Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tìm hiểu về nhà văn Vũ Trọng Phụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (598.79 KB, 17 trang )

VŨ TRỌNG PHỤNG

1. Cuộc đời

Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912 trong một gia đình rất nghèo ở Hà 
Nội (mà theo lời Ngô Tất Tố là nghèo “gia truyền”).
Ông thân sinh là Vũ Văn Lân, quê ở Hưng Yên, vốn làm nghề thợ điện ở xưởng xe 
ôtô Ch. Biollot ở Hà Nội nhưng ông mất lúc Vũ Trọng Phụng mới 7 tháng tuổi.
Bà thân sinh là Phạm Thị Khách, kiếm sống bằng nghề khâu vá thuê, là người tỉnh 
Hà Đông (nay là thành phố Hà Nội). Sau khi chồng mất, bà ở vậy tần taor nuôi con từ 
năm 24 tuổi và được đánh giá là “một người mẹ chí từ của một người con chí hiếu”.
Vũ Trọng Phụng thuở bé lớn lên trong tình yêu thương của mẹ và được cắp sách 
đến trường. Năm 1921, ông bắt đầu học Pháp văn ở trường Hàng Vôi rồi trường Hàng 
Kèn, sau đó nữa là trường Sinh Từ. Là một trong những lứa thanh niên được học tiếng  
Pháp và chữ Quốc ngữ đầu tiên của nước ta, Vũ Trọng Phụng vô cùng thần tượng 
nền văn hóa Pháp và là lớp nhà văn tích cực truyền bá văn học chữ Quốc Ngữ.


Tuy vậy, tuổi thơ của ông không được suôn sẻ. Trong môi trường học đường, với 
xuất thân nghèo khó, lại mồ côi nên ông bị tách biệt với các học trò khá giả không biết 
đến sự đồng cảm khác. Điều này làm ông mang trong mình sự tự ti, yếu đuối và cô 
độc. Chính sự mặc cảm đã dồn nén và ngày càng lớn lên trong lòng cậu Tý (tên sữa 
của Vũ Trọng Phụng), rồi sau này lại biến thành nỗi uất ức, bi phẫn với cuộc đời, với 
xã hội.
Năm 1926, khi mới 15 tuổi, Vũ Trọng Phụng đã đỗ bằng Tiểu học. Với gia cảnh 
khó khăn, ông lựa chọn thi vào trường Sư phạm sơ cấp với hi vọng tìm được học 
bổng để đỡ đần phần nào cho gia đình nhưng không thành. Từ đó, ông bắt đầu bươn 
trải kiếm sống và lăn lội trong cuộc đời xô bồ. Khoảng tháng 10 năm 1926, Vũ Trọng 
Phụng xin vào làm thư kí cho nhà hàng Godard nhưng chỉ vài tháng đã bị đuổi việc do 
quá say mê văn chương mà lơ là công việc. Năm 1927, ông lại xin vào đánh máy chữ ở 
nhà in Viễn Đông (Viễn Đông ấn quán ­ IDEO). Nhưng lần nữa vì đam mê mà ông đã 


viết văn trong giờ làm việc, nên chỉ sau 2 năm, ông lại bị sa thải.
Đây cũng là cơ duyên đầu tiên đưa Vũ Trọng Phụng chuyển sang chuyên tâm viết 
văn, viết báo. Chính vì thời gian làm thư kí và sống ở phố Hàng Bạc, Hà Nội – nơi ông 
đã gắn bó gần hết cuộc đời – đã giúp Vũ Trọng Phụng có vốn sống vô cùng phong 
phú. Ông được tiếp xúc với nhiều hạng người, va chạm với nhiều cuộc mưu sinh 
khốc liệt, bắt gặp những cách làm tiền, những bon chen, tội ác, những trụy lạc, cạm 
bẫy và cả những cảnh bi đát mà đê tiện.
Hơn nữa, Vũ Trọng Phụng lại sống qua những đoạn bi thương của đất nước. Đó là 
cuộc khủng hoảng kinh tế 1929­1933 trên quy mô toàn cầu, làm đời sống của giai cấp 
lao động vốn đã khốn đốn nay lại càng khốn đốn, mà bọn nhiều tiền lại nhân cơ hội 
tích trữ đầu cơ, cho vay lãi nặng. Đó cũng là sự thoái trào của phong trào cách mạng 
1930­1931, rồi đó cũng là phong trào Âu hóa đương bắt đầu phát triển rầm rộ. 
Tất cả những điều trên, đã làm nên một Vũ Trọng Phụng với tư tưởng bi quan, 
phẫn uất sau này. Thậm chí, nhiều người còn cho rằng câu tự thuật của Xuân Tóc Đỏ: 
“Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao xấu”, cũng là tiếng lòng của nhà văn.
Đầu năm 1938, Vũ Trọng Phụng lập gia đình với cô Vũ Mị Nương, con gái của 
một nhà buôn nghèo ở quận Thanh Xuân. Cuối năm đó, hai người có con gái Võ Mị 
Hằng.
Dù tài hoa, nhưng ngòi bút của ông không thể ông gồng gánh cả gia đình. Ông phải 
làm việc cật lực trong hoàn cảnh thiếu thốn, từ đó lại làm trầm trọng thêm căn bệnh 
lao quái ác. Ông mất vào ngày 13 tháng 10 năm 1939, khi mới 27 tuổi, để lại bà nội, 
mẹ già, một người vợ góa và con gái nhỏ chưa đầy năm.    


2. Con người

Tìm hiểu xu hướng văn chương của một tác giả, điều quan trọng là phải tìm hiểu 
con người họ với những hoàn cảnh gia đình, xã hội tác động vào họ như thế nào. Bởi 
suy cho cùng tác phẩm văn chương là sự phản ánh thế giới khách quan qua lăng kính 
chủ quan của nhà văn, lăng kính chủ quan của một nhà văn chính là thế giới quan của 

