Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thực tiễn xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.35 KB, 27 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC
-------------------

BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ NGHỀ CÔNG CHỨNG
Chuyên đề: Từ thực tiễn xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động công
chứng, anh/chị hãy đề xuất các kiến nghị, giải pháp để nâng cao trách nhiệm
của cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động công chứng.

Họ và tên: L. L. T
Sinh ngày

tháng

năm

Số báo danh: 54
Lớp: Đào tạo nghề công chứng

1


Khánh Hòa, ngày 21 tháng 08 năm 2020

MỤC LỤC
I.

Mở đầu
- Tính cấp thiết của việc nghiên cứu.
- Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu.


- Cơ cấu của bài báo cáo.

II.
Chương 1.

Nội dung
Quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong hoạt
động công chứng.
1. Khái niệm hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công
chứng.
2. Dấu hiệu cơ bản của vi phạm hành chính trong lĩnh vực công
chứng.
3. Một số văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động công chứng.

Chương 2.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động công chứng và tình huống minh họa.
1. Hành vi vi phạm trong hoạt động công chứng được phát hiện qua
các cuộc thanh tra, kiểm tra trong những năm gần đây tại một số
địa phương.
2. Tình huống minh họa và việc xử phạt đối với một số hành vi vi
phạm hành chính cụ thể.
3. Những bất cập từ văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi pạhm
hành chính trong hoạt động công chứng.
4. Một số hành vi diễn ra phổ biến trong thực tế nhưng chưa được
quy định là hành vi vi phạm hành chính và chế tài xử lý.
5. Việc sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động công chứng.


Chương 3.

Kiến nghị, giải pháp để nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản
2


lý Nhà nước đối với hoạt động công chứng.
III.

Kết luận

IV.

Danh mục tài liệu tham khảo

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu:
Trong thời gian qua, hoạt động công chứng ở nước ta đã có những bước
chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, dần khẳng định được vị trí, vai trò của công chứng trong đời sống xã hội,
đáp ứng được nhu cầu công chứng của nhân dân. Hoạt động công chứng đã góp
phần tạo sự an toàn pháp lý cần thiết trong giao kết hợp đồng và các giao dịch dân
sự khác, phòng ngừa các tranh chấp, vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Với sự ra đời của Luật Công chứng 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật
về hoạt động công chứng khác như:

- Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/03/2015 của Chính phủ Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng;
- Thông tư số 04/2015/TT-BT ngày 15/04/2015 của Bộ Tư pháp Hướng dẫn
tập sự hành nghề công chứng;
- Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/06/2015 của Bộ Tư pháp Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số diều của Luật Công chứng;
- Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính Quy
định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công chứng; phí chứng thực;
phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng; phí thẩm định điều
kiện hoạt động văn phòng công chứng; lệ phí cấp thẻ công chứng viên;
- Thông tư số 111/2017/TT-BTC ngày 20/10/2017 của Bộ Tài chính Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ
Tài chính Quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý, sử dụng phí công chứng;
phí chứng thực; phí thẩm định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng; phí
thẩm định điều kiện hoạt động văn phòng công chứng; lệ phí cấp thẻ công chứng
viên.
- Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản
sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực
hợp đồng, giao dịch.
- Thông tư số 01/2020/TT-BTP ngày 03/03/2020 của Bộ Tư pháp Quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
- Và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của 11 Luật có liên quan đến quy
hoạch... đã góp phần tạo nên sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật công chứng ở
nước ta hiện nay.
Có thể khẳng định rằng Luật Công chứng 2014 đã đánh dấu một bước quan
trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện chế định công chứng tại nước ta. Số
lượng tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên hành nghề ngày càng
4



tăng về số lượng cũng như chất lượng, do đó chất lượng phục vụ nhân dân ngày
càng tốt và chuyên nghiệp hơn.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật
để điều chỉnh, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công
chứng như:
- Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ Quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp,
hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;
- Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/05/2015 của Chính phủ Sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013
của Chính phủ.
Và đến ngày 15/07/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2020/NĐCP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/09/2020 và thay thế Nghị định
số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP nói trên.
Trong thời gian qua việc phát hiện và xử lý hành vi vi phạm hành chính
trong hoạt động công chứng đã đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn
còn tồn tại không ít những hạn chế, bất cập. Do vậy, việc xây dựng, hoàn thiện
pháp luật về công chứng, trong đó có pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động công chứng và tổ chức thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính đối với những hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng là
những nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về công chứng.
Bởi vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Từ thực tiễn xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động công chứng, anh/chị hãy đề xuất các kiến nghị, giải pháp để nâng
cao trách nhiệm của của cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động công
chứng” cho bài báo cáo của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu:
a. Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở tổng hợp kiến thức pháp luật hiện hành trong quản lý nhà nước
về hoạt động công chứng, bài báo cáo đi sâu đánh giá, phân tích việc phát hiện và
xử lý hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng trong thời gian qua
(cụ thể một số vụ việc liên quan) từ đó có những đề xuất kiến nghị, giải pháp để
nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là, qua đánh giá một số hành vi phạm hành chính trong hoạt động công
chứng được phát hiện, đã bị xử lý trong thời gian qua, để nhận ra những vướng
mắc, hạn chế của quy định pháp luật hiện hành và nguyên nhân của những bất cập
trong thực thi pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng
của các cơ quan quản lý nhà nước.
Hai là, đề xuất các kiến nghị, giải pháp để nâng cao trách nhiệm của cơ quan
quản lý Nhà nước đối với hoạt động công chứng trong giai đoạn hiện nay.
5


c. Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động công chứng của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời gian
qua, những giải pháp chủ yếu để nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước trong hoạt động công chứng.
* Phạm vi nghiên cứu:
Với khuôn khổ của bài báo cáo, tôi sẽ tập trung đi sâu phân tích một số hành
vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng; một số vụ việc cụ thể đã được
cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy định. Tuy nhiên, do
thời gian thực hiện bài báo cáo không dài, chưa có thời gian thực tập nhiều tại tổ
chức hành nghề công chứng cũng nhưng việc thu thập thông tin, tài liệu có liên
quan đến lĩnh vực nghiên cứu chưa đầy đủ nên bài báo cáo chắc chắn chưa nêu đầy
đủ thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng. Do
vậy, việc đề xuất kiến nghị các giải pháp chưa mang tính toàn diện, đầy đủ nhưng

vẫn đảm bảo yêu cầu đặt ra đối với một bài báo cáo.
3. Cơ cấu của bài báo cáo:
- Phần mở đầu.
- Chương I: Quy định pháp luật về vi phạm hành chính trong hoạt động công
chứng.
- Chương II: Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động công chứng và tình huống minh họa.
- Chương III: Đề xuất các kiến nghị, giải pháp để nâng cao trách nhiệm của
của cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động công chứng.
- Kết luận.

