Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.31 KB, 67 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 37 (2011-2015)
ĐỀ TÀI

XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC CÔNG CHỨNG

Giảng viên hướng dẫn:
NGUYỄN LAN HƢƠNG

Sinh viên thực hiện:
VÕ THỊ DIỄM MY
MSSV: 5117324
Lớp: HG1163A1
Cần Thơ, 11/2014


MỤC LỤC
♦♦♦
Trang
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................................. 3
5. Kết cấu luận văn ................................................................................................ 3
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CÔNG CHỨNG


1.1. Sơ lƣợc lịch sử phát triển của hoạt động công chứng ở nƣớc ta ................ 4
1.2. Khái niệm và đặc điểm của công chứng ....................................................... 6
1.2.1. Khái niệm công chứng ................................................................................. 6
1.2.2.Đặc điểm của công chứng ............................................................................. 7
1.2.3. Phân biệt công chứng và chứng thực ......................................................... 8
1.3. Khái quát về tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên ............ 9
1.3.1. Tổ chức hành nghề công chứng ................................................................. 9
1.3.2. Công chứng viên ..........................................................................................15
1.3.3. Quản lý nhà nước về công chứng ..............................................................17
1.4. Khái niệm , đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực công
chứng......................................................................................................................20
1.4.1. Vi phạm hành chính ...................................................................................20
1.4.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính .................................................................20
1.4.1.2 Đặc điểm vi phạm hành chính ...................................................................20
1.4.2. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng.......................................23
1.4.2.1 Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng ......................23
2


1.4.2.2 Đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng .................23
1.4.2.3 Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng .....................24
1.5. Khái niệm, mục đích, vai trò của việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực công chứng .....................................................................................................28
1.6. Sơ lƣợc quá trình phát triển của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực công chứng ..................................................................................29
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CÔNG CHỨNG
2.1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng......31
2.2. Thời hạn, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng

................................................................................................................................33
2.3 Hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng .......34
2.4 Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng ...39
2.5. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng ...........43
2.5.1. Buộc chấm dứt hành vi vi phạm hành chính ............................................44
2.5.2. Xử phạt vi phạm hành chính có lập biên bản, hồ sơ xử phạt vi phạm hành
chính .......................................................................................................................44
2.5.3 Lập biên bản về vi phạm hành chính .........................................................44
2.5.4. Chuyển hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình
sự ............................................................................................................................45
2.5.5 Chuyển hồ sơ vụ vi phạm để xử phạt vi phạm hành chính .......................46
2.5.6 Quyết định xử phạt ......................................................................................46
CHƢƠNG 3
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CÔNG CHỨNG
3.1. Một số điểm bất cập trong thực tiễn của hoạt động công chứng hiện nay
và Luật Công chứng hiện hành ...........................................................................48

3


3.2. Thực trạng áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
công chứng.............................................................................................................58
3.2.1. Tình hình hoạt động công chứng hiện nay và những hành vi vi phạm hành
chính .......................................................................................................................58
3.2.2 Thực tiển áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công
chứng......................................................................................................................61
3.3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực công chứng ......................................................................................................62
KẾT LUẬN ...........................................................................................................63

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

4


LỜI NÓI ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nƣớc ta hiện nay, xã hội hóa hoạt động tƣ pháp đã và đang là
mối quan tâm hàng đầu trong công cuộc cải cách tƣ pháp của Đảng, Nhà nƣớc và toàn
dân. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đảng đã chủ trƣơng khuyến khích các tổ chức và
cá nhân có đủ điều kiện tham gia vào việc cung ứng dịch vụ công cho xã hội. Nghị
quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách bảo đảm
cung ứng dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân”... “Đổi mới cơ
chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng”, “... phát huy tiềm năng,
trí tuệ và các nguồn lực vật chất trong nhân dân, của toàn xã hội để cùng Nhà nước
giải quyết các vấn đề xã hội và chăm lo phát triển các dịch vụ công cộng”. Bộ Chính
trị xác định :“Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà
nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; có bước đi phù hợp để từng bước xã
hội hóa công việc này”.1 Trên cơ sở các kết quả đã đạt đƣợc trong việc thực hiện xã
hội hoá một số lĩnh vực nhƣ giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, Nhà nƣớc tiếp tục cho
phép xã hội hoá hoạt động công chứng. Quốc hội đã thông qua Luật Công chứng vào
ngày 29/11/2006, gồm 8 chƣơng, 67 điều quy định về công chứng, chính thức xác lập
cơ sở pháp lý quan trọng nhằm thực hiện xã hội hoá hoạt động công chứng, tạo điều
kiện để công dân và tổ chức đƣợc thụ hƣởng tốt nhất loại hình dịch vụ công quan trọng
này.
Sau nhiều năm áp dụng, Luật Công chứng thực sự đã đi vào đời sống xã hội.
Hiện nay, ngoài Phòng Công chứng (tiền thân là Phòng Công chứng nhà nƣớc) còn có
loại hình Văn phòng Công chứng đang phát triển rất mạnh mẽ ở nhiều tỉnh thành đáp

