc biệt (Dự thảo Luật)19
đã quy định biện pháp ưu đãi thuế TNCN
trong đó miễn thuế cho cá nhân có thu nhập
từ tiền công, tiền lương và từ hoạt động kinh
doanh của cá nhân trong thời gian 05 năm,
nhưng không quá năm 2030 và giảm 50%
số thuế TNCN phải nộp trong các năm tiếp
theo (Khoản 1 Điều 24). Ngoài ra, Dự thảo
Luật còn qui định về miễn thuế TNCN trong

thời gian 10 năm nhưng không quá năm
2030 và giảm 50% số thuế TNCN phải nộp
trong năm tiếp theo đối với thu nhập từ tiền
công, tiền lương và thu nhập từ kinh doanh
của nhà quản lý, nhà khoa học, chuyên gia
có trình độ cao làm việc tại đơn vị HC-KT
đặc biệt (Khoản 2 Điều 24). Việc miễn, giảm
thuế này nhằm giảm gánh nặng về thuế cho
cá nhân, nhưng thực chất là tác động vào
chính sách chi trả tiền lương của các doanh
nghiệp và các tổ chức khác trên địa bàn đơn
vị HC-KT đặc biệt trong thời gian đầu thành
lập và hoạt động. Ngoài ra, biện pháp miễn,
giảm thuế cũng có ý nghĩa tác động vào nhu
cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của cá
nhân có thu nhập tại các đơn vị HC-KT đặc

biệt. Quy định này tuy đã thể hiện sự ưu đãi
hơn đối với cá nhân có thu nhập trong nước
khác, nhưng vẫn chưa thể hiện lợi thế trong
biện pháp ưu đãi thuế so với quy định mà
chính quyền Hồng Kông, Macao20 đang áp
dụng.
Theo dự kiến, trong tương lai không
xa (chỉ năm 2020), Đặc khu Phú Quốc sẽ
đạt mức thu nhập bình quân 5.000 USD
(cao gấp đôi thu nhập bình quân cả nước
hiện nay) và tới năm 2030, cả 03 đặc khu sẽ
nhanh chóng vượt ngưỡng thu nhập 12.000
- 13.000USD/người/năm (gấp 5-7 lần trung
bình cả nước)21… Như vậy, sự phát triển
của 03 đơn vị HC-KT đặc biệt - tuy phát
triển các ngành nghề đặc thù có khác nhau nhưng sẽ tác động đến cơ cấu thu nhập của
người quản lý và người lao động. Bởi vậy,
quy định về ưu đãi thuế cũng cần phải được
xây dựng gắn với đặc thù này.

18 Theo Văn bản tạm thời quản lý cho vay đồng NDT qua biên giới tại Qianhai của Ngân hàng Nhân dân Thâm Quyến - Chi
nhánh Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc tại Thâm Quyến ngày 27/12/2012 và Văn bản qui định chi tiết do Cơ quan này
ban hành ngày 5/1/2013 (深圳人民銀行「前海クロスボーダー人民元貸付管理暫行弁法」2012年12月27日、深
圳人民銀行「前海クロスボーダー人民元貸付管理暫行弁法実施細則」2013年1月5日- bản tiếng Nhật)。
19 Dự thảo Luật Đơn vị HC-KT đặc biệt, công bố trên />LUAT/View_Detail.aspx?ItemID=1319&LanID=1426&TabIndex=1 (truy cập ngày 31/12/2017)
20 Ở Macao, các bậc thuế trong Biểu thuế TNCN cách nhau 1% và mức thuế suất cao nhất là 12%, trong khi ở Việt Nam,
các bậc thuế trong Luật thuế TNCN cách nhau 5% và bậc cao nhất là 35%.
21 Tham khảo “Đặc khu kinh tế: Nơi thu nhập người dân sẽ gấp 5 - 7 lần trung bình cả nước”, nguồn: />lao-dong-cuoi-tuan, ngày 15/10/2017