6


CHƯƠNG I
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
I. Khái niệm vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng:
Vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính.
Trong lĩnh vực công chứng, trách nhiệm hành chính được áp dụng đối với
các hành vi được pháp luật về xử lý vi phạm hành chính coi là vi phạm hành chính.
Khi đó cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tiến hành xử phạt hành chính
hoặc áp dụng biện pháp xử lý hành chính hoặc biện pháp thay thế xử lý vi phạm
hành chính, nhằm buộc chủ thể vi phạm hành chính phải gánh chịu biện pháp xử lý
vi phạm hành chính. Trong đó, hình thức xử phạt bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền,
tước quyền sử dụng thẻ công chứng viên; biện pháp khắc phục hậu quả gồm: hủy
bỏ giấy tờ giả; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi

phạm.
Như vậy, trách nhiệm hành chính xuất hiện khi hành vi vi phạm được pháp
luật về hành chính quy định là vi phạm pháp luật hành chính.
II. Dấu hiệu cơ bản của vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng:
- Tính trái pháp luật của hành vi: thể hiện ở chỗ hành vi đó được thực hiện
ngược với quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong lĩnh vực công chứng
và liên quan như quy định về trình tự, thủ tục công chứng, quy định về tập sự hành
nghề công chứng…
- Tính có lỗi của hành vi: Những người bình thường đạt độ tuổi nhất định
đều có khả năng điều khiển, nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành
vi, hậu quả của hành vi. Do đó phải chịu trách nhiệm về hành vi nếu có lỗi. Tại
thời điểm thực hiện hành vi, không có lỗi thì không coi là hành vi vi phạm hành
chính.
- Hành vi đó bị xử phạt vi phạm hành chính và không phải là tội phạm: pháp
luật quy định những hành vi nào là hành vi vi phạm hành chính và định ra biện
pháp xử lý đối với hành vi đó. Tuy nhiên cần lưu ý, không phải lúc nào có hành vi
vi phạm hành chính thì đều áp dụng biện pháp xử phạt hành chính.
III. Một số văn bản quy phạm pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động công chứng:
Nhằm ngăn ngừa cũng như xử lý kịp thời các hành vi vi phạm hành chính
trong hoạt động công chứng, Nhà nước cũng đã ban hành văn bản quy phạm pháp
luật cụ thể như:

7


- Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ Quy định về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn
nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;
- Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/05/2015 của Chính phủ Sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013
của Chính phủ.
Ngày 15/07/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2020/NĐCP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp,
hợp tác xã. Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 01/09/2020 và thay thế Nghị định
số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP nói trên.
- Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16-10-2013 của Chính phủ quy định
về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế…
- Và một số văn bản quy phạm pháp luật của các chuyên ngành khác có liên
quan đến hoạt động công chứng.

8


CHƯƠNG II
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
VÀ TÌNH HUỐNG MINH HỌA
Trong thời gian qua, việc triển khai thi hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP
ngày 24/9/2013 của Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự,
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số
67/2015/NĐ-CP) đã góp phần xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm hành chính,
đảm bảo hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tư pháp.
I. HÀNH VI VI PHẠM TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG ĐƯỢC
PHÁT HIỆN QUA CÁC CUỘC THANH TRA, KIỂM TRA TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY TẠI MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG:
Theo các kết luận thanh tra, kiểm tra về nghiệp vụ công chứng của các Sở

Tư pháp tỉnh, thành phố trên cả nước trong thời gian từ 2018 đến nay thì hành vi vi
phạm trong lĩnh vực công chứng thường gặp như sau:
1. Hành vi vi phạm quy định về công chứng hợp đồng, giao dịch:
- Công chứng viên soạn thảo hợp đồng, giao dịch theo đề nghị của người
yêu cầu công chứng mà nội dung, ý định giao kết hợp đồng, giao dịch không xác
thực, vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội;
- Thực hiện việc công chứng không đúng thời hạn theo quy định;
- Thực hiện việc sửa lỗi kỹ thuật văn bản công chứng không đúng quy định:
Một số trường hợp việc sửa chữa văn bản công chứng lưu tại Văn phòng công
chứng còn tuỳ tiện (gạch bút chì vào văn bản nhưng không có ký, đóng dấu)…
2. Hành vi vi phạm quy định về thủ tục công chứng hợp đồng thế chấp bất
động sản, di chúc, văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di
sản, văn bản từ chối nhận di sản và nhận lưu giữ di chúc:
- Một số hồ sơ công chứng không có phiếu yêu cầu công chứng.
- Lời chứng của Công chứng viên trong một số văn bản công chứng hợp
đồng mua không đúng theo mẫu quy định của Bộ Tư pháp (Lời chứng thiếu cụm từ
“phù hợp với đạo đức xã hội”; Lời chứng một số hồ sơ không có phần ghi ngày,
tháng, năm bằng chữ theo quy định).
- Tên hợp đồng ghi không thống nhất nhau (có hợp đồng ghi tên chung
chung là “hợp đồng bảo lãnh, thế chấp”, không thể hiện cụ thể đó là loại hợp đồng
gì).
9


- Việc uỷ quyền của cá nhân có thẩm quyền cho người khác thay mặt mình
tham gia giao kết trong hợp đồng cầm cố, bảo lãnh, thế chấp cũng không có sự
thống nhất: theo Bộ luật Dân sự thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức mới là người
có thẩm quyền uỷ quyền nhưng thực tế có một số hồ sơ, cấp phó của cơ quan ngân
hàng (Phó Giám đốc ngân hàng - không phải là người đứng đầu cơ quan) ký văn
bản uỷ quyền cho cán bộ của mình tiến hành giao dịch…

3. Hành vi vi phạm nghĩa vụ của Công chứng viên:
- Từ chối công chứng hợp đồng, giao dịch không có lý do chính đáng.
- Thực hiện công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp
đồng, giao dịch vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội;
- Cho người khác sử dụng Thẻ công chứng viên của mình để hành nghề công
chứng;
- Công chứng viên không tham gia lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng
viên do Sở Tư pháp triệu tập…
4. Hành vi vi phạm của tổ chức hành nghề công chứng:
- Không đăng báo hoặc đăng báo không đầy đủ nội dung, số lần theo quy
định về nội dung đăng ký hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng.
- Vi phạm các quy định về chế độ báo cáo theo yêu cầu của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền; không báo cáo bằng văn bản gửi Sở Tư pháp nơi đăng ký
hoạt động trong trường hợp chấm dứt hoạt động theo quy định của pháp luật;
không lập, quản lý, sử dụng các loại sổ sách, biểu mẫu theo quy định.
- Không niêm yết lịch làm việc, thủ tục công chứng, phí công chứng, thù lao
công chứng, nội quy tiếp người yêu cầu công chứng tại trụ sở của tổ chức hành
nghề công chứng.
- Vi phạm quy định về lưu trữ hồ sơ công chứng.
- Văn phòng công chứng không mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho
công chứng viên của tổ chức mình theo quy định của pháp luật về kinh doanh bảo
hiểm.
- Không đăng ký, thông báo việc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động, tên
gọi, trụ sở hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng;
- Hành vi vi phạm về thực hiện nghĩa vụ thuế…
5. Ngoài ra, còn bao gồm hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan
khác trong hoạt động công chứng.
II. TÌNH HUỐNG MINH HỌA VÀ VIỆC XỬ PHẠT ĐỐI VỚI MỘT SỐ
HÀNH VI VI PHẠM HÀNH CHÍNH CỤ THỂ:
1. Tại Kết luận số 397/KL-UBND ngày 31/10/2019 của Chủ tịch UBND

tỉnh Bình Phước về thanh tra việc chấp hành các quy định của pháp luật
trong công tác quản lý nhà nước của Giám đốc Sở Tư pháp đối với hoạt động
công chứng trên địa bàn tỉnh có nêu:
a. Đối với VPCC Lê Nguyệt:
10