họ. Thế giới lại được định hình dựa trên những điều kiện gia đình, xã hội, tiểu sử bản 
thân. Chẳng hạn thơ Tố Hữu có giọng điệu ngọt ngào, đằm thắm cũng là chịu ảnh 
hưởng của người mẹ thuộc nhiều ca dao, dân ca và của quê hương xứ Huế với những 
điệu hò mái đẩy hết sức thiết tha. Vì vậy tìm hiểu về con người của một nhà văn sẽ 
giúp chúng ta giải mã được dễ dàng những tư tưởng của nhà văn ấy phản ánh trong 
tác phẩm.
Vũ Trọng Phụng là một con người thông minh từ thuở nhỏ. Lớn lên ông cũng đã 
thể hiện mình là một cây bút đa tài. Vũ Trọng Phụng tham gia viết nhiều thể loại văn 
học: kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, dịch thuật… và ở thể loại nào Vũ Trọng 
Phụng cũng có được những thành công nhất định. Đặc biệt Vũ Trọng Phụng nổi bật 
với mảng tiểu thuyết và phóng sự. 
Do phần lớn cuộc đời Vũ Trọng Phụng sống ở thành thị, nên ông có một vốn sống 
vô cùng phong phú ở nơi đây. Xuất thân trong cảnh nghèo hèn, lại phải quay cuồng, 
trầy trật, vật lộn với những cuộc sống mưu sinh hằng ngày nên Vũ Trọng Phụng có 
cơ hội gần gũi với những người nghèo khổ thành thị. Ông có dịp tiếp xúc thường 
xuyên với những hạng cùng đinh dưới đáy xã hội, đó là con sen, thằng ở, là đám dân 
nghiện hút, bọn lưu manh, bon gái điếm… nên ông có cái nhìn rất chân thật về họ. 
Tuy nhiên Vũ Trọng Phụng lai không được gần gũi, tiếp xúc với những người lao 
động chân chính với sự trong sáng, khỏe khoắn ở họ. Cho nên Vũ Trọng Phụng chưa 
có cái nhìn bao dung về người lao động, những trang viết của ông về người lao động 
phần nhiều là méo mó, phiến diện.  Đồng thời Vũ Trọng Phụng cũng thông thuộc  
những  hạng  người  thuộc tầng lớp trên: bọn nghị viên, bọn thầu khoán, bọn me 
tây, bọn tư sản, bọn viên chức, các loại người trong bộ máy cai trị đương thời… Đời 
sống xã hội ấy đã cung cấp cho Vũ Trọng Phụng nhiều hình mẫu nhân vật, gây ra 
trong ông cái ý thức mạnh bạo, sự cần thiết phải bày tỏ thái độ trước một thực trạng 
xã hội “vô nghĩa lí, đầy rẫy những tệ nạn”, cũng như ý thức về thân phận và tình cảnh 
nghèo khổ cơ cực của mình. 
Đọc những trang văn Vũ Trọng Phụng viết về mặt trái của xã hội dễ khiến người 
ta liên tưởng đây là tay sành sỏi, thạo đời, đã từng lăn lóc lâu năm trong hang ổ của 
bọn đĩ điếm, của đám nghiện hút, bọn cờ bạc, bịp bợm… Thế nhưng theo chứng thực 



của bạn bè cùng thời với Vũ Trọng Phụng, ông lại là người rất khuôn phép, rất nề 
nếp, rất giàu tự trọng và rất bình dị. Trong cuộc sống ông chỉ mong kiếm chút tiền 
phụ giúp mẹ già và dành dụm tiền cưới vợ để có con nối dõi. Song cuộc sống ngheo 
khổ cứ bám riết lấy ông. Từ tuổi thơ bất hạnh đến lớn lên gặp cảnh lố lăng, đã hình 
thành trong tư tưởng Vũ Trọng Phụng nỗi hoài nghi, tư tưởng phủ nhận khó phai 
mờ. Cảnh thất nghiệp thường xuyên (làm nhiều nghề mà nghề nào cũng dang dở) 
cộng với xã hội xung quanh lại xa hoa, phè phưỡn, trụy lạc, trác táng, một xã hội trái 
ngược hoàn toàn với mong muốn của nhà văn. Cho nên Vũ Trọng Phụng sớm có tâm 
trạng bi phẫn với thời cuộc. Cái bi phẫn ấy không chỉ là sự uất ức của một cá nhân 
mà là tâm trạng chung của một lớp người có hoài bão đẹp nhưng đành bất lực trước 
thực trạng xã hội, mà Vũ Trọng Phụng chỉ là một đại diện tiêu biểu. Và cách để Vũ 
Trọng Phụng giải tỏa những uất ức ấy là ông đem phản ánh vào văn chương. Cho 
nên các sáng tác của ông như những câu chửi rủa thẳng thừng vào xã hội mà ông gọi là 
“Xã hội chó đểu”, là “khốn nạn”. 
Bên cạnh đó thì Vũ Trọng Phụng còn là người bi quan, ông đã thừa nhận: “Tôi vốn 
là người bi quan”, vì thế trong ý thức sáng tác của Vũ Trọng Phụng là tâm trạng hoài 
nghi, phủ định, lấy cảm hứng phê phán làm cảm hứng xuyên suốt và chủ đạo. Và 
suy cho cùng đó chính là sự bế tắc của một người bất đắc chí và từ sự bế tắc đó Vũ 
Trọng Phụng rơi vào cái nhìn cực đoan về con người, nhất là người lao động, ông rơi 
vào chủ nghĩa định mệnh.
3. Quan niệm nghệ thuật

Quan niệm nghệ thuật chính là tư tưởng, lập trường, là cách nhìn của một nhà 
văn về cuộc sống. Văn học phản ánh cuộc sống, lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống. 
Song trong cuộc sống có vô vàn sự vật, hiện tượng có thể tác động đến nhà văn, làm 
nảy sinh ở họ cảm hứng sáng tác. Nên việc lựa chọn những tác động nào, những 
mảng hiện thực cuộc sống nào để phản ảnh trong tác phẩm chính là xuất phát từ quan 
niệm nghệ thuật. Hay nói cách khác, quan niệm nghệ thuật chính là cái để nhà văn lựa 

chọn phạm vi hiện thực để cấu tứ thành tác phẩm văn học. Và mỗi một nhà văn lại có 
cách thể hiện quan niệm nghệ thuật rất riêng, có người bộc lộ trực tiếp, có người 
bày tỏ gián tiếp. Nếu như Nam Cao thường hé mở quan niệm nghệ thuật của mình 
thông qua phát ngôn hoặc suy nghĩ của các nhân vật thì Vũ Trọng Phụng lại thể hiện 
nó một cách trực tiếp thông qua các bài viết của mình. 
Ngay từ khi bước vào con đường văn chương, Vũ Trọng Phụng đã khẳng định cho 
mình khuynh hướng “tả thực” để theo đuổi đến cùng. Nghĩa là ông viết về cuộc sống 
với tất cả những gì vốn có của nó, không màu mè, không tô vẽ, không bôi hồng hay 


nhào nặn nó cho sáng sủa, cho tốt đẹp. Theo ông, người viết văn vác trên vai mình một 
chiếc gương khổng lồ để đi vào cuộc sống mà phản ánh cho thực chất, triệt để cuộc 
sống ấy, dù cho nó có nhiều ung nhọt, xấu xa. Trong bài viết “Thư ngỏ cho ông Thái 
Phỉ, chủ báo Tin văn về bài “Văn chương dâm uế”” (in trên Hà Nội báo số 38 ngày 
23/9/1936), Vũ Trọng Phụng có viết: “Tôi là một trong những nhà văn sĩ tả chân”. Như 
vậy Vũ Trọng Phụng đã khẳng định mình là một văn sĩ “tả chân” cũng có nghĩa với 
ông viết về hiện thực xã hội trở thành một niềm thôi thúc, một nhu cầu và trách 
nhiệm của người cầm bút. Hiện thực cuộc sống với nhan nhản cảnh tượng bỉ ổi, đê 
hèn đã thẩm thấu vào tư tưởng Vũ Trọng Phụng để nó bật ra thành những trang văn 
cay nghiệt. Những cảnh bê tha nghiện hút, những kẻ sống không lí tưởng chỉ biết chúi 
đầu vào cờ bạc, ăn chơi, những kẻ trưởng giả chỉ quen dâm dật, hà hiếp người nghèo 
là thế giới nhân vật chính trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Có thể nói, tả thực cái 
xã hội “chó đểu”, “khốn nạn” Vũ Trọng Phụng không bỏ sót đối tượng nào. Tất cả 
trở thành đối tượng để ông trút nỗi căm hờn của mình. Do vậy khi viết về bọn trưởng 
giả, Vũ Trọng Phụng rất tài tình trong việc phanh phui bản chất dâm ô, đểu cáng, hám 
tiền, hám danh, độc ác… của chúng. 
Như vậy, quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng trái ngược hoàn toàn so với 
thứ văn chương lãng mạn đương thời, tiêu biểu là các nhà văn của Tự lực văn đoàn. 
Nếu như các nhà tiểu thuyết lãng mạn ưa miêu tả cuộc sống bằng sự mĩ miều, đẹp 
đẽ, tô vẽ cho nó có cái thơ mộng, tươi tắn, thì Vũ Trọng Phụng lại miêu tả cuộc sống 