ứng nhu cầu cung ứng dịch vụ công cho ngƣời dân, giúp giảm thiểu sự quá tải của các
Phòng Công chứng, góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo an toàn pháp lý trong các
quan hệ tƣ pháp nhƣ dân sự, kinh tế, thƣơng mại và các quan hệ xã hội khác, thúc đẩy
phát triển xã hội, phòng ngừa hành vi vi phạm pháp luật và tăng cƣờng pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt đƣợc sau khi có hiệu lực, Luật
Công chứng cũng đã bộc lộ một số bất cập. Trong đó đáng kể là sự non kém về nghiệp
vụ và kinh nghiệm của không ít Công chứng viên dẫn đến tình trạng cẩu thả, ký xác
thực mà không đọc kỹ văn bản, không thẩm định, xác minh tài sản, nhân thân của
ngƣời ký hợp đồng giao dịch. Kết quả là có nhiều văn bản công chứng bị cơ quan chức
1

Nghị quyết số 49/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 02-6-2005 về Chiến lƣợc Cải cách tƣ pháp đến năm 2020.

5


năng trả lại, không chấp thuận hoặc gây ra tranh chấp trong giao dịch hợp đồng. Hệ
thống các tổ chức hành nghề công chứng thiếu sự liên kết thông qua mạng nội bộ để
chia sẻ thông tin, không có cơ sở dữ liệu chung để kiểm soát thực trạng các hợp đồng...
Do vậy, đã có trƣờng hợp một căn nhà đem bán cho hai ngƣời, mang đi công chứng
hợp đồng tại hai tổ chức hành nghề công chứng khác nhau; một tài sản đem thế chấp,
bảo lãnh ở nhiều ngƣời, nhiều nơi; ngƣời đã chết nhƣng vẫn “giao dịch”, công chứng
cho ngƣời có tài sản đã bị cƣỡng chế, kê biên, bán đấu giá thành, ký kết hợp đồng bán
đấu giá thành trƣớc khi tổ chức bán đấu giá tài sản, công chứng hợp đồng có mục đích,
nội dung vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội, công chứng hợp đồng chuyển nhƣợng
dựa trên hợp đồng uỷ quyền giả, công chứng hợp đồng giao dịch không đúng ngƣời
yêu cầu công chứng (do công chứng viên chấp nhận giấy chứng minh nhân dân photo,
do nhầm ngƣời, do chứng minh nhân dân giả...), công chứng hợp đồng cho ngƣời
không đủ năng lực hành vi dân sự... gây hậu quả pháp lý rất nghiêm trọng.