- Năm 2017: Trong Sổ công chứng hợp đồng giao dịch ghi tắt nội dung tại
cột loại việc công chứng; khóa sổ nhưng không thống kê tổng số tiền phí công
chứng thu được.
- Năm 2018: Một số hồ sơ công chứng hợp đồng thế chấp thiếu biên bản
định giá tài sản và không có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu nhà và có một số
hợp đồng thế chấp trong hồ sơ ngân hàng không ký đủ từng trang.
b. Đối với VPCC Trần Phùng:
- Năm 2017: Trong Sổ công chứng hợp đồng giao dịch, tại cột phí công
chứng đơn vị không cập nhật số tiền thu phí công chứng; khóa sổ nhưng không
thống kê tổng số tiền phí công chứng thu được.
- Năm 2018: Sổ công chứng hợp đồng giao dịch, tại cột phí công chứng đơn
vị không cập nhật số tiền thu phí công chứng; khóa sổ nhưng không thống kê tổng
số tiền phí công chứng thu được. Một số hồ sơ công chứng hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn: Có đưa tài sản là nhà ở cơ cấu vào trong tài sản thế chấp nhưng
không có giấy tờ chứng minh sở hữu về tài sản.
Sổ công chứng hợp đồng giao dịch, các loại sổ theo dõi từ tháng 6 đến tháng
12/2018 tại cột phí công chứng, đơn vị vẫn không ghi số tiền thu phí công chứng.
* Trong giai đoạn kiểm tra 2017-2018, VPCC Trần Phùng đã có hành vi vi
phạm về thực hiện nghĩa vụ thuế. Ngày 17/6/2018, Chi cục Thuế thị xã Phước
Long ban hành Quyết định số 589/QĐ-CCT về việc xử phạt vi phạm hành chính về
thuế đối với VPCC Trần Phùng (Đơn vị đã có hành vi khai sai dẫn đến thiếu số
thuế phải nộp theo quy định tại Điểm a Khoản 1, 7 Điều 10 và hành vi lập hồ sơ

khai thuế ghi thiếu, ghi sai trên tờ khai thuế, tờ khai quyết toán thuế theo Khoản 3,
Điều 6 Nghị định số 129/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 của Chính phủ Quy định
về xử phạt vi phạm hành chính về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế).
2. Tại Kết luận thanh tra số 613/KL-STP ngày 21/11/2019 của Sở Tư
pháp tỉnh Bình Thuận về thanh tra chuyên ngành đối với 02 Văn phòng Công
chứng Đức Linh và Hoài Đức thuộc tỉnh Bình Thuận:
Ngày 27/11/2019, Sở Tư pháp tổ chức cuộc họp công khai Kết luận thanh tra
chuyên ngành về tổ chức và hoạt động đối với 02 Văn phòng Công chứng. Kết
luận thanh tra nêu rõ các sai sót, cụ thể:
a. Văn phòng Công chứng Đức Linh:
- Có đưa thêm những nội dung không cần thiết vào phần lời chứng.
- Sử dụng sai tên “thông báo về việc thụ lý công chứng văn bản thỏa thuận
phân chia di sản”.
- Công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản trong trường hợp thừa kế
theo pháp luật mà người yêu cầu công chứng không có giấy tờ chứng minh quan hệ
giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản.
- Hợp đồng thế chấp không lưu giấy tờ pháp lý của ngân hàng
11


- Hợp đồng giao dịch có người làm chứng nhưng trong văn bản công chứng
không đưa tên người làm chứng vào.
- Hồ sơ lưu thiếu sổ hộ khẩu của 2 bên tham gia hợp đồng, giao dịch.
- Đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không đúng
theo hồ sơ lưu trữ.
- Sổ theo dõi hợp đồng, giao dịch không ghi đầy đủ thông tin từng cột.
* Trong các hành vi trên, hành vi công chứng văn bản thỏa thuận phân chia
di sản trong trường hợp thừa kế theo pháp luật mà người yêu cầu công chứng
không có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được

hưởng di sản vi phạm điểm đ, khoản 2, điều 12 của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP
ngày 24/9/2013 (được sửa đổi tại Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015)
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,
hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự; phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã. Do đó Đoàn Thanh tra đã lập biên bản vi phạm hành chính và
Chánh Thanh tra Sở đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 5.000.000 đồng.
b. Văn phòng Công chứng Hoài Đức:
- Phiếu yêu cầu công chứng không liệt kê những tài liệu kèm theo, không
ghi thời gian nhận phiếu.
- Hợp đồng, giao dịch có người làm chứng nhưng không ghi thông tin người
làm chứng vào trong nội dung hợp đồng, giao dịch.
- Còn dùng từ “Hợp đồng hủy bỏ hợp đồng…” là không chính xác.
- Hợp đồng thế chấp không lưu giấy tờ pháp lý của ngân hàng.
- Sửa lỗi kỹ thuật không đúng quy định.
- Đại diện Ngân hàng chưa ký vào từng trang trong hợp đồng thế chấp.
- Một số thành phần trong hồ sơ lưu trữ thông tin còn mờ, không nhìn rõ
như: bản sao chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, giấy chứng nhận quyền sở hữu.
* Trong các hành vi trên, hành vi sửa lỗi kỹ thuật không đúng quy định vi
phạm điểm c, khoản 1, Điều 14 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013
(được sửa đổi tại Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015) của Chính phủ
Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư
pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã,
do đó Đoàn Thanh tra đã lập biên bản vi phạm hành chính và Chánh Thanh tra Sở
đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000 đồng.
3. Tại Kết luận thanh tra 19 tổ chức hành nghề công chứng tại Hà Nội
của Thanh tra Bộ Tư pháp cho thấy, còn nhiều sai phạm trong hoạt động công
chứng, trong đó chủ yếu là vi phạm về thu, chi phí công chứng; không mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho công chứng viên của tổ chức mình; một số lời
chứng của công chứng viên ở Phòng công chứng số 1 thiếu ngày tháng, thiếu cụm
từ “không trái với đạo đức xã hội”; phòng công chứng số 6, 7 thiếu tên của công

chứng viên; một số lời chứng của Phòng công chứng số 1, 4, 6, 7… có lời chứng
mâu thuẫn với hợp đồng giao dịch như: địa điểm tài sản giao dịch không khớp; hợp
12


đồng thuê trụ sở đặt biển quảng cáo nhưng lời chứng lại chứng nhận hợp đồng
chuyển nhượng.
- Về sai sót trong lưu trữ hồ sơ công chứng như: Không có danh mục lưu trữ
hồ sơ; hồ sơ công chứng không được đánh số trang, không có ký duyệt của người
có thẩm quyền…
Ngoài ra, Thanh tra cũng phát hiện VPCC Thăng Long chi tiền hoa hồng
soạn thảo văn bản, photo tài liệu, thu thập tài liệu cho Ngân hàng Techcombank và
Habubank theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu thực hiện và hạch toán khoản chi
này vào chi phí. Việc này vô hình chung đã tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh
giữa các tổ chức hành nghề công chứng nên Đoàn Thanh tra đã yêu cầu VPCC
Thăng Long phải chấm dứt ngay các khoản chi trên.
* Tại thời điểm thanh tra, Văn phòng công chứng Thăng Long đã không
niêm yết giá thù lao công chứng, Đoàn thanh tra đã tiến hành lập biên bản vi phạm
hành chính và ra quyết định xử phạt với mức tiền phạt là 1.000.000 đồng.
4. Báo cáo của Sở Tư pháp tỉnh Khánh Hòa về công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực công chứng trên địa bàn năm 2019:
Sở Tư pháp thực hiện nghiêm túc các quy định về đăng ký hoạt động, thay
đổi nội dung đăng ký hoạt động của văn phòng công chứng, đăng ký hành nghề,
cấp thẻ công chứng viên; kịp thời hỗ trợ cung cấp thông tin hành nghề công chứng
viên cho các Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố; phối hợp với Hội Công chứng viên
tỉnh tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng cho đội ngũ công chứng viên, nhân
viên nghiệp vụ trên địa bàn tỉnh và một số công chứng viên ở các tỉnh Phú Yên,
Ninh Thuận, Lâm Đồng.
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa có 15 tổ chức hành nghề công
chứng, trong đó có 01 Phòng công chứng và 14 Văn phòng công chứng; Số