với tất cả những cái xấu xa, bẩn thỉu của nó. Vũ Trọng Phụng hướng ngòi bút sắc sảo 
của mình đi mổ xẻ những tệ nạn, những cái xấu xa của xã hội. Bởi theo lời của chính 
Vũ Trọng Phụng: “Nhà báo thì phải nói sự thật cho mọi người biết”. Nói là nhà báo 
cũng có nghĩa là nhà văn sĩ nói chung khi viết phải thành thực, phải như người thư kí 
của thời đại, phải ghi lại được tất thảy những sự thật hiển hiện trong đời sống. 
Ví dụ khi viết về Hà Nội thì đó là: “Hà Nội lầm than, ăn cướp, ăn cắp, ăn trộm, đàn 
bà nghiện hút, buôn người, đồng bóng, sư vãi hoang dâm”. Theo Vũ Trọng Phụng, 
“Nhà những văn sĩ tả chân có quyền và bổn phận tả những điều ấy mặc lòng đó là thứ 
dâm uế, nhơ bẩn”. Đặc biệt, quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được thể 
hiện rõ nét nhất, tập trung nhiều nhất trong luận điểm “Các ông muốn tiểu thuyết 
cứ là tiểu thuyết; Tôi và các nhà văn cùng chỉ hướng như tôi, muốn tiểu thuyết 
là sự thực ở đời (…) Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa, dâm đãng 
của bọn người có nhiều tiền, kêu ca những sự thống khổ của dân nghèo bị bóc lột, bị 
áp chế, bị cưỡng bức muốn cho xã hội công bình hơn nữa”. 
Như thế đồng nghĩa với việc Vũ Trọng Phụng ý thức được mối quan hệ mật 
thiết giữa văn học và cuộc sống. Hiện thực cuộc sống chính là nền tảng cơ bản 


nhất làm nên nội dung của tác phẩm văn học, có như vậy tác phẩm văn học mới phục 
vụ đắc dụng cho con người. Tả thực cái xã hội khốn nạn để thấy được những vấn đề 
nhức nhối, nổi cộm, những tệ nạn đang hoành hành xã hội, giúp con người ý thức 
được sự thật đó để lánh xa, để bài trừ và để hướng đến một xã hội công bình hơn chứ 
nếu cứ say sưa trong những “danh từ điêu trá của văn chương” sẽ là liều thuốc đầu 
độc con người chìm sâu trong ảo tưởng, cổ xúy cho lối sống thác loạn mà không thể 
thức tỉnh kịp thời. Chẳng hạn, Vũ Trọng Phụng không biết gọi gái đĩ là “nàng”, bởi 
chữ ấy nó thi vị lắm. Ông chỉ ra các tai hại của kiểu viết lãng mạn “tô điểm cho gái đĩ 
ấy cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong chuyện người ta chỉ thấy một 
gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo!” [1,215]. 
Trong quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng rất trọng sự thực, nhà văn phải 
là người dám nói lên những vết thương của xã hội cho mọi người nghe, không lảng 

tránh, không trốn chạy hiện thực. Đi ngược lại với điều ấy là văn chương giả dối. 
Cho nên trong quan niệm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng không có chỗ cho những 
điều thanh cao, tao nhã, những thứ ấy chỉ là loại văn chương xoàng xĩnh mà thôi. 
Tuy vậy, do bị chi phối bởi tâm trạng bi quan, bi phẫn và tư tưởng định mệnh 
chủ nghĩa cho nên cái nhìn của Vũ Trọng Phụng về hiện thực nhiều khi lệch lạc, 
thậm chí là cực đoan, dẫn đến thế giới quan hay chính là quan điểm nghệ thuật của 
ông có những biểu hiện sai lầm, thiếu nhất quán. Nhất là trong cách nhìn của ông 
về con người là rất nghiệt ngã, chỉ toàn người xấu: “Riêng tôi, xã hội này tôi chỉ 
thấy là khốn nạn, quan lại tham nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn  
sĩ đầu cơ xảo quyệt”. Công bằng mà nói thì trong thế giới quan của Vũ Trọng Phụng, 
mặc dù thống nhất trong khuynh hướng “tả chân”, nhưng tư tưởng của ông cũng có 
chông chênh dao động, cái nhìn về xã hội, về con người có phần đen tối. Song những 
hạn chế ẩy cũng không làm mờ nhạt được một cây bút sắc sảo, tài năng, một người 
có quan điểm hết sức tiến bộ và dũng cảm, dám nhìn thẳng vào hiện thực xã hội để 
phản ánh nó một cách sinh động, chân thực, cho dù xã hội ấy là thối nát, dơ dáy. 
4. Sự nghiệp sáng tác

Vũ Trọng Phụng là nhà văn “Tài danh bạc mệnh”, sự ra đi của ông đúng vào lúc tài 
năng đang ở độ chín nhất, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho nhiều đồng nghiệp 
cũng như nhiều độc giả. Mặc dù sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng diễn ra vẻn 
vẹn chưa đầy một thập kỉ, nhưng ông đã để lại cho hậu thế một di sản văn học đồ sộ, 
trong đó có nhiều sáng tác xuất sắc. 
Nhận định về văn chương Vũ Trọng Phụng, nhà nghiên cứu phê bình văn học Vũ 
Tuấn Anh cho rằng: “Ông là một hiện tượng văn chương đặc biệt. Đặc biệt trong tính 