Từ lẽ đó, để giải quyết tốt các vấn đề phát sinh từ hoạt động công chứng hiện nay
và định hƣớng hoàn thiện pháp luật về công chứng thì việc nghiên cứu, tìm hiểu rõ
những quy định của pháp luật về hoạt động công chứng và vận dụng nó vào giải quyết
vấn đề điều chỉnh hành vi ứng xử của cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động công
chứng thông qua xử phạt vi phạm hành chính nhƣ thế nào là rất cần thiết. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài “Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng” mang
tính cấp thiết trong bối cảnh hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Những quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
công chứng đã đƣợc xây dựng và đƣa vào thực tiễn nhƣng vẫn còn một số vƣớng mắc
bất cập trong quá trình áp dụng. Nhiều văn bản nói chung và trong Luật Công chứng
nói riêng quy định điều kiện bổ nhiệm Công chứng viên quy định một số đối tƣợng
đƣợc miễn đào tạo và tập sự hành nghề công chứng vẫn đƣợc cấp phép hành nghề
công chứng khá mở, thực sự là còn quá lỏng lẻo dẫn đến sự thiếu kinh nghiệm của các
Công chứng viên, tìm ẩn nhiều rủi ro khi thực hiện công chứng hợp đồng, giao dịch.
Bên cạnh đó, một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng phát triển quá nóng số
lƣợng Văn phòng công chứng nên đã xảy ra tình trạng một số Văn phòng công chứng
đã có những hình thức cạnh tranh, thu hút khách hàng không phù hợp với nghề nghiệp,
làm giảm đi lòng tin của ngƣời dân đối với mô hình Văn phòng công chứng, làm xấu
đi hình ảnh của Công chứng viên trong xã hội. Vậy làm thế nào để giải quyết một cách
hiệu quả các vấn đề này và hoàn thiện hoạt động công chứng trong giai đoạn hiện nay
và tƣơng lai? Đấy là vấn đề cần đề cập và đang gặp nhiều khó khăn nan giải. Chính vì
lẽ đó ngƣời nghiên cứu nhận thấy rằng cần phải đi sâu vào nghiên cứu pháp luật về
6


công chứng ở Việt Nam, làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực công chứng, tìm ra những ƣu nhƣợc điểm trong việc điều
chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức tham gia vào hoạt động công chứng. Trên cơ sở đó,
vạch ra những hƣớng đi cụ thể, đề xuất những giải pháp cho vấn đề xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực công chứng ngày càng có hiệu quả hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do yêu cầu của một đề tài Luận văn tốt nghiệp và trong khuôn khổ thời gian
cho phép nên ngƣời viết chỉ tập trung vào nghiên cứu, làm rỏ những quy định hiện
hành của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng ở Việt
Nam, thực trạng áp dụng những quy định đó vào thực tế đời sống xã hội và từ đó rút ra
những nhận định, tìm ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực công
chứng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, ngƣời nghiên cứu chủ yếu vận dụng các phƣơng pháp sau:
- Vận dụng phƣơng pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lê Nin.
- Dùng phƣơng pháp lịch sử để đánh giá vần đề. Sử dụng phƣơng pháp phân tích
luật viết, phƣơng pháp tổng hợp, so sánh kết hợp lý luận với thực tiễn...
- Bên cạnh đi sâu vào tìm hiểu thực trạng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực công chứng hiện nay thông qua việc thu thập tài liệu, thông tin đã đƣợc nghiên
cứu sẵn và tìm hiểu tình hình thực tế để nhìn nhận đúng đắn vấn đề.
Cùng một số phƣơng pháp nghiên cứu khác mà ngƣời viết đã vận dụng để hoàn thành
bài luận văn này.
5. Kết cấu luận văn
Nội dung luận văn tốt nghiệp ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận và danh mục tài
liệu tham khảo thì nội dung của đề tài đƣợc trình bày trong ba chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về công chứng và xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực công chứng
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực công chứng
Chƣơng 3: Thực trạng áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực công chứng

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG CHỨNG VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM

HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC CÔNG CHỨNG
7


1.1. Sơ lƣợc lịch sử phát triển của hoạt động công chứng ở nƣớc ta
Ở Việt Nam, sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 15/11/1945 Nhà
nƣớc ta đã ban hành Sắc lệnh số 59/SL quy định về “Thể lệ thị thực các giấy tờ”.Tiếp
đó, ngày 29/02/1952 Sắc lệnh số 85/SL đƣợc ban hành quy định về “Thể lệ trƣớc bạ về
việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất”. Theo hai Sắc lệnh này, việc chứng nhận
một số giấy tờ giao cho Uỷ ban kháng chiến hành chính (nay là Uỷ ban Nhân dân) các
cấp thực hiện.
Sau nhiều năm không tổ chức hoạt động công chứng, ngày 10/10/1987 Bộ Tƣ
Pháp đã ra Thông tƣ số 574/QLTPK về công chứng nhà nƣớc, nhằm đáp ứng nhu cầu
của công cuộc đổi mới toàn diện của đất nƣớc. Theo đó, Phòng Công chứng nhà nƣớc
tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đƣợc thành lập.
Ngày 27/02/1991, Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính Phủ) đã ban hành Nghị
định 45/HĐBT về tổ chức hoạt động công chứng nhà nƣớc. Đây là văn bản đầu tiên
quy định toàn diện về tổ chức và hoạt động công chứng trong bối cảnh một số quy
định liên quan đến công chứng trong các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý
cao hơn đã đƣợc ban hành nhƣ Pháp lệnh thừa kế 1990, Pháp lệnh nhà ở 1991 và Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế 1991. Nghị định này định nghĩa “Công chứng nhà nƣớc là việc
chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nƣớc, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội ,góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cƣờng pháp chế xã hội
chủ nghĩa”. Ngoài ra, Nghị định này cũng quy định “Công chứng viên chứng nhận bản
sao giấy tờ, tài liệu từ bản chính. Các huyện, thị xã nơi chƣa có phòng công chứng Nhà
nƣớc, UBND huyện, thị xã đƣợc quyền thực hiện các việc công chứng, cụ thể là:
Chứng nhận hợp đồng dân sự; chứng nhận giấy ủy quyền; chứng nhận di chúc;chứng
nhận bản sao giấy tờ, tài liệu tiếng Việt”.
Tuy nhiên, do tình hình phát triển kinh tế, xã hội của nƣớc ta thay đổi nhiều sau

5 năm thực hiện Nghị định trên nên những quy định của pháp luật nói chung và pháp
luật về công chứng nói riêng cần đƣơc hoàn thiện hơn cho phù hợp với thực tiễn. Vì lý
do đó, ngày 18/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 31/CP về tổ chứng hoạt động
công chứng thay thế cho Nghị định 45/HĐBT ngày 27/02/1991. Nghị định 31/CP cụ
thể hóa một phần các quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS), đổi mới một bƣớc và tạo
cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục phát triển hoạt động công chứng ở nƣớc ta.
Sau khi có hiệu lực nhiều quy định của Nghị định 31/CP đã có nhiều bất cập,
không còn phù hợp với thực tế. Vì lẽ đó, ngày 08/12/2000 Nghị định số 75/2000/NĐCP về công chứng chứng thực đƣợc Chính phủ ban hành thay thế cho Nghị định
31/CP. Theo quy định của Nghị định này thì có sự tách bạch giữa hoạt động công
8


chứng và chứng thực, tức là đã có sự phân biệt giữa hoạt động của cơ quan chuyên
trách thực hiện hoạt động công chứng là phòng công chứng và cơ quan kiêm nhiệm
thực hiện hoạt động chứng thực là UBND cấp huyện, cấp xã. Cụ thể là theo Điều 2 của
Nghị định “Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp
đồng đƣợc giao kết hoặc giao dịch đƣợc xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thƣơng
mại và quan hệ xã hội khác theo quy định của Nghị định; Còn chứng thực là việc
UBND cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá
nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ”. Mặc dù vậy,
nhƣng sự phân biệt công chứng và chứng thực chỉ ở khía cạnh cơ bản là chủ thể thực
hiện hoạt động công chứng hoặc chứng thực, có nghĩa là cùng một việc, nếu do Phòng
công chứng thực hiện thì đƣợc gọi là hoạt động công chứng, nếu do UBND cấp huyện,
cấp xã thực hiện thì đƣợc gọi là chứng thực.
Tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội thứ XI, ngày 29 tháng 11 năm 2006 Quốc hội đã
thông qua Luật công chứng (có hiệu lực ngày 01/7/2007). Luật Công chứng đã có sự
phân định rõ ràng giữa công chứng và chứng thực ở Điều 2 và theo đó các Phòng công
chứng chỉ tập trung chứng nhận các hợp đồng, giao dịch dân sự mà không thực hiện
các việc chứng thực nhƣ sao y, chứng nhận chữ ký... Theo quy định của Nghị định
79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực

bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký (sau đây gọi tắt là Nghị định 79/2007/NĐCP) thì các việc trên đƣợc chuyển giao về cho Phòng tƣ pháp cấp huyện và UBND cấp
xã.
Tƣơng lai gần Luật Công chứng 2014 đƣợc Quốc hội thông qua và sẽ có hiệu lực
vào ngày 1/1/2015 hứa hẹn sẽ đem lại nhiều thay đổi cho lĩnh vực công chứng trong
thời kỳ hội nhập với nhiều bổ sung và sửa đổi những bất cập của Luật Công chứng
2006 và đƣa ra nhiều quy định mang tính ổn định hơn trong lĩnh vực công chứng.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của công chứng
1.2.1. Khái niệm công chứng
Hiện tại có nhiều quan điểm về khái niệm công chứng cho rằng công chứng là
lấy công quyền mà làm chứng, sự chứng nhận của Nhà nƣớc ở đây mang tính quyền
lực công. Tuy nhiên, quan điểm khác cho rằng bản thân thuật ngữ công chứng đã
mang ý nghĩa là sự làm chứng công khai, có dấu ấn của công quyền, công chứng viên
là ngƣời đƣợc Nhà nƣớc bổ nhiệm thực hiện một công vụ. Bên cạnh đó công chứng
đƣợc hiểu là một hoạt động hành chính công, lấy lẽ công ra để làm chứng, là sự nhận
thức, xác nhận và xác thực một sự kiện, một hiện tƣợng đúng là nhƣ thế. Có thể thấy
khái niệm công chứng thay đổi theo tình hình xã hội của nƣớc ta và cho đến nay đã có

9


5 khái niệm đƣợc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật phục vụ cho việc
quản lý nhà nƣớc về công chứng.
Thông tƣ số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn công tác
công chứng nhà nƣớc quy định: “Công chứng nhà nước là một hoạt động của nhà
nước nhằm giúp công dân, các cơ quan tổ chức lập và xác nhận các văn bản sự kiện
có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự
kiện đó có hiệu lực thực hiện. Bằng hoạt động trên, công chứng nhà nước tạo ra
những đảm bảo pháp lý để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ
quan, tổ chức phù hợp với Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết tranh chấp

được thuận lợi, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Nghị định 45/HĐBT ngày 27/2/1991 về tổ chức và hoạt động công chứng nhà
nƣớc quy định : “ Công chứng là việc chứng nhận xác thực các hợp đồng và giấy tờ
theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, và
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi tắt là các tổ chức), góp
phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp
đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”.
Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về hoạt động công chứng nhà
nƣớc quy định: “ Công chứng là việc chứng nhận xác thực của các hợp đồng và giấy
tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm
pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được
công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân (UBND) cấp có thẩm quyền
chứng nhận có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô
hiệu”.
Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 của Chính phủ về công chứng,
chứng thực, tại điều 2 quy định“ Công chứng là việc Phòng công chứng chứng nhận
tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong
quan hệ dân sự, thương mại và quan hệ xã hội khác và thực hiện các việc khác theo
quy định của pháp luật”. Điểm chú ý của nghị định này là đã phân định rõ ràng công
chứng và chứng thực, điều mà các Nghị định trƣớc đây chƣa làm rõ, bản chất của công
chứng là : “chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng”, còn chứng thực là việc “xác
nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký cá nhân”. Nhƣ vậy theo định nghĩa
trên công chứng là hoạt động xác lập giá trị pháp lý cho văn bản, hợp đồng; còn chứng
thực chỉ là sao lại các văn bản, hợp đồng mà thôi.