lượng công chứng viên đang hành nghề trên địa bàn tỉnh: 34 Công chứng viên.
Năm 2019, các tổ chức hành nghề công chứng đã công chứng được 113.019 hợp
đồng, giao dịch (tăng hơn 2,39% so với cùng kỳ năm 2018), đóng góp cho Ngân
sách nhà nước hoặc nộp thuế hơn 6,6 tỷ đồng (tăng 29% so với cùng kỳ năm 2018).
- Xử phạt vi phạm hành chính đối với 01 Công chứng viên.
5. Số liệu theo dõi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công
chứng trên địa bàn Tp. Hà Nội trong 06 tháng đầu năm 2019:
Stt

1

Đối tượng bị
xử phạt

Quyết định xử
phạt

Quyết định số
04/QĐ-XPVP
ngày
Văn phòng 24/01/2019 của
công chứng Chánh Thanh
Tây Hồ
tra Sở Tư pháp
Hà Nội

Hành vi vi phạm hành chính bị xử
phạt; Căn cứ xử phạt

Mức tiền

phạt, biện
pháp khắc
phục hậu quả

- Không mua bảo hiểm trách nhiệm - Phạt tiền:
nghề nghiệp cho công chứng viên của 7.000.000đồng
tổ chức mình (không mua bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho công
chứng viên Dương Chí Kiên làm việc
tại Văn phòng công chứng Tây Hồ từ
ngày 17/01/2018), là hành vi vi phạm
hành chính quy định tại Khoản 19
Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.
13


2

3

4

Quyết định số
08/QĐXPVPHC ngày
31/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội
Quyết định số
09/QĐXPVPHC ngày

31/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội

- Sổ chứng thực chữ ký lập không - Phạt tiền:
đúng theo mẫu ban hành kèm theo 7.000.000đồng
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, là hành
vi vi phạm hành chính quy định tại
Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.

Quyết định số
13/QĐVăn phòng XPVPHC ngày
công chứng 31/01/2019 của
Trương Thị Chánh Thanh
Nga
tra Sở Tư pháp
Hà Nội

- Phạt tiền:
7.000.000đồng

Văn phòng
công chứng
DươngHương

Văn phòng
công chứng
Trịnh Như Tố


5

Công chứng
viên Vũ Thị
Liên
thuộc
VPCC Tây
Hồ

6

Công chứng
viên
Trần
Đức
Hiếu
thuộc VPCC
Tây Hồ

7

Công chứng
viên Hoàng
Minh
Đức
thuộc VPCC
Tây Hồ

Quyết định số

01/QĐ-XPVP
ngày
18/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với
Quyết định số
02/QĐ-XPVP
ngày
18/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với
Quyết định số
03/QĐ-XPVP
ngày
24/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với

- Không mua bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho công chứng viên của
tổ chức mình (không mua bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho 02 công
chứng viên Trịnh Như Tố, Bùi Thị
Tiền từ ngày 10/3/2018 đến ngày
08/11/2018), là hành vi vi phạm hành
chính quy định tại Khoản 19 Điều 1
Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.

- Không mua bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp cho công chứng viên của
tổ chức mình (không mua bảo hiểm
trách nhiệm nghề nghiệp cho 02 công
chứng viên từ ngày thành lập đến
ngày 14/11/2018), là hành vi vi phạm
hành chính quy định tại Khoản 19
Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.
- Lời chứng của công chứng viên
trong văn bản công chứng không đầy
đủ nội dung theo quy định tại Điều 46
Luật Công chứng, là hành vi vi phạm
hành chính quy định tại Khoản 10
Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.

- Phạt tiền:
7.000.000đồng

- Phạt tiền:
3.000.000đồng

- Công chứng hợp đồng mà thiếu chữ - Phạt tiền:
ký của người yêu cầu công chứng vào 5.000.000đồng
từng trang của hợp đồng, là hành vi vi
phạm hành chính quy định tại Khoản
10 Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐCP.
- Công chứng di chúc trong trường
hợp người lập di chúc không tự mình
yêu cầu công chứng, là hành vi vi
phạm hành chính quy định tại Khoản

6 Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐCP.
- Công chứng Văn bản khai nhận di
sản trong trường hợp thừa kế theo
pháp luật mà người yêu cầu công
chứng không có giấy tờ chứng minh
quan hệ giữa người để lại di sản và
người được hưởng di sản, là hành vi vi
phạm hành chính quy định tại Khoản
6 Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐCP.
- Sửa lỗi kỹ thuật văn bản công chứng
không đúng quy định tại Điều 50 Luật
14

- Phạt tiền:
7.000.000đồng

- Phạt tiền:
7.000.000đồng

- Phạt tiền:
1.000.000đồng


8

9

10

11


12

Công chứng
viên Dương
Thị Hương
thuộc VPCC
Dương
Hương

Công chứng
viên
Trần
Quang Sang
thuộc VPCC
Dương
Hương

Quyết định số
05/QĐ-XPVP
ngày
31/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với
Quyết định số
06/QĐ-XPVP
ngày
31/01/2019 của
Chánh Thanh

tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với

Quyết định số
07/QĐ-XPVP
Công chứng
ngày
viên Hà Thị
31/01/2019 của
Phương
Chánh Thanh
thuộc VPCC
tra Sở Tư pháp
Dương
Hà Nội đối với
Hương

Công chứng
viên Bùi Thị
Tiền
thuộc Văn
phòng công
chứng Trịnh
Như Tố
Công chứng
viên
Trịnh
Như
Tố
thuộc Văn

phòng công
chứng Trịnh
Như Tố

Quyết định số
10/QĐXPVPHC ngày
31/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với
Quyết định số
11/QĐXPVPHC ngày
31/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với

Công chứng năm 2014, là hành vi vi
phạm hành chính quy định tại Điểm c
Khoản 1 Điều 14 Nghị định số
110/2013/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao
dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, vi
phạm quy định tại Khoản 29 Điều 1
Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao

dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, là hành
vi vi phạm hành chính quy định tại
Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao
dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ, là hành vi
vi phạm hành chính quy định tại
Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao
dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ, là hành vi
vi phạm hành chính quy định tại
Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao
dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ, là hành vi

vi phạm hành chính quy định tại
Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao
dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ, là hành vi
vi phạm hành chính quy định tại
Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
15

- Phạt tiền:
4.000.000đồng

- Phạt tiền:
3.000.000đồng

- Phạt tiền:
3.000.000đồng

- Phạt tiền:
3.000.000đồng

- Phạt tiền:
4.000.000đồng

- Phạt tiền:

4.000.000đồng


Quyết định số
12/QĐXPVPHC ngày
31/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với

13

Công chứng
viên Trương
Thị
Nga
thuộc Văn
phòng công
chứng
Trương Thị
Nga.