độc sáng của nó, đặc biệt trong sự không thể trộn lẫn với ai trong cả cuộc đời và văn 
nghiệp. Và mượn cách nói của ông khi phê bình Tắt đèn: Ông là một hiện tượng đặc 
biệt tùng lai chưa từng thấy. Những năm 30, cụ thể hơn là giai đoạn 1932­1939 có thể 
coi là một thời kỳ ngắn, đặc biệt là sự chín muồi và hoàn thiện đồng loạt các thể loại 

văn học hiện đại, với những tác phẩm đỉnh cao và những tên tuổi lớn trong làng văn. 
Khởi đầu và kết thúc sự nghiệp văn học ngắn ngủi của Vũ Trọng Phụng gần như 
nằm trọn trong khoảng thời gian này.”
Trong khoảng thời gian Vũ Trọng Phụng sáng tác, xã hội Việt Nam có nhiều sóng 
gió, nhiều biến động sâu sắc, tác động mạnh mẽ để nhịp độ phát triển văn học. Nhìn 
một cách tổng quát thì quá trình sáng tác của Vũ trọng Phụng có thể chia làm 3 chặng 
đường sáng tác: 
­ Chặng đường thứ nhất: Từ năm 1930 đến năm 1935 
­ Chặng đường thứ hai: Từ năm 1935 đến năm 1936 
­ Chặng đường thứ ba: Từ năm 1936 đến tháng 10 năm 1939 

a. Chặng thứ nhất: Từ năm 1930 đến năm 1935 

Vũ Trọng Phụng có sáng tác đăng báo từ những năm 1930. Qua những lời kể sơ sài 
của Tam Lang (“Hoài niệm về Vũ Trọng Phụng” – Tao đàn, số đặc biệt về Vũ Trọng 
Phụng) và của Thiều Quang (“Tập san phê bình” số đặc biệt trên Ngọ báo khoảng 
năm 1930) thì ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã có khuynh hướng tả chân rõ rệt. “Tả 
chân” ở đề tài, vạch ra những chuyện dơ dáy của xã hội; nhất là lối văn “lại tả một 
cách bạo hơn nữa, bạo đến sỗ sàng” (Tam Lang ­ Bài đã dẫn). 
Năm 1931, Vũ Trọng Phụng cho ra mắt vở kịch Không một tiếng vang. Tác phẩm 
này có thể được coi là cột mốc đánh dấu sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng một 
cách chính thức, qua tác phẩm ông đã khẳng định mình là một cây bút hiện thực phê 
phán. 
Vũ Trọng Phụng chỉ thực sự nổi tiếng từ những thiên phóng sự Cạm bẫy người 
(Đăng trên báo Nhật Tân, 1933) và Kĩ nghệ lấy Tây (Đăng trên báo Nhật Tân từ số 69, 
ngày 05/12/1934). Cũng năm 1934, Vũ Trọng Phụng cho đăng tiểu thuyết Dứt tình trên 
Hải Phòng tuần báo. Câu chuyện tình lãng mạn diễn ra trên bãi biển, phòng khách này 
không hợp lắm với ngòi bút “tả chân” của nhà văn, nó chỉ chứng tỏ sức hấp dẫn mạnh 
mẽ của trào lưu lãng mạn khi đó đối với ông. 



Tựu chung lại, những sáng tác của Vũ Trọng Phụng thời kì này có mấy đặc điểm 
nổi bật: 
Trước hết, đó là khuynh hướng “tả chân” và tố cáo xã hội, thể hiện rõ trong 
phần lớn các tác phẩm. Hơn hẳn các nhà văn trước năm 1930, Vũ Trọng Phụng đã 
táo bạo, xông xáo trong việc “lật mặt trái” dơ dáy của xã hội thuộc địa thối nát khi 
đó. Ngay từ sớm ông đã thể hiện mình là kẻ thù không đội trời chung của xã hội 
đồng tiền. Giá trị hiện thực chủ yếu của sáng tác Vũ Trọng Phụng thời kì này phần 
nào phản ánh được tình trạng bần cùng, phá sản, lưu manh hóa của tầng lớp tiểu tư 
sản, dân nghèo thành thị và nông dân trong những năm khủng hoảng kinh tế, tình trạng  
giàu ­ nghèo bất công và những tệ nạn trong xã hội thành thị đương thời. Qua đó ông 
bày tỏ thái độ ghê gớm đến thói lừa lọc, đểu giả, bất nhân, chà đạp lên chuẩn mực 
đạo đức, lên luân thường đạo lí, chỉ biết đến tiền và nhục dục. 
Tuy vậy, thời kì này Vũ Trọng Phụng cũng bộc lộ nhiều mặt yếu. Đó là phạm vi 
phản ánh còn hẹp, đối tượng phản ánh chủ yếu là đám lưu manh và dân nghèo ở 
thành thị; chưa đi vào đề tài hiện thực rộng lớn, điển hình, chiều sâu của sự phản ánh  
cũng như tình cảm của nhà văn còn hạn chế.  Nhà văn lên án sự bất công, thối nát của 
xã hội, song chưa nhìn rõ mối mâu thuẫn giai cấp và nguyên nhân sâu xa của những 
tệ nạn xã hội như lưu manh, mại dâm… Những lời kết án đồng tiền tuy đanh thép 
nhưng chưa chỉ ra được nguyên nhân căn bản khiến đồng tiền lũng đoạn xã hội là 
do thế lực sử dụng đồng tiền. 
Sáng tác Vũ Trọng Phụng thời kì này còn có những mâu thuẫn. Trong khi phơi 
bày những ung nhọt của xã hội, phản ánh cuộc sống khốn khổ của người nghèo, 
những nạn nhân của xã hội, ngòi bút Vũ Trọng Phụng rơi vào chủ nghĩa tự nhiên 
lạnh lùng và có thái độ miệt thị đối với họ. Lối viết của Vũ Trọng Phụng vẫn còn 
sống sượng hay đề cập đến cái dâm của con người như loài động vật. 
Cũng trong thời kì này, tư tưởng bi quan định mệnh bắt đầu chi phối đến sáng 
tác của Vũ Trọng Phụng, mặc dù nó chưa thực sự đậm nét và phổ biến. Chỉ trong Dứt 
tình, tư tưởng này mới trở thành tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. 


b. Chặng đường thứ hai: Từ năm 1935 đến năm 1936 

Đây là giai đoạn sáng tác ngắn nhất, song dồi dào và đạt tới đỉnh cao nhất trong 
sự nghiệp văn học của Vũ Trọng Phụng. Đây thời kì mà tài năng của Vũ Trọng Phụng 