30


Số 5(357) T3/2018


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
ii) Thuế TNDN
Dự thảo Luật quy định thuế suất thuế
TNDN là 10% trong 30 năm, miễn thuế 4
năm và giảm thuế 9 năm tiếp theo (Điều
27). Tuy nhiên, biện pháp khuyến khích
này mới chỉ tác động đến sự hình thành tài
sản của doanh nghiệp trong quá trình hoạt
động mà chưa tác động vào ý thức kiến tạo
doanh nghiệp lâu dài theo các ngành nghề
kinh doanh. Vì vậy, cần phải tính đến ưu đãi
thuế đối với nhà đầu tư là cá nhân hay doanh
nghiệp trong nước đầu tư vào đơn vị HC-KT
đặc biệt trong thời hạn nhất định, nhằm phát
triển nhanh chóng khu HC-KT đặc biệt. Bên
cạnh đó, cần có chính sách cho phép sự lựa
chọn ưu đãi bổ sung đối với nhà đầu tư nước
ngoài khi họ không được hưởng ưu đãi như
cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam. Mục đích
cuối cùng của ưu đãi là hỗ trợ doanh nghiệp
tạo lập tài sản - thu nhập bền vững rồi Nhà
nước mới có thể tính đến tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp
ưu đãi thuế TNDN trong thời kỳ đầu thành
lập, tại đơn vị HC-KT đặc biệt, cần tính đến

các quy định đặc thù về đánh thuế đối với
thu nhập từ việc chuyển nhượng dự án tại
đơn vị HC-KT đặc biệt trong thời kỳ đầu
thành lập, nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ
trục lợi gây ảnh hưởng đến thị trường bất
động sản, khuyến khích doanh nghiệp có uy
tín kinh doanh lâu dài tại Việt Nam22.
iii) Thuế GTGT
Các quy định trong Dự thảo Luật về
miễn thuế GTGT là biện pháp ưu đãi thông
thường đối với người nước ngoài du lịch
xuất cảnh. Ngoài ra còn là biện pháp ưu đãi
mở rộng cho cả người Việt Nam du lịch tại
các đơn vị HC-KT đặc biệt.

Dễ dàng nhận thấy, biện pháp miễn
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế GTGT
tại khu vực phi thuế quan chỉ áp dụng đối
với người không cư trú nước ngoài, người
Việt Nam có quốc tịch nước ngoài và người
Việt Nam đi du lịch. Trong khi đó, các
khoản thuế GTGT vẫn đánh đối với người
tiêu dùng, kể cả những đối tượng trên trong
thời gian du lịch tại đơn vị HC-KT đặc biệt.
Để khuyến khích lượng khách du lịch lưu trú
lâu cũng như cân nhắc sự đóng góp về thuế
của cư dân trong bối cảnh giá hàng hóa và
dịch vụ tăng cao, Dự thảo Luật cần bổ sung
quy định mức thuế GTGT thấp hơn so với
mặt bằng chung của Luật Thuế GTGT hiện

hành. Quy định thuế GTGT ở mức thấp có
thể tạo ra lợi ích cho từng cá nhân nhưng lại
gián tiếp tác động làm gia tăng nhu cầu tiêu
dùng đa dạng, và theo đó, lợi ích của Nhà
nước vẫn được duy trì.
iv) Ưu đãi thuế tiêu thụ đặc biệt đối
với kinh doanh casino
Theo quy định của Khoản 2 Điều
28 Dự thảo Luật: “Thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB) là 10% trong thời hạn 10 năm kể
từ khi có doanh thu từ dịch vụ. Hết thời hạn
10 năm, các dịch vụ này áp dụng mức thuế
suất TTĐB theo quy định của Luật Thuế
TTĐB”23. Như vậy, thuế TTĐB chỉ khuyến
khích với người chơi vào casino trong thời
gian đầu, nếu kết hợp với các ưu đãi khác
trong thời gian đầu tạo lập cơ sở kinh doanh,
như trong 3 năm doanh nghiệp được miễn
tiền thuê đất cùng với quyền được miễn thuế
TNDN, thì dịch vụ kinh doanh này chỉ có
thể tạo ra lợi nhuận ổn định cho chính doanh
nghiệp này ít nhất sau một vài năm triển
khai, còn thời gian thu hồi vốn phải tính theo
quy mô dự án.