14

Công chứng
viên
Phạm

Tuyên
thuộc Văn

phòng công
chứng

Xuân

15

Công chứng
viên Nghiêm
Văn
Nho
thuộc Văn
phòng công
chứng

Xuân

16

Công chứng
viên
Chu
Cảnh Hưng
thuộc Văn
phòng công
chứng Chu
Cảnh Hưng

- Quyết định số
17/QĐXPVPHC ngày

13/3/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với

Quyết định số
14/QĐXPVPHC ngày
31/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với
Quyết định số
15/QĐXPVPHC ngày
31/01/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với
Quyết định số
16/QĐXPVPHC ngày
01/02/2019 của
Chánh Thanh
tra Sở Tư pháp
Hà Nội đối với

- Công chứng bản dịch mà thiếu chữ
ký của công chứng viên, chữ ký hoặc
dấu điểm chỉ của người dịch vào từng
trang của bản dịch, là hành vi vi phạm
hành chính quy định tại Khoản 10
Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.

- Lời chứng của công chứng viên
trong văn bản công chứng không đầy
đủ nội dung theo quy định tại Điều 61
Luật Công chứng, là hành vi vi phạm
hành chính quy định tại Khoản 10
Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực bản sao từ bản chính mà
không thực hiện ghi vào sổ chứng
thực theo quy định, là hành vi vi phạm
hành chính quy định tại Khoản 30
Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực bản sao từ bản chính
giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền của nước ngoài cấp mà
chưa được hợp pháp hóa lãnh sự theo
quy định của pháp luật trước khi yêu
cầu chứng thực, là hành vi vi phạm
hành chính quy định tại Khoản 30
Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.
- Không ghi lời chứng vào trang cuối
của bản sao có từ 02 trang trở lên, là
hành vi vi phạm hành chính quy định
tại Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao
dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ, là hành vi

vi phạm hành chính quy định tại
Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao
dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ, là hành vi
vi phạm hành chính quy định tại
Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
- Chứng thực chữ ký trong giấy tờ,
văn bản có nội dung là hợp đồng, giao
dịch không thuộc các trường hợp quy
định tại Điểm d Khoản 4 Điều 24
Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ, là hành vi
vi phạm hành chính quy định tại
16

- Phạt tiền:
6.000.000đồng

- Phạt tiền:
6.000.000đồng

- Phạt tiền:
7.500.000đồng


- Phạt tiền:
7.500.000đồng

- Phạt tiền:
3.000.000đồng

- Phạt tiền:
3.000.000đồng

- Phạt tiền:
3.000.000đồng

- Phạt tiền:
4.000.000đồng


Khoản 29 Điều 1 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP.
- Công chứng bản dịch mà thiếu chữ - Phạt tiền:
ký của công chứng viên, chữ ký của 3.000.000đồng
người dịch vào từng trang của bản
dịch, là hành vi vi phạm hành chính
quy định tại Khoản 10 Điều 1 Nghị
định số 67/2015/NĐ-CP.

III. NHỮNG BẤT CẬP TỪ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG:
Qua 07 năm triển khai thực hiện, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (được sửa
đổi, bổ sung theo Nghị định số 67/2015/NĐ-CP) là những cơ sở pháp lý quan trọng
để quản lý thống nhất công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp.

Theo đó, nhiều hành vi vi phạm đã bị xử lý, góp phần làm lành mạnh hóa công tác
tư pháp, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện công tác xử lý vi
phạm hành chính một cách chính xác, đúng nguyên tắc. Bên cạnh những kết quả
đạt được, các văn bản này đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, chưa đáp ứng đầy
đủ yêu cầu của thực tiễn.
Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ tập trung nêu những vướng mắc, bất cập
chủ yếu liên quan đến nội dung quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động công chứng theo Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Luật XLVPHC),
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số
67/2015/NĐ-CP), so sánh với Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/07/2020 của
Chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp;
hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã để thấy được những điểm mới đã được bổ sung, thay thế. Từ đó
đề xuất các kiến nghị, giải pháp để nâng cao trách nhiệm của của cơ quan quản lý
Nhà nước đối với hoạt động công chứng.
1. Về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng:
Theo quy định tại Điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính
(XLVPHC), có thể thấy, tùy thuộc vào đặc thù của từng lĩnh vực quản lý nhà nước,
nhà làm luật quy định các loại thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính khác nhau, cụ
thể là:
- Đối với các hành vi vi phạm hành chính trong hầu hết các lĩnh vực quản lý
nhà nước (trong đó có lĩnh vực bổ trợ tư pháp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 24
Luật XLVPHC), thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm.
- Đối với một số lĩnh vực đặc thù thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là
02 năm (chẳng hạn như: Lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng
khoán; sở hữu trí tuệ; xây dựng; đất đai…).
- Riêng vi phạm hành chính là hành vi trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm
tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế thì thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật về thuế.


17


Theo quy định tại điểm a khoản 20 Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày
16/8/2017 của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Tư pháp thì công chứng là một trong những hoạt động thuộc lĩnh vực
bổ trợ tư pháp.
Như vậy, theo các quy định pháp luật hiện hành thì các hành vi vi phạm
hành chính trong hoạt động công chứng chỉ có thời hiệu xử phạt là 01 năm.
Qua thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính thấy rằng, quy định thời hiệu xử
phạt là 01 năm đối với hoạt động công chứng chưa thực sự hợp lý. Bởi vì, hoạt
động công chứng có một đặc thù, đó là, việc tranh chấp, khiếu nại đối với các hợp
đồng, giao dịch không xảy ra ngay tại thời điểm công chứng mà thường xảy ra sau
một khoảng thời gian khá dài, kể từ thời điểm công chứng, đặc biệt là các giao dịch
liên quan đến di chúc, thừa kế di sản. Có những vụ việc công chứng phải hơn 01
năm kể từ ngày công chứng mới phát sinh khiếu nại và khi xác minh, kết luận có
sai sót thì cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt không thể tiến hành việc xử phạt
vì đã quá thời hiệu 01 năm. Do vậy, để bảo đảm xử lý nghiêm minh các hành vi vi
phạm hành chính trong hoạt động công chứng, cần nghiên cứu quy định về thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng phù hợp với thực
tiễn.
2. Quy định về việc công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công
chứng:
Tại Điểm a khoản 1 Điều 14 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (được sửa đổi,
bổ sung theo Nghị định số 67/2015/NĐ-CP) quy định xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi “công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng
không đúng quy định tại Điều 44 của Luật công chứng”.
Tại Khoản 2 Điều 44 của Luật công chứng 2014 quy định: “Việc công chứng
có thể được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng trong
trường hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được,

người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính
đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng”.
Tuy nhiên trên thực tế, quy định này vẫn còn vướng mắc do chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể trường hợp nào được coi là “có lý do chính đáng khác không thể
đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng” nên đã tạo “kẽ hở” để một số công
chứng viên lợi dụng, thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở trái quy định pháp
luật, dẫn đến trào lưu “công chứng dạo”, làm xấu đi hình ảnh của công chứng viên
như phản ánh trên một số phương tiện thông tin đại chúng thời gian qua. Do quy
định pháp luật chưa chặt chẽ, cụ thể nên thậm chí, hiện nay, rất phổ biến tình trạng
công chứng viên thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề
công chứng đối với tất cả những trường hợp khách hàng có nhu cầu, ví dụ như:
Trường hợp người yêu cầu công chứng mặc dù có đầy đủ điều kiện đến trụ sở tổ
chức hành nghề công chứng giao kết hợp đồng, giao dịch nhưng vẫn yêu cầu công
chứng viên thực hiện việc công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công
chứng (vì họ cho rằng, họ là khách hàng, họ có khả năng, điều kiện kinh tế và có
nhu cầu thuê “dịch vụ về nhà công chứng” thì có quyền thỏa thuận với tổ chức
hành nghề công chứng về việc này, đó là nhu cầu hết sức chính đáng nếu coi công
chứng là một loại hình dịch vụ); trường hợp giao kết hợp đồng thế chấp tại các tổ
18