nở rộ hơn cả. Bằng sức lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi, Vũ Trọng Phụng đã 
viết nên nhiều kiệt tác. Trên tuần báo Công dân số 1, ra ngày 25 tháng 9 năm 1935, ông 
bắt đầu cho đăng phóng sự Dân biểu và dân biểu. 
Tiếp đó trên Hà Nội báo số ra đầu tiên ngày 01 tháng 01 năm 1936, ông bắt đầu cho 
ra mắt tiểu thuyết Giông tố. Cũng trên Hà Nội báo, ông lần lượt đăng phóng sự Cơm 
thầy cơm cô (từ số 12, ra ngày 25 tháng 3 năm 1936), Số đỏ (tiểu thuyết hoạt kê, từ số 
40, ra ngày 07 tháng 10 năm 1936) và một loạt truyện ngắn (Giấc mơ ngày Tết, Tết ăn 
mày, Lỡ lời, Bộ răng vàng, Con người điêu trá, Hồ sê líu hồ líu sê sàng). 
Trong khi đó, trên tờ Tương lai Vũ Trọng Phụng cho đăng tiểu thuyết Vỡ đê (từ 
tháng 7 năm 1936) và nhiều bài bút chiến. Trên tờ Sông Hương ông cho đăng tiểu 
thuyết Làm đĩ cũng trong năm 1936. Thời kì này, không khí sinh hoạt chính trị náo 
nhiệt hào hứng khi bước vào thời kì Mặt trận dân chủ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến 
ngòi bút của Vũ Trọng Phụng, vốn đã được tích lũy và rèn luyện ở thời kì trước, để 
bước vào thời kì sung sức nhất khiến ông có thể phát huy cao nhất những mặt tích 
cực, sở trường và đạt được những thành tựu xuất sắc. 
Đây cũng là thời kì tư tưởng Vũ Trọng Phụng bộc lộ rõ nét nhất về tính chất phức 
tạp của nó. Với một loạt tiểu thuyết khá đầy đặn ra đời năm 1936 phạm vi hiện thực 
đã mở rộng ra khá rộng lớn. Dường như nhà văn muốn bao quát toàn thể xã hội để 
dựng nên bức tranh toàn cảnh về hiện thực Việt Nam đương thời. Sự phản ánh đã 
được nâng lên cả bề rộng lẫn chiều sâu, thế giới nhân vật phong phú hơn bao giờ hết. 
Tiểu thuyết Giông tố, Vỡ đê bao trùm một địa bàn rất rộng từ nông thôn đến thành thị, 
với rất nhiều môi trường hoạt động khác nhau cho các nhân vật thuộc đủ mọi tầng 
lớp, địa vị xã hội, có tính cách và số phận khác nhau. 
Cũng trong năm 1936, Vũ Trọng Phụng còn cho ra mắt tiểu thuyết Làm đĩ được 

viết theo kiểu “tiểu thuyết thực nghiệm”. Tuy nhiên cuốn tiểu thuyết này không gây ra 
được nhiều chú ý như Giông tố hay Số đỏ. 
Ngoài ra, thời kỳ này, Vũ Trọng Phụng còn có hai phóng sự Cơm thầy cơm cô và 
Vẽ nhọ bôi hề. Sở dĩ trong thời kì này bút lực của Vũ Trọng Phụng đạt tới mức đỉnh 
cao là do sự tác động mạnh mẽ của Mặt trận dân chủ và sách báo tiến bộ. Mặt 
khác cũng là do bản thân Vũ Trọng Phụng đã vượt qua được sự bi quan phẫn uất 
của chính mình. 
Tựu chung lại, quá trình sáng tác của Vũ Trọng Phụng thời kỳ này có thể được 
khác quát ở những điểm cơ bản sau: 


Sự thành công đáng kể đầu tiên của Vũ Trọng Phụng thời kỳ này là ông đã chú ý 
lên án giai cấp thống trị, lột trần bản chất dâm ô, đểu cáng, độc ác của chúng. Đây là 
điều chưa có ở giai đoạn trước. Nhà văn đã phản ánh được hiện thực trên bình diện 
mâu thuẫn xã hội, đả kích lực lượng thống trị xã hội, đồng thời ông cũng phần nào 
tái hiện được biến chuyển, sự phân hóa phức tạp, dữ dội của các giai cấp, nhất là 
quá trình tích lũy tư bản, phất lên làm giàu, leo lên địa vị cao sang và quá trình bần cùng 
hóa, tha hóa phổ biến của các tầng lớp bị trị. 
Nhất là Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc nêu hiện tượng như giai đoạn 
trước mà ông đã đi sâu khai thác những mối quan hệ bên trong hiện tượng được phản 
ánh. Và ông đã thấy được người dân nghèo là nạn nhân của giai cấp thống trị. Đáng 
chú ý là ở ba tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê đều dụng chạm đến hệ thống trật 
tự xã hội, đả kích trực tiếp hoặc gián tiếp vào bộ máy thực dân phong kiến. Đồng 
thời ông cũng đã chú ý đến cuộc sống của người dân nghèo chịu nhiều thiệt thòi và sự 
phản kháng của họ. Ở Giông tố là việc đi kiện của gia đình Thị Mịch, trong Vỡ đê là 
đám dân chúng biểu tình có tổ chức. 
Về phương diện nghệ thuật, thời kỳ tài năng và sáng tạo của Vũ Trọng Phụng 
được phát triển mạnh mẽ nhất, ông đã xây dựng được một số nhân vật điển hình 
sinh động bất hủ về xã hội tư bản thành thị. Những Vạn Tóc Mai, Nghị Hách, Xuân 
Tóc Đỏ, bà phó Đoan, cụ cố Hồng, ông Phán mọc sừng… Là những cách sống, được 

cá thể hóa cao độ. 
Mặt dù có nhiều điểm thành công so với giai đoạn trước, song ở giai đoạn này ngòi 
bút Vũ Trọng Phụng vẫn còn bộc lộ một vài hạn chế nhỏ. Đó là tư tưởng định 
mệnh vẫn còn chi phối đến sáng tác của ông, trong Số đỏ là ông thầy địa lý đoán biết 
được “hậu vận” của Xuân Tóc Đỏ, trong Giông tố là ông già Hải Vân “thượng thông 
thiên văn, hạ tri địa lý trung tri nhân sự” và lời phán của mụ thầy cúng về “tiền dâm 
hậu phú” của Thị Mịch. Và ngay cả khi miêu tả về người nông dân như một nạn nhân 
của giai cấp thống trị, Vũ Trọng Phụng còn tỏ ra hoài nghi về họ ví họ như “đàn ruồi 
sau mông con bò”. Khi xây dựng hình tượng người chiến sĩ cộng sản Vũ Trọng Phụng 
cũng không có sự hiểu biết sâu sắc về họ, khắc họa về họ méo mó, thiếu chân thực. 

c. Chặng đường thứ ba: Từ năm 1936 đến tháng 10 năm 1939 

Đây là giai đoạn thoái trào của ngòi bút Vũ Trọng Phụng. Nếu như giai đoạn 1935 
­ 1936 Vũ Trọng Phụng viết một cách say sưa, viết không biết mệt mỏi với một sức 


sáng tạo đáng kinh ngạc thì thời kì này hầu như Vũ Trọng Phụng không để lại một tác  
phẩm xuất sắc nào. Đây là thời kì yếu nhất trong đời văn Vũ Trọng Phụng. 
Từ 1937, tư tưởng và sáng tác của Vũ Trọng Phụng bỗng dưng xuống dốc một 
cách đột ngột. Dù ông vẫn viết nhiều, viết đều, vừa làm báo, vừa sáng tạo truyện 
ngắn, phóng sự, kịch nói, truyện dài. Song ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã mất hẳn cái 
khí thế háo hức của năm 1936. Vũ Trọng Phụng trở nên mất phương hướng, chìm sâu 
trong tâm trạng hoài nghi, bi quan cố hữu. Vũ Trọng Phụng sau một thời gian tạo 
dựng niềm tin lại trở về với cảm giác chán chường. Tay bút Vũ Trọng Phụng có biểu 
hiện mệt mỏi, sức chiến đấu trong các sáng tác cũng vì thế mà giảm sút. 
Đây cũng là thời kì u ám nhất trong đời cầm bút của nhà văn, trong các sáng tác của 
mình hầu như Vũ trọng Phụng không đả động gì đến chính trị nữa, có chăng cũng chỉ 
như bông đùa mà kém phần sâu sắc: Máu mê, Hội nghị đùa nhà. 
Năm 1936 ông có thái độ hăng hái bao nhiêu thì giờ đây lại hời hợt bấy nhiêu. Quay 