22 Khu Kinh tế Qianhai Trung Quốc, mặc dù có sự nỗ lực của Chính phủ, nhưng hoạt động đầu tư kinh doanh chưa theo
dự kiến của Chính phủ, trong khi giá đất khu vực lân cận tăng cao.
23 Thuế TTĐB đối với dịch vụ casino theo Luật Thuế TTĐB năm 2008 là 30%, và theo Luật sửa đổi Luật Thuế TTĐB
năm 2014 là 35%.
Số 5(357) T3/2018


31


BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
Nếu phát triển mô hình đơn vị HC-KT
đặc biệt theo cách khuyến khích hoạt động
du lịch và casino tương tự như mô hình
Macao, cần có biện pháp ưu đãi thuế TTĐB
thấp hơn sau khi hết thời hạn ưu đãi kể trên,
bởi khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hoạt
động nhưng doanh nghiệp không có khách
hàng thì không thể có doanh thu và đương
nhiên không thể có thu nhập để đánh thuế.
Ngoài ra, cũng cần phân biệt hoạt động kinh
doanh casino tại đơn vị HC-KT đặc biệt với
các khu vực khác trong nước do đánh thuế
với dịch vụ casino thông thường là hạn chế
tiêu dùng chứ không phải khuyến khích tiêu
dùng, còn đối với tiêu dùng dịch vụ casino
tại các đơn vị HC-KT đặc biệt có mục đích
khuyến khích hơn là hạn chế do có những
ưu đãi về thuế, tài chính, nới lỏng chính sách
tiền tệ, ngân hàng và thuận lợi trong thực
hiện các thủ tục hành chính.
4.2 Nhóm các biện pháp liên quan
đến lĩnh vực tài chính
i) Hoạt động cấp tín dụng và đầu tư
của tổ chức tín dụng
Hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng

thương mại (NHTM) dưới hình thức cho
vay, bảo lãnh, bao thanh toán cũng như hoạt
động trung gian thanh toán và đầu tư là các
hoạt động trụ cột có thể giúp cho nhu cầu
huy động vốn, thanh toán, liên kết đầu tư
trong các đơn vị HC-KT đặc biệt. Tuy nhiên,
Dự thảo Luật lại không đề cập nhiều đến vấn
đề hỗ trợ tài chính cho các đơn vị này. Vì
vậy, Dự thảo Luật cần bổ sung những chính
sách về hỗ trợ tài chính cho ngân hàng và
một số ngành kinh doanh trong bối cảnh khả
năng tự tạo lập vốn kinh doanh của doanh
nghiệp vẫn còn hạn chế.
ii) Hoạt động quản lý ngoại hối
Hiện nay, tỷ giá hối đoái đồng Việt

Nam và đồng USD do Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam ấn định24, theo đó giá trị của các
đồng ngoại tệ khác sẽ được tính theo tỷ giá
đồng USD. Có thể thấy, việc thống nhất
quản lý ngoại hối là cần thiết nhưng trong
bối cảnh khuyến khích đầu tư nước ngoài,
tham khảo phương thức quản lý của các
Đặc khu Hồng Kông, Macao và Qianhai
cho thấy, cần có quy định đặc thù về quản
lý ngoại hối tại đơn vị HC-KT đặc biệt có
sự hiện diện của nhiều người du lịch nước
ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và doanh nghiệp Việt Nam có quan hệ
giao dịch thường xuyên với nước ngoài.

Để thực hiện ưu đãi vượt trội, khuyến
khích đầu tư vào các đơn vị HC-KT đặc
biệt, cần có các biện pháp để khuyến khích
các ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng
trong nước cho vay và cung cấp dịch vụ ưu
đãi cho các doanh nghiệp trong các đơn vị
HC-KT đặc biệt, cũng như có chính sách
quản lý ngoại hối có sự nới lỏng nhất định
đối với giao dịch ngoại tệ trong các đơn vị
này. Sự nới lỏng về quản lý ngoại tệ cho khu
vực này cũng là động lực thu hút đầu tư và
giao dịch xuất nhập khẩu với nước ngoài.
Thông qua quản lý thuế, Nhà nước vẫn có
thể quản lý giao dịch ngoại hối của các chủ
thể trên. Ngoài ra, nới lỏng quản lý ngoại
hối tại các khu HC-KT đặc biệt cũng là điều
kiện giúp cho Việt Nam tăng sức cạnh tranh
trong kinh doanh, hội nhập với nền kinh tế
thế giới■

24 Thông tư 02/2012/TT-NHNN ngày 27/02/2012 của Ngân hàng Nhà nước về “Hướng dẫn giao dịch hối đoái giữa Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài”.

32

Số 5(357) T3/2018




×