chức tín dụng (các tổ chức hành nghề công chứng ký kết hợp đồng dịch vụ với tổ
chức tín dụng và bố trí công chứng viên thường xuyên túc trực tại trụ sở của tổ
chức tín dụng để thực hiện việc công chứng hợp đồng thế chấp, cầm cố…); trường
hợp các bên trong hợp đồng, giao dịch muốn công chứng tại trụ sở của tổ chức tín
dụng để thuận tiện cho việc ký kết, giao, nhận tiền… Đối với những trường hợp
này, trên thực tế rất khó xác định lý do chính đáng nên người có thẩm quyền xử
phạt vi phạm hành chính không thể tiến hành xử phạt.
Do vậy, cần có quy định cụ thể những trường hợp nào được coi là “có lý do
chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng” để tạo

điều kiện thuận lợi cho người có thẩm quyền xử phạt khi áp dụng pháp luật.
3. Về mức phạt tiền, hình phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả đối với
một số hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng:
Việc quy định mức phạt đối với một số hành vi vi phạm hành chính là nhẹ,
chưa tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm, mức độ xâm hại trật tự quản lý
hành chính nhà nước, đồng thời chưa quy định hình phạt bổ sung, biện pháp khắc
phục hậu quả nên chưa bảo đảm tính răn đe, phòng ngừa, đặc biệt là các hành vi
diễn ra một cách phổ biến trên thực tế sau đây:
a. Hành vi “công chứng ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng
không đúng quy định tại Điều 44 của Luật công chứng” quy định tại điểm a khoản
1 Điều 14 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số
67/2015/NĐ-CP): Chỉ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng mà
không bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung hay biện pháp khắc phục hậu quả nào.
Theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP
ngày 15/07/2020 đã nâng mức hình phạt lên từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng
nhưng cũng không bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung hay biện pháp khắc phục
hậu quả nào.
b. Hành vi “không chứng kiến việc người yêu cầu công chứng, người làm
chứng, người phiên dịch ký hoặc điểm chỉ vào hợp đồng, giao dịch” quy định tại
điểm d khoản 2 Điều 14 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị định số 67/2015/NĐ-CP): Đây là hành vi vi phạm nghiêm trọng về trình
tự, thủ tục công chứng nhưng chỉ bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 7.000.000
đồng mà không bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung hay biện pháp khắc phục hậu
quả nào.
Theo quy định tại điểm đ Khoản 3 Điều 15 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP
ngày 15/07/2020 đã nâng mức hình phạt lên từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000
đồng nhưng cũng không bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung hay biện pháp khắc
phục hậu quả nào.
IV. MỘT SỐ HÀNH VI DIỄN RA PHỔ BIẾN TRONG THỰC TẾ NHƯNG
CHƯA ĐƯỢC QUY ĐỊNH LÀ HÀNH VI VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ CHẾ

TÀI XỬ LÝ:
Theo quy định tại Điều 4 Luật XLVPHC thì “căn cứ quy định của Luật này,
Chính phủ quy định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính”.
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP thì một
19


trong những căn cứ để quy định hành vi vi phạm hành chính là phải “có vi phạm
các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm của pháp luật về trật tự quản lý
hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước”. Điều này có nghĩa là, các quy
định về hành vi vi phạm hành chính tại Nghị định xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động công chứng đều phải xuất phát từ các văn bản quy phạm pháp luật
về nội dung, quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm của pháp luật liên quan
đến trật tự quản lý hành chính trong quản lý nhà nước về hoạt động công chứng.
Hay nói một cách khác, trên cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật quy định về
nghĩa vụ, trách nhiệm, điều cấm của pháp luật liên quan đến trật tự quản lý hành
chính trong quản lý nhà nước về hoạt động công chứng (văn bản quy phạm pháp
luật về nội dung), Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công
chứng phải cụ thể hóa thành hành vi vi phạm hành chính và các chế tài xử phạt
(hình thức xử phạt, mức phạt và biện pháp khắc phục hậu quả) đối với từng hành
vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng theo quy định tại Điều 4 Luật
XLVPHC.
Tuy nhiên, qua thực tiễn và rà soát nội dung Nghị định số 110/2013/NĐ-CP
(được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 67/2015/NĐ-CP) thấy rằng, nhiều hành
vi vi phạm diễn ra phổ biến nhưng chưa được quy định là hành vi vi phạm hành
chính và chế tài xử lý, có thể dẫn ra một số hành vi sau đây:
1. Hành vi trả tiền hoa hồng, chiết khấu cho người yêu cầu công chứng hoặc
người môi giới:
Khoản 9 Điều 9 Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng ban hành kèm

Thông tư số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy
định một trong những công việc công chứng viên không được làm đó là: “Trả tiền
hoa hồng, chiết khấu cho người yêu cầu công chứng hoặc người môi giới”.
Từ khi Nhà nước có chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, cùng với
sự ra đời của hàng loạt Văn phòng công chứng trên cả nước, đặc biệt là tại các
thành phố lớn thì sự cạnh tranh giữa các tổ chức hành nghề công chứng cũng diễn
ra ngày càng mạnh mẽ để lôi kéo khách hàng (người yêu cầu công chứng). Có thể
kể đến một số hành vi mang tính cạnh tranh không lành mạnh như: Trích lại phần
trăm (%) tiền phí, thù lao công chứng, chi phí khác thu được cho các tổ chức tín
dụng, nhân viên của tổ chức tín dụng trực tiếp đưa khách hàng đến ký kết hợp
đồng, giao dịch (thế chấp, cầm cố…) tại tổ chức hành nghề công chứng; trích lại
phần trăm (%) tiền phí, thù lao công chứng, chi phí khác thu được cho những
người môi giới (ví dụ: môi giới bất động sản) khi những người này đưa khách hàng
đến ký kết hợp đồng, giao dịch (mua bán, chuyển nhượng bất động sản…) tại tổ
chức hành nghề công chứng...Chính vì số tiền phần trăm (%) này mà các tổ chức
tín dụng thường ép khách hàng là người vay vốn phải lựa chọn tổ chức hành nghề
công chứng đã “liên danh, liên kết” với tổ chức tín dụng mà không được lựa chọn
tổ chức hành nghề công chứng nào khác. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ
đến uy tín và sự phát triển lành mạnh của hoạt động công chứng.
Tuy nhiên, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị
định số 67/2015/NĐ-CP) chưa quy định hành vi này là hành vi vi phạm hành chính
nên mặc dù phát hiện trên thực tế cũng không có cơ sở pháp lý để tiến hành xử
phạt. Chính vì thế, tại Kết luận Thanh tra 19 tổ chức hành nghề công chứng tại Hà
20