lưng với chính trị, Vũ Trọng Phụng lại tiếp tục viết về chủ đề sức mạnh của đồng 
tiền, về sự tha hóa của những kẻ hám tiền. Đó là xã hội mà kẻ không có tiền chỉ là 
con số không vô nghĩa lí, bị nhân tình bỏ rơi, bị tước quyền làm bố (Quyền làm bố). Vì 
một đồng bạc, một người đứng đắn có học cũng có thể trở mặt, cạn tàu ráo máng với 
bạn bè, hàng xóm láng giềng xưa kia thân thiết (Một đồng bạc). Còn khi “trong tay đã 
có sẵn đồng tiền” thì con người bỗng đủ mọi quyền uy, được mọi người kính nể, dù 
có làm việc càn dỡ thì xung quanh 16 cũng cứ xúm lại suy tôn. Đồng tiền ngự trị chi 
phối đến cả hành vi con người (Trúng số động đắc). Một huyện ăn tết là phóng sự 
điều tra khá chân thực, miêu tả lại thủ đoạn đục khoét ở huyện nha vào dịp Tết. 
Những sáng tác của Vũ Trọng Phụng thời kì mặc dù có ý nghĩa tố cáo, thế nhưng 
sự phê phán đồng tiền vẫn còn trừu tượng, mất đi ý nghĩa xã hội vì không nhằm 
vào lực lượng sử dụng đồng tiền là tầng lớp thống trị, vào bản chất quan hệ xã hội 
mà nhằm vào tâm lí “người đời” chung chung. Ông coi bản tính con người ích kỉ, đó 
là chủ đề trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn, truyện dài, truyện vui của Vũ Trọng 
Phụng thời kì này (Một đồng bạc, Cái ghen đàn ông, Từ lí thuyết đến thực hành, …). 
Nếu như thời kì trước Vũ Trọng Phụng sắc sảo, xông xáo là thế thì giờ đây lại tẩn 
mẩn đi vào những đề tài không có ý nghĩa xã hội gì (Đi săn khỉ, Lấy vợ xấu, Một con  
chó hay chim chuột…). Quay lưng với xã hội chính trị, ông đi vào phân tích tâm lí với 
quan điểm bi quan sâu sắc về con người, coi bản chất con người là ích kỉ, khốn nạn,  
phủ nhận khả năng con người có thể chiến thắng cái xấu và cải tạo xã hội. 


Dường như ở thời kì này Vũ Trọng Phụng đã buông lỏng tay bút, ông không còn 
trụ vững trên con đường hiện thực chủ nghĩa nữa. Ngòi bút “tả chân” của Vũ Trọng 
Phụng vì thế trở nên mờ nhạt, thiếu sức sống. 
5. Tiểu thuyết và tiểu thuyết phóng sự, lằn ranh trong văn chương Vũ 

Trọng Phụng
Tiểu thuyết phóng sự là một hình thức đặc thù của tiểu thuyết, nó đã từng tồn tại 
trong văn học Việt Nam hiện đại trong nhiều thập kỉ qua. Nói theo cách của M. 

Bakhtin thì “chỉ những kẻ biến đổi mới hiểu được sự biến đổi”. Căn cứ theo đó chúng 
ta tin tưởng vào hiện trạng và tương lai của hình thức tiểu thuyết phóng sự khi mà 
cuộc sống xung quanh ta không ngừng biến đổi mau lẹ và bất ngờ.
Lý thuyết về thể loại đã chỉ ra một quy luật khá phổ biến ­ đó là sự xâm nhập, 
thẩm thấu lẫn nhau giữa các thể loại một cách biện chứng mà giới nghiên cứu gọi là 
những “lằn ranh" văn học. Chẳng hạn như trong thời cách mạng và chiến tranh, trong 
một số nền văn học gần gũi nhau như văn học Nga ­ Xô viết, văn học Việt Nam xuất 
hiện một hình thức đặc thù được giới nghiên cứu văn học định danh là “tiểu thuyết­ 
sử thi” (đây chính là cuộc “hôn phối” tất yếu giữa hai thể loại sử thi và tiểu thuyết). 
Sử thi vốn là thể loại của văn học thời cổ đại nay sống lại trong tiểu thuyết, một thể 
loại được coi là ra đời cùng với thời hiện đại.
Quan sát sự vận động của văn học hiện đại Việt Nam thời kì 1900­ 1945, trên 
phương diện thể loại, sẽ thấy những dấu hiệu về sự xâm nhập lẫn nhau giữa các thể 
loại văn xuôi. Do tính chất của đời sống hiện đại mà thể phóng sự văn học đặc biệt 
phát triển cùng với sự nở rộ của phóng sự báo chí. Các nhà văn nổi tiếng thời kì này 
đều là những nhà báo cự phách và đã cống hiến cho độc giả những thiên phóng sự văn 
học độc đáo như Ngô Tất Tố với Việc làng (1940) và ông cũng là tác giả thiên tiểu 
thuyết phóng sự nổi tiếng Lều chõng (1939). Vũ Trọng Phụng nổi tiếng trên văn đàn 
trước hết bởi một loạt tác phẩm phóng sự như Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy 
Tây (1934), Cơm thầy cơm cô (1936), Lục sì (1937), … Chắc chắn là biệt tài viết phóng 
sự đã giúp Vũ Trọng Phụng có dư dả chất liệu để viết tiểu thuyết phóng sự, với 
những tác phẩm kinh điển như Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ, …
Vũ Trọng Phụng xuất hiện trên văn đàn hiện đại Việt Nam trước hết với tư cách 
một nhà báo, một cây bút phóng sự cự phách đến mức được đồng nhiệp và độc giả 
đương thời tấn phong là “Ông vua phóng sự đất Bắc”. Những phóng sự văn học nổi 
tiếng của ông bao gồm: Cạm bẫy người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Dân biểu và 
dân biểu (1935), Cơm thầy cơm cô (1936), Vẽ nhọ bôi hề (1936), Lục sì (1937), Một 
huyện ăn tết (1938). Trong tác phẩm Nhà văn hiện đại (1942), Vũ Ngọc Phan đã xếp 