10


Luật Công chứng 2006 quy định: “công chứng là việc công chứng viên chứng

nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp
đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc
cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”.
Từ các khái niệm trên thấy đƣợc công chứng là hành vi của công chứng viên với
mục đích giúp công dân, cơ quan, tổ chức soạn thảo và xác nhận tính xác thực của các
giao dịch nhằm đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch, phòng
ngừa tranh chấp và vi phạm pháp luật, mặt khác cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp
xảy ra.
1.2.2.Đặc điểm của công chứng
Công chứng là hành vi do Công chứng viên thực hiện. Điều này phân biệt với
chứng thực là hành vi do ngƣời đại diện của cơ quan hành chính công quyền thực hiện.
Nội dung cơ bản của công chứng là chứng nhận các hợp đồng và lập các hợp
đồng, giao dịch theo yêu cầu của công dân, tổ chức và chứng nhận các hợp đồng giao
dịch theo quy định của pháp luật.
Văn bản công chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thực hiện. Văn bản công
chứng đƣợc công chứng viên lập theo trình tự, thể thức bắt buộc, ghi lại thời gian,
không gian, nguyện vọng cũng nhƣ năng lực chủ thể của các bên khi tham gia giao kết
hợp đồng, giao dịch. Hoạt động công chứng tạo ra một văn bản có giá trị chứng cứ
mang tính xác thực và tính thực hiện với các bên giao kết. Tính xác thực của các tình
tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch khác vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo cho
chúng có giá trị chứng cứ. Pháp luật quy định văn bản công chứng có giá trị chứng cứ
vì tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã đƣợc công chứng viên
xác nhận. Tính xác thực này đƣợc công chứng viên kiểm chứng và xác nhận ngay khi
nó xảy ra trên thực tế. Việc xác nhận của công chứng viên sẽ tránh đƣợc những tranh
chấp xảy ra sau đó mà Tòa án không thể xác minh đƣợc. Văn bản công chứng tạo lập
giá trị thực hiện giữa các bên tham gia hợp đồng, giao dịch bằng việc ràng buộc quyền
và nghĩa vụ của các bên, là căn cứ pháp lý buộc các bên phải thực hiện đúng các cam
kết đã xác lập, đồng thời có giá trị pháp lý với cả bên thứ ba.
Đây là đặc điểm quan trọng của hoạt động công chứng để phân biệt với các hoạt động
của các cơ quan hành chính khác của cơ quan công quyền.

Nhà nƣớc thực hiện việc quản lý đối với tổ chức và hoạt động công chứng. Ở
Việt Nam công chứng đƣợc giao cho công chứng viên, thuộc Phòng công chứng hoạt
động theo biên chế hoặc thuộc Văn phòng công chứng theo Luật Doanh nghiệp hoặc
cơ quan đại diện nƣớc ngoài thực hiện. Công chứng viên có sự độc lập trong tác
nghiệp chuyên môn, công chứng viên không chịu trách nhiệm trƣớc các cơ quan cấp
11


trên hay trƣớc trƣởng phòng, trƣởng văn phòng mà tự chịu trách nhiệm trƣớc pháp
luật. Vì vậy, trong tác nghiệp chuyên môn công chứng viên không bị lệ thuộc vào cấp
trên.
Công chứng là một biện pháp đảm bảo an toàn pháp lý cho các giao dịch, hợp
đồng. Tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đƣợc công chứng viên xác nhận.
Hoạt động công chứng vừa mang tính công quyền vừa mang tính chất dịch vụ
công. Tính công quyền thể hiện ở chỗ công chứng viên của Phòng công chứng hay của
các Văn phòng công chứng đều do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ nhiệm để thực hiện
nhiệm vụ công chứng các hợp đồng giao dịch giữa các tổ chức, công dân theo quy
định của pháp luật. Khi tác nghiệp, công chứng viên nhân danh nhà nƣớc thực thi công
việc. Hoạt động công chứng cong mang tính chất dịch vụ công tức là thực hiện một
loại dịch vụ của nhà nƣớc nhƣng đƣợc Nhà nƣớc giao cho tổ chức hành nghề công
chứng đảm nhiệm, đó là các hợp đồng, giao dịch mà các tổ chức cá nhân yêu cầu. Một
trong những nguyên tắc cơ bản của dịch vụ công là phải đảm bảo đƣợc tính liên tục,
không bị gián đoạn. Các tổ chức hành nghề công chứng đƣợc Nhà nƣớc chuyển giao
một phần quyền của nhà nƣớc để thực hiện chức năng của Nhà nƣớc trong một lĩnh
vực cụ thể là công chứng các hợp đồng giao dịch. Đồng thời, Nhà nƣớc cũng chuyển
giao cho tổ chức hành nghề công chứng một trách nhiệm và nghĩa vụ lớn là phải thực
hiện công chứng một cách đúng pháp luật và đảm bảo lợi ích của Nhà nƣớc, của công
dân, tổ chức.
1.2.3. Phân biệt công chứng và chứng thực
Pháp luật hiện hành quy định công chứng, chứng thực là hai hoạt động khác

nhau và có thể phân biệt ở nhiều điểm, nhƣng chủ yếu phân biệt ở ba điểm nhƣ sau:
+ Về khái niệm:
 “Công chứng” là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp
của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công
chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. 2
 "Chứng thực bản sao từ bản chính" là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
theo quy định tại Điều 5 của Nghị định 79/2007/NĐ-CP căn cứ vào bản chính để
chứng thực bản sao là đúng với bản chính.3
+ Về thẩm quyền: về thẩm quyền, công chứng do cơ quan bổ trợ Tƣ pháp thực
hiện (phòng công chứng, văn phòng công chứng); chứng thực do cơ quan hành chính
Nhà nƣớc, cụ thể là UBND cấp xã, huyện thực hiện.