Nội của Thanh tra Bộ Tư pháp, mặc dù phát hiện VPCC Thăng Long chi tiền hoa
hồng soạn thảo văn bản, photo tài liệu, thu thập tài liệu cho Ngân hàng
Techcombank và Habubank theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu thực hiện và hạch
toán khoản chi này vào chi phí. Nhưng chỉ yêu cầu VPCC Thăng Long phải chấm

dứt ngay các khoản chi trên mà không xử lý vi phạm hành chính.
2. Hành vi chứng thực bản sao nhưng không kiểm tra bản chính, đối chiếu với
bản sao:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày
16/02/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch thì “Người thực hiện
chứng thực chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản sao đúng với bản chính” và
quy định tại khoản 3 Điều 20 Nghị định số 23/2015/NĐ thì người thực hiện chứng
thực bản sao từ bản chính có trách nhiệm phải “kiểm tra bản chính, đối chiếu với
bản sao”. Tuy nhiên, Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung theo
Nghị định số 67/2015/NĐ-CP) không có quy định về xử phạt vi phạm hành chính
đối với hành vi của công chứng viên chứng thực bản sao từ bản chính nhưng không
thực hiện việc kiểm tra bản chính, đối chiếu với bản sao.
3. Hành vi mượn công chứng viên hợp danh để thành lập Văn phòng công
chứng:
Cần quy định chế tài xử lý đối với trường hợp mượn công chứng viên ngoài
tỉnh để được cấp Giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng, sau đó rút
khỏi hợp danh, Văn phòng công chứng vẫn hoạt động đến gần thời điểm 6 tháng
thì tiếp tục mượn công chứng viên để hợp thức, tránh bị thu hồi Giấy đăng ký hoạt
động.
V. VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG QUY ĐỊNH VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG:
Ngày 15/7/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2020/NĐ-CP thay
thế cho Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp;
hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Trong đó, nổi bật là sự thay đổi, bổ sung của một số quy định để khắc phục
những bất cập mà tôi đã nêu trên, cụ thể như:
1. Xử phạt đối với hành vi không đối chiếu chữ ký mẫu:

Tại điểm p Khoản 3 Điều 15 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định về mức
xử phạt đối với Công chứng viên không đối chiếu chữ ký của người có thẩm quyền
giao kết hợp đồng của tổ chức tín dụng, doanh nghiệp khác với chữ ký mẫu đã
được đăng ký tại tổ chức hành nghề công chứng trước khi thực hiện việc công
chứng; công chứng hợp đồng khi người có thẩm quyền giao kết hợp đồng của tổ
chức tín dụng, doanh nghiệp khác chưa đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức hành nghề
công chứng mà đã ký trước vào hợp đồng; thì bị phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến
10.000.000 đồng.
2. Xử phạt đối với hành vi cho “mượn” quyết định bổ nhiệm:
21


Tại điểm d Khoản 2 Điều 11 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định về mức
xử phạt khi cho người khác sử dụng hoặc sử dụng quyết định bổ nhiệm, bổ nhiệm
lại công chứng viên của người khác để thành lập văn phòng công chứng hoặc để bổ
sung thành viên hợp danh của văn phòng công chứng. Trong trường hợp này,
người vi phạm sẽ bị phạt tiền từ 07 – 10 triệu đồng; và bị tước quyền sử dụng thẻ
Công chứng viên từ 03 – 06 tháng...
3. Xử phạt đối với hành vi trả tiền hoa hồng, chiết khấu cho người yêu cầu
công chứng hoặc người môi giới:
Tại điểm m Khoản 4 Điều 16 Nghị định số 82/2020/NĐ-CP quy định về
mức xử phạt đối với hành vi trả tiền hoa hồng, chiết khấu cho người yêu cầu công
chứng, người môi giới với mức phạt tiền từ 20 – 30 triệu đồng.

CHƯƠNG III
KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM
CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
CÔNG CHỨNG
Vấn đề quản lý của Nhà nước đối với hoạt động công chứng đã được Luật
Công chứng 2014 cùng các Nghị định hướng dẫn quy định cụ thể trong các điều

luật về thành lập tổ chức hành nghề công chứng, thủ tục công chứng, phí công
chứng, tiêu chuẩn công chứng viên, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công
chứng... tất cả đều chịu sự quản lý của các cơ quan nhà nước.
Hoạt động quản lý nhà nước về công chứng là sự phối hợp giữa Chính phủ,
Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao; Bộ, cơ quan ngang Bộ và UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương. Để tăng cường công tác quản lý nhà nước về công chứng, Luật
công chứng phân định rõ nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan trong quản lý về tổ
chức và hoạt động công chứng, theo hướng tăng cường vai trò của UBND cấp tỉnh
đối với việc phát triển và quản lý hệ thống tổ chức HNCC ở địa phương, đồng thời
bảo đảm tính thống nhất trong việc quản lý nhà nước về công chứng trên phạm vi
toàn quốc, đảm bảo các tổ chức HNCC hoạt động trong khuôn khổ các quy định
của pháp luật, phát huy được vai trò, tầm quan trọng của công chứng trong đời
sống xã hội.
Từ ngày 01/01/2019, thực hiện Luật Quy hoạch, Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch; theo đó, quy hoạch tổng thể phát
triển tổ chức hành nghề công chứng bị bãi bỏ; do đó việc thành lập Văn phòng
Công chứng không còn bị giới hạn về số lượng văn phòng công chứng theo quy
hoạch như trước đây.
Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công chứng, khắc phục những
hạn chế, vướng mắc trong hoạt động công chứng thời gian qua và thực hiện thống
nhất các quy định của pháp luật về công chứng, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
cần tổ chức tuyên truyền phổ biến sâu rộng các quy định về công chứng (Luật
Công chứng năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành) nhằm nâng cao nhận
thức của các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân có liên quan trên từng địa bàn về
22


vị trí, vai trò của hoạt động công chứng và hệ quả pháp lý của văn bản công chứng;
ý nghĩa của hoạt động công chứng đối với cải cách tư pháp, sự ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội… tuyên truyền sâu rộng về vị trí, vai trò của công chứng

trong toàn xã hội để công chứng trở thành nhu cầu tự nguyện của nhân dân.
Do vậy, để nâng cao trách nhiệm của của cơ quan quản lý Nhà nước đối với
hoạt động công chứng, trong bài báo cáo này tôi có một số đề xuất như sau:
1. Đối với Sở Tư pháp:
- Rà soát lại tổ chức và hoạt động của tất cả các tổ chức hành nghề công
chứng trên địa bàn tỉnh, bảo đảm tổ chức hành nghề công chứng phát triển gắn với
địa bàn dân cư, đáp ứng nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch của người
dân, doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức khác trong xã hội; tham mưu UBND
tỉnh ưu tiên cho phép thành lập các văn phòng công chứng ở những địa bàn miền
núi, chưa có tổ chức hành nghề công chứng.
- Chủ trì phối hợp với các cơ quan, đơn vị địa phương có liên quan tham
mưu UBND tỉnh sửa đổi, bổ sung và ban hành Quy định tiêu chí và quy trình xét
duyệt hồ sơ đề nghị thành lập văn phòng công chứng trên địa bàn tỉnh phù hợp với
Luật số 28/2018/QH14 ngày 15/6/2018 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số
điều của 11 Luật có liên quan đến quy hoạch và tình hình kinh tế - xã hội ở địa
phương.
- Phối hợp với Hội Công chứng viên tỉnh tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công
chứng và triển khai các văn bản pháp luật có liên quan đến hành nghề công chứng
nhằm nâng cao nghiệp vụ kỹ năng hành nghề, quy tắc ứng xử, đạo đức hành nghề
công chứng cho công chứng viên.
- Rà soát văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực công chứng
để kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc ban hành mới; tham mưu, đề xuất
UBND tỉnh chỉ đạo giải quyết khó khăn, vướng mắc trong hoạt động công chứng.
- Quản lý, sử dụng; đồng thời, thuê đơn vị có đủ năng lực thực hiện bảo trì
hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu công chứng, chứng thực, đảm bảo hệ thống được
vận hành đạt hiệu quả cao.
Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra định kỳ, thường xuyên đối với hoạt
động của công chứng viên, các tổ chức hành nghề công chứng, phát hiện, xử lý
nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật của các công chứng viên, các tổ chức
hành nghề công chứng đúng theo quy định của pháp luật.