Vũ Trọng Phụng vào nhóm các nhà văn viết phóng sự (gồm nhà văn họ Vũ và các nhà 
văn danh tiếng khác lúc bấy giờ như Tam Lang ­ Vũ Đình Chí, Trọng Lang, Ngô Tất 
Tố), còn nhà văn Chu Thiên lại được xếp vào nhóm nhà văn viết “tiểu thuyết phóng 
sự”. Nhận xét của Vũ Ngọc Phan về Vũ Trọng Phụng rất khách quan: “Vũ Trọng 
Phụng là một nhà văn sở trường về phóng sự dài; những tập phóng sự trên này của 
ông đều là phóng sự dài cả. Những tập xuất sắc nhất của ông là Kỹ nghệ lấy Tây và 
Cơm Thầy cơm Cô”. Tuy nhiên sau đó ông Vũ Ngọc Phan cũng đã nhận xét về tiểu 
thuyết của nhà văn họ Vũ: “Cây bút của Vũ Trọng Phụng những năm đầu là một cây 
bút phóng sự, một cây bút phóng sự sắc sảo và khôn ngoan, sau ông luyện nó ra một 
cây bút tiểu thuyết, nhưng cái giọng phóng sự vẫn còn”. Nhưng khi đánh giá toàn cục, 
Vũ Ngọc Phan cho rằng: “Nên về phóng sự, ông thành công hơn là về tiểu thuyết”. 
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: “Phóng sự của Vũ Trọng Phụng 
thường có chất tiểu thuyết, nghĩa là có sáng tạo nhân vật với những số phận khác 
nhau”.
Tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng, nếu có thể ví von, như một phòng 
triễn lãm tác phẩm ngôn từ, đạt tới gần những bộ “tấn trò đời” của xã hội Việt Nam 
thời Á­ Âu, đặc biệt là bộ “tam kiệt tiểu thuyết” ông viết liền trong năm 1936: Số đỏ, 
Giông tố, Vỡ đê. Vũ Trọng Phụng khi viết tiểu thuyết đã đứng ở tầm cao và chiều sâu 
của sự quan sát đời sống xã hội Việt Nam vào những thời điểm nhạy cảm nhất của 
nó. Đó là một xã hội chuyển từ “phi ngã” sang khẳng định bằng mọi cách và mọi giá 
cá tính và bản ngã của mỗi cá nhân, cá thể con người; đó là một xã hội mà yêu cầu 
giải phóng cá nhân, cá tính được đặt lên hàng đầu (kể cả yêu cầu giải phóng bản 
năng, đề cao đời sống tình dục). Ngay tiêu đề của các tiểu thuyết cũng gợi nên hình 
ảnh một xã hội đầy những biến động phức tạp thậm chí nhố nhăng: Giông tố, Số đỏ, 
Làm đĩ, Lấy nhau vì tình, Trúng số độc đắc, …
Có thể gọi Vũ Trọng Phụng là nhà văn “hai trong một” ­ đó là một nhà báo và một 
nhà văn hài hòa trong việc chế tác ngôn từ cho phù hợp với những “com­ măng” của xã 
hội, khi thì viết phóng sự, khi thì viết tiểu thuyết phóng sự. Như đã nói ở phần trên, 
các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận xét về “chất tiểu thuyết” trong phóng sự của 
Vũ Trọng Phụng (Nguyễn Đăng Mạnh), và trái lại, tiểu thuyết của ông lại rõ nét chất 

phóng sự. Từ đó chúng ta có thể hình dung ra cách thức tiếp cận trực diện, trực tiếp 
đời sống của nhà văn. Tác giả Trương Chính trong bài Dưới mắt tôi nhận xét: “Ông 
Vũ Trọng Phụng đã dùng tài phóng sự của ông để viết Giông tố và ta có thể nói Giông 
tố chính là phóng sự viết thành tiểu thuyết. Thật thế, Giông tố là một cuốn phim tài 
liệu cần cho nhà sử học tương lai muốn tái thiết xã hội An Nam trong thế kỉ thứ hai 
mươi”. Trong bài Lối viết chuyện của phái tả chân, Vũ Trọng Phụng viết: “Còn người 
viết chuyện của phái tả chân thì khác. Trái lại, họ phải tránh những chuyện gọi được 


là thần kì. Mục đích của họ chẳng phải là cốt kể cho ta một câu chuyện phi thường 
để ta cảm phục và được giải trí, nhưng là ép ta phải nghĩ ngợi, nghĩ ngợi rồi xét đoán 
cho ra những cái tinh hoa lẩn trong nét mực tả chân. Họ phải là người đã từng trải 
cuộc đời lắm, rồi nhân xúc cảm những điều tai nghe mắt thấy, họ tìm cách bày tỏ cho 
ta những cái họ kinh nghiệm được mà họ cần phải phô diễn một cách cho nhẹ nhàng, 
khéo léo để ta đến nỗi không đoán nổi dụng ý của họ mới hay (…), nói tóm lại, họ chỉ 
cần nêu cho ta trông được rõ cái “mặt thực” của đời”. Trong ý kiến này của nhà văn 
Vũ Trọng Phụng, chúng ta cần lưu ý đến quan niệm viết của nhà văn là dựa hẳn vào 
“những điều tai nghe mắt thấy” và mục đích viết là làm cho người đọc nhận ra được 
cái “mặt thực” của đời sống.
Phóng sự và tiểu thuyết, nếu nhìn bề ngoài, là hai thể loại văn học rất khác nhau, 
vì một bên tôn trọng sự thật khách quan, cập nhật và chính xác trong khi viết, một bên 
đòi hỏi có độ lùi nhất định của sự viết và đề cao hư cấu. Có vẻ như tiểu thuyết phóng 
sự của Vũ Trọng Phụng ít hư cấu trong khi tiểu thuyết vẫn được định nghĩa như là 
một “câu chuyện bịa y như thật”. Nhà văn họ Vũ tuyên bố thẳng thừng: “ Thứ văn tôi 
giống như một người con gái sức lực, táo bạo, không e lệ, có cái tinh thần chất phác 
mà trong sạch của phái cùng dân, để xõa tóc, mình trần truồng, vừa đi vừa hát  những 
khúc ca có tiếng lóng, thỉnh thoảng văng tục nói nhảm, nhưng ngoài sự thích được 
cười, nói, múa, hát, không tìm cách che đậy cái bản lĩnh tự nhiên, chẳng làm như 
những bà nào gấm, vóc, vàng ngọc đầy mình mà vẫn muốn để hở một ít ngực một ít 
đùi một ít nách, khi dạo phố đã khiến một ông già hay một đứa trẻ phải ngơ ngẩn nhìn 

theo. Sự tự nhiên trong sạch của tạo hóa, nếu đời ngộ nhận là vô luân lí, tôi xin hô 
“vạn tuế cho cái vô luân lí đó!”. Nếu như thế, theo chữ nghĩa, thì Vũ Trọng Phụng là 
một người “nệ thực” đến trăm phần trăm, trong khi cái tố chất của một nhà tiểu 
thuyết lại là sức mạnh của tưởng tượng và “bịa đặt”. Nhưng ở đây cần phân biệt một 
cách căn bản tinh thần “nệ thực” có nguy cơ kìm hãm sáng tạo của nhà văn với tinh 
thần “vì sự thật” chân chính như cách tuyên bố hùng hồn của Vũ Trọng Phụng trong 
tiểu luận “Để đáp lời báo Ngày nay: dâm hay là không dâm”. Khi tranh luận với ông 
Nhất Chi Mai, nhà văn Vũ Trọng Phụng đã viết: “Tại sao ta lại không thành thực? Tại 
sao khi con gái mình, em gái mình hư hỏng, thì mình muốn tự tử, mà con gái hay em gái 
người khác bỏ chồng, bỏ nhà theo trai mà lại gọi là giải phóng, là bình quyền, là chiến 
đấu cho hạnh phúc của cá nhân? Đó, thưa các ông, cái chỗ bất đồng ý kiến giữa chúng 
ta. Các ông cứ muốn tiểu thuyết là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí 
hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời. Cứ một chỗ trái ngược nhau ấy 
cũng đủ khiến chúng ta còn xung đột nhau nữa. Các ông muốn theo thuyết tùy thời, chỉ 
nói cái thiên hạ thích nghe, nhất là sự giả dối. Chúng tôi chỉ muốn nói cái gì đúng sự 
thực, thành ra nguy hiểm, vì sự thực mất lòng”. Những “từ khóa” của quan điểm này 