2
3

Điều 2 Luật Công chứng 2006.
Khoản 5 Điều 2 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP.

12


+

Chứng thực là chứng nhận sự việc, không đề cập đến nội dung; trong khi công

chứng bảo đảm nội dung của một hợp đồng, một giao dịch, công chứng viên chịu trách
nhiệm về tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch đó và qua việc bảo đảm tính hợp pháp
để giảm thiểu rủi ro. Hoạt động công chứng mang tính pháp lý cao hơn.
 Giá trị pháp lý của văn bản đƣợc công chứng: Có hiệu lực thi hành đối với các
bên liên quan; trong trƣờng hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình

thì bên kia có quyền yêu cầu Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trƣờng
hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thoả thuận khác. Có giá trị chứng cứ;
những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ trƣờng
hợp bị Toà án tuyên bố là vô hiệu.
 Giá trị pháp lý của văn bản đƣợc chứng thực: “Bản sao đƣợc cấp từ sổ gốc, bản
sao đƣợc chứng thực từ bản chính có giá trị pháp lý sử dụng thay cho bản chính trong
các giao dịch. Chữ ký đƣợc chứng thực có giá trị chứng minh ngƣời yêu cầu chứng
thực đã ký chữ ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của ngƣời ký về nội dung của
giấy tờ, văn bản”.4
1.3. Khái quát về tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên
1.3.1. Tổ chức hành nghề công chứng
Mô hình Văn phòng công chứng đã xuất hiện rất lâu trên thế giới còn ở Việt
Nam mô hình này chỉ mới đƣợc hình thành sau khi Luật Công chứng 2006 có hiệu lực
pháp luật. Văn phòng công chứng tồn tại song song bên cạnh Phòng Công chứng theo
quy định tại Chƣơng III của Luật công chứng 2006 về cách thức tổ chức, trình tự, thủ
tục thành lập, quyền, nghĩa vụ của hai mô hình tổ chức hành nghề công chứng này.
Những quy định về tổ chức hành nghề công chứng thể hiện rất rõ nét tinh thần đổi mới
hình thức tổ chức công chứng theo hƣớng xã hội hoá và dịch vụ hoá.
* Phòng Công chứng:
Do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập, đƣợc quy định là đơn vị sự
nghiệp thuộc Sở Tƣ pháp. Trƣởng Phòng công chứng phải là công chứng viên và do
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Tên gọi của
Phòng công chứng theo số thứ tự thành lập và tên của tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ƣơng nơi Phòng công chứng đƣợc thành lập.5
Việc thành lập Phòng công chứng do Sở Tƣ pháp xây dựng Đề án trên cơ sở xét
thấy nhu cầu công chứng của địa phƣơng. Đề án thành lập quy định cần nêu rõ các vấn
đề nhƣ sự cần thiết thành lập Phòng công chứng, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự,
địa điểm đặt trụ sở, các điều kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện. Sau khi
4


Điều 3 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP.

5

Điều 24 Luật công chứng 2006.

13


xây dựng đầy đủ Đề án, Sở Tƣ pháp trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết
định. Khi có quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thành lập Phòng công chứng thì
trong thời hạn ba mƣơi ngày, kể từ ngày có quyết định thành lập Phòng công chứng,
Sở Tƣ pháp phải đăng báo trung ƣơng hoặc báo địa phƣơng nơi quyết định thành lập
Phòng công chứng đó. Nội dung đăng báo cần phải có đầy đủ các quy định nhƣ: tên
gọi, địa chỉ trụ sở của phòng; số ngày, tháng, năm quyết định thành lập và ngày bắt
đầu hoạt động của Phòng công chứng. Trƣờng hợp Uỷ ban nhân dân tỉnh thay đổi tên
gọi hoặc trụ sở của Phòng công chứng thì Sở Tƣ pháp có nhiệm vụ phải đăng báo
những nội dung thay đổi đó để cá nhân, tổ chức đƣợc biết (Điều 25 Luật công chứng).
Giải thể Phòng công chứng theo Điều 26 Luật công chứng đƣợc quy định nhƣ
sau:
 Trong trƣờng hợp không cần thiết duy trì Trong trƣờng hợp không cần thiết duy
trì Phòng công chứng thì Sở Tƣ pháp lập đề án giải thể Phòng công chứng, báo cáo Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Phòng công chứng chỉ đƣợc giải thể sau khi thanh toán xong các khoản nợ, làm xong
thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với ngƣời lao động, thực hiện xong các yêu
cầu công chứng đã tiếp nhận.
 Trong thời hạn mƣời lăm ngày, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết
định giải thể Phòng công chứng, Sở Tƣ pháp phải đăng báo trung ƣơng hoặc báo địa
phƣơng trong hai số liên tiếp về việc giải thể Phòng công chứng.
* Văn phòng Công chứng: do tính chất mô hình này phức tạp nên quy định của

pháp luật quy định chặt chẽ hơn:
Theo quy định thì Văn Phòng công chứng do công chứng viên thành lập. Trong
đó, Văn phòng công chứng do một công chứng viên thành lập đƣợc tổ chức và hoạt
động theo loại hình doanh nghiệp tƣ nhân; Văn phòng công chứng do hai công chứng
viên trở lên thành lập đƣợc tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh. Văn
phòng công chứng có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo nguyên tắc tự
chủ về tài chính bằng nguồn thu từ kinh phí đóng góp của công chứng viên, phí công
chứng, thù lao công chứng và các nguồn thu hợp pháp khác.6 Đây là quan điểm hoàn
toàn mới là một trong những quan điểm tiến bộ nhất từ trƣớc đến nay đối với các văn
bản pháp luật quy định về công chứng và cũng là một bƣớc bứt phá ra khỏi sự ràng
buộc và quan niệm công chứng phải là cơ quan công quyền của Nhà nƣớc, do Nhà
nƣớc quản lý, thành lập, quyết định và cho chỉ tiêu biên chế. Văn phòng công chứng
đƣợc quy định trong Luật công chứng thể hiện một bƣớc xã hội hoá hoạt động công
chứng ngay tại thời điểm khi Luật công chứng có hiệu lực thi hành.
6

Điều 26 Luật công chứng 2006.

14


Về tên gọi của Văn phòng công chứng: Theo quy định thì “tên gọi của Văn
phòng công chứng do công chứng viên lựa chọn”. Tuy nhiên “không đƣợc trùng hoặc
gây nhầm lẫn với tên của tổ chức hành nghề công chứng khác, không đƣợc sử dụng từ
ngữ, ký hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức và thuần phong mỹ tục
của dân tộc” (khoản 3 Điều 2).
Mô hình Văn phòng công chứng là một hình thức mới của tổ chức hành nghề
công chứng. Về lâu dài hình thức Văn phòng công chứng sẽ là hình thức phổ biến của
tổ chức hành nghề công chứng ở nƣớc ta. Mô hình Phòng công chứng nhà nƣớc trƣớc
mắt là cần thiết, đặc biệt là ở các địa phƣơng miền núi, vùng sâu, vùng xa nhƣng trong

tƣơng lai khi nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta phát triển mạnh thì mô hình này sẽ thu
hẹp dần. Đây cũng là kinh nghiệm chuyển đổi từ hệ thống công chứng nhà nƣớc sang
công chứng “phi nhà nƣớc hoá” của các nƣớc xã hội chủ nghĩa cũ nhƣ Trung Quốc,
Nga, Ba Lan, v.v. Đây cũng là vấn đề rất đƣợc quan tâm đối với những ngƣời có đủ
tiêu chuẩn, điều kiện muốn thành lập Văn phòng công chứng khi Luật công chứng có
hiệu lực.
Hoạt động công chứng là một hoạt động có liên quan đến quyền lực nhà nƣớc.
“Công chứng là lấy quyền công ra mà làm chứng”. Tuy nhiên việc nhân danh quyền
công ở đây không nhất thiết phải là công chức nhà nƣớc mới có quyền đó. Tùy theo
tình hình mà Nhà nƣớc có thể giao quyền đó cho một tổ chức, một cá nhân không phải
của nhà nƣớc thực hiện. Thực tế ở nƣớc ta đã có những tiền lệ nhƣ: Hội thẩm nhân dân
không nhất thiết là công chức nhà nƣớc nhƣng