2. Đối với Sở Tài nguyên và Môi trường:
- Phối hợp với Sở Tư pháp và các Sở, Ban, ngành có liên quan, UBND các
huyện, thị xã, thành phố tổ chức tuyên truyền các quy định của pháp luật có liên
quan đến việc công chứng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất
theo quy định của pháp luật về đất đai.
- Phối hợp với Sở Tư pháp trong công tác tích hợp cơ sở dữ liệu về đất đai
trên địa bàn tỉnh với phần mềm quản lý hồ sơ công chứng nhằm cung cấp dữ liệu
đất đai theo yêu cầu của tổ chức hành nghề công chứng, cá nhân theo đúng quy
định pháp luật, phục vụ cho việc công chứng hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất
động sản;...
23


3. Đối với Sở Tài chính:
- Có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với Sở Tư pháp đảm bảo kinh phí thực
hiện cho công tác quản lý nhà nước về công chứng theo quy định.
4. Đối với Sở Thông tin và Truyền thông:
- Chủ trì, phối hợp Sở Tư pháp thực hiện việc tuyên truyền pháp luật về
công chứng trên Cổng thông tin điện tử tỉnh, trang thông tin điện tử của các Sở,
Ban, ngành tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố.
5. Đối với Cục Thuế tỉnh:
- Chủ trì phối hợp với Sở Tư pháp hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức hành
nghề công chứng trong việc thực hiện chế độ thu, nộp và quản lý phí công chứng,
phí chứng thực; chế độ quản lý sử dụng biên lai, hóa đơn chứng từ, sổ sách kế
toán, báo cáo tài chính theo đúng quy định hiện hành.
6. Đối với Công an tỉnh:
- Phối hợp với Sở Tư pháp trong thực hiện công tác quản lý nhà nước về
phòng chống vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh vực công chứng.
- Tuyên truyền phổ biến pháp luật về công chứng, pháp luật liên quan cho
cán bộ và chiến sỹ trong lực lượng công an nhân dân ở địa phương.

- Phối hợp cung cấp quyết định kê biên tài sản trong giai đoạn điều tra và
quyết định hủy bỏ quyết định trên.
- Kịp thời thông tin bằng văn bản về các trường hợp ngăn chặn giao dịch
liên quan đến tài sản, giả mạo người, giả mạo giấy tờ để giao dịch liên quan đến tài
sản, lừa đảo tài sản đến Sở Tư pháp để cập nhật thông tin vào phần mềm quản lý
hồ sơ công chứng.
7. Đối với Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Chi cục THADS cấp huyện:
- Phối hợp cập nhật các quyết định phong tỏa tài sản, quyết định tạm dừng
việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản và quyết
định thu hồi, chấm dứt, sửa đổi các loại quyết định trên lên phần mềm quản lý hồ
sơ công chứng.
8. Đối với Tòa án nhân dân tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện:
- Phối hợp cung cấp quyết định kê biên tài sản đang tranh chấp, phong tỏa
tài sản của người có nghĩa vụ, cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản
đang tranh chấp và các quyết định thay đổi, bổ sung, hủy bỏ các quyết định trên
đến Sở Tư pháp để cập nhật thông tin vào phần mềm quản lý hồ sơ công chứng.
Đồng thời, cung cấp cho Sở Tư pháp các thông tin từ khi thụ lý đến khi kết thúc vụ
án liên quan đến các tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên trên địa bàn
tỉnh.
9. Đối với Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Viện KSND cấp huyện:
- Phối hợp cung cấp quyết định kê biên tài sản trong giai đoạn truy tố và
quyết định hủy bỏ quyết định trên đến Sở Tư pháp để cập nhật thông tin vào phần
mềm quản lý hồ sơ công chứng.
10. Đối với UBND các huyện, thị xã, thành phố:
24


- Chỉ đạo các phòng, ban, đơn vị chuyên môn, UBND cấp xã cung cấp thông
tin, tài liệu có liên quan đến việc thực hiện công chứng theo đề nghị của các tổ
chức hành nghề công chứng, công chứng viên theo đúng quy định của Luật Công

chứng và các văn bản hướng dẫn thi hành.

KẾT LUẬN
Thực tiễn thi hành Nghị định số 110/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung tại Nghị
định số 67/2015/NĐ-CP) cho thấy tình hình vi phạm pháp luật trong các lĩnh vực
bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, THADS ngày càng gia
tăng cả về tính chất, mức độ phức tạp. Trong khi đó, quy định pháp luật về các lĩnh
vực này chưa rõ ràng, chế tài xử phạt VPHC chưa nghiêm, mức xử phạt VPHC quá
thấp, các chế tài về thu hồi Giấy phép hoạt động, cấm hoạt động, tạm dừng, tạm
đình chỉ hoạt động đối với các đơn vị được thanh tra còn ít, chưa áp dụng được
nhiều.
Do đó việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về công chứng (trong đó có pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng) và tổ chức thực
hiện pháp luật về công chứng (trong đó có xử phạt vi phạm hành chính đối với
những hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động công chứng) là những nội dung
hoạt động quan trọng của quản lý nhà nước về công chứng. Có thể nói, hiệu quả
hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động công chứng phụ thuộc rất lớn vào
hai yếu tố nêu trên.
Qua quá trình tiếp thu ý kiến phản ánh, kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung
hoàn thiện, ngày 15/07/2020 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 82/2020/NĐ-CP
thay thế Nghị định số 110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP, tuy nhiên
Nghị định này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/09/2020.
Việc nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với hoạt động
công chứng là hết sức cần thiết trong bối cảnh hiện nay, đóng vai trò quan trọng
trong việc đảm bảo hoạt động công chứng tuân thủ đúng quy định pháp luật. Tuy
nhiên, các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên cần phải thực hiện
đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 17, Điều 32 và Điều 33 Luật
Công chứng năm 2014 và các quy định pháp luật liên quan. Trưởng các tổ chức
hành nghề công chứng có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn đội ngũ công chứng
viên, nhân viên của tổ chức mình nâng cao tinh thần trách nhiệm, tuân thủ các quy

định pháp luật, quy tắc đạo đức hành nghề trong hoạt động công chứng; thường
xuyên tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động nội bộ tổ chức hành nghề
công chứng. Thực hiện đầy đủ chế độ thông tin báo cáo, các văn bản chỉ đạo,
hướng dẫn về tổ chức và hoạt động công chứng của Sở Tư pháp, các Sở, Ban,
ngành có liên quan.

25


×