có thể trích xuất ra đây là: thành thực, sự thực. Vì sao lại phải thành thực khi viết và 
chỉ viết có sự thực? Là vì: “Riêng tôi, xã hội này, tôi chỉ thấy là khốn nạn: quan tham, 
lại nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt, mà cái 
xa hoa chơi bời của bọn giàu thì thật là những câu chửi rủa vào cái xã hội dân quê, thợ 
thuyền bị lầm than, bị bóc lột. Lạc quan được, cho đời là vui, là không cần cải cách, 
cho cái xã hội chó đểu này là hay ho tốt đẹp, rồi ngồi mà đánh phấn bôi môi hình quả 
tim để đi đua ngựa, chợ phiên, khiêu vũ, theo ý tôi thế là giả dối, là tự mình lừa mình 
và di họa cho đời, nếu không là vô liêm sỉ một cách thành thực”.
6. Từ năm 1939 đến nay

Cũng vì phong cách "tả chân" và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời 
ông đã bị chính quyền bảo hộ Pháp tại Hà Nội gọi ra tòa vì "tội tổn thương phong 

hóa". Về sau này, tác phẩm của ông lại bị cấm in, cấm đọc vì là "tác phẩm suy đồi", bị 
mổ xẻ, đấu tố.
Đồng thời, do những ảnh hưởng của vụ Nhân Văn Giai Phẩm, văn chương và 
chính bản thân Vũ Trọng Phụng bị đem ra đấu tố, quy kết vào tội chống đảng và chế 
độ, trong suốt ba mươi năm các tác phẩm của ông bị cấm, không được in ấn phát hành.
Phải đến thời kỳ đổi mới, những sai lầm trong vụ án cũ được làm rõ, những đóng 
góp của Vũ Trọng Phụng mới thực sự được nhìn nhận và đánh giá đúng nghĩa, văn 
chương của ông mới thực sự đến với bạn đọc một cách chính thống sau ba mươi chìm 
trong bóng tối.
Ngay khi Vũ Trọng Phụng qua đời, nhà phê bình văn học lừng lẫy Trương Tửu khi 
đó đã có một nhận xét chính xác và khái quát về văn chương Vũ Trọng Phụng: “Ông là 
một phần tử tiên phong và can đảm trong văn chương. Ông giữ riêng một ngọn cờ tiểu 
thuyết mà chính tay ông đã dệt xong”. Nhà văn Văn Chinh nhận xét, những tiểu thuyết 
của Vũ Trọng Phụng sống mãi, vì khả năng xây dựng nhân vật bậc thầy của ông, điển 
hình như nhân vật Văn Minh, nhân vật Xuân tóc đỏ trong tác phẩm Số đỏ... Nếu Văn 
Minh là hình mẫu hài hước, sâu cay của loại trí thức rởm, thì Xuân tóc đỏ đích thị là 
một tên lưu manh được xã hội ô trọc “vạn tuế” nâng lên. Nhà văn Văn Chinh nhận xét: 
“Một khi hình tượng của nhà văn trở thành chân lý nghệ thuật, thì sức sống của nó sẽ 
vang xa vào mọi ngóc ngách của đời sống, chẳng những giúp cắt nghĩa chuyện đã xa 
xưa, mà còn giúp phòng ngừa, động chạm tái phát cho cả mai sau.”
Là người tham gia làm nhiều tuyển tập Vũ Trọng Phụng, đau đáu với việc hậu thế 
đã giữ gìn như thế nào với di sản của ông, nhà nghiên cứu, phê bình Lại Nguyên Ân 
cho biết: “Đối với di sản Vũ Trọng Phụng, cũng như những di sản văn học của các tác 
giả khác thời kỳ trước cách mạng, vấn đề rất lớn đặt ra là tìm và tôn trọng theo bản 


gốc tác giả viết. Bởi vì ngay thời thuộc Pháp khi đó, những bản tái bản cũng đã bị sửa 
chữa sai lạc theo ý của người kiểm duyệt.”
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân chia sẻ một ví dụ: “Tôi đã sưu tầm 4 bản in Giông 
tố. Chỉ cần so sánh; thứ nhất là bản đăng trên Hà Nội báo. Hai, là bản in xuất bản sách 

đầu tiên, ba là bản in năm 1951 của NXB Mai Lĩnh, và bản in năm 1956 của NXB Văn 
nghệ, thì tôi thấy các nhà quản lý người Việt để dấu ấn vào những văn bản nhiều 
nhất. Vì NXB Mai Lĩnh xin giấy phép năm 1951 của Văn phòng quản lý của Sở Thủ 
hiến Bắc kỳ (thuộc Pháp) ­ tức do người Việt Nam quản lý, thì tất cả trong Giông tố 
có chữ nào hiếp, giết thì bỏ hết, thay bằng “…”. Năm 1956, NXB Văn nghệ in lại thì 
không có cách nào khác, đành in bản đó. Thành ra chính quản lý người Việt Nam để 
lại sự xâm phạm vào văn bản nhiều nhất. Còn đương nhiên ở văn bản gốc cũng có 
những vấn đề của nó, nhưng chưa phải chịu kiểu thay đổi văn bản như tôi vừa nói. Có 
lẽ với những tác phẩm như của các nhà văn thời cũ như Vũ Trọng Phụng chẳng hạn, 
thì một trong những yêu cầu là, khi sưu tầm và tái xuất bản thì giữ nguyên trạng như 
lúc đầu, là một vấn đề đặt ra.”

NGUỒN TƯ LIỆU THAM KHẢO:
Khóa luận tốt nghiệp: Sự tha hóa của con người trong Giông tố và Số đỏ của Vũ 
Trọng Phụng 
/>
Vũ Trọng Phụng – Thiên tài yểu mệnh của văn đàn Việt Nam 
/>
Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng 2001 – Luận án Tiến sĩ  />a=d&d=TTbFfqzJupDO2001.1.9

Tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng và những lằn ranh thể loại văn học 
/>
Tìm hiểu nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua tiểu thuyết Số Đỏ: 
o/threads/tim­hieu­nghe­thuat­trao­phung­cua­vu­trong­phung­qua­
tieu­thuyet­so­do.43592/


Nhà văn Vũ Trọng Phụng: Tiểu sử, cuộc đời và những tập truyện ngắn của ông 
/>Vũ Trọng Phụng – Cây bút đặc biệt của thế hệ đầu nguồn 
/>he­dau­nguon­118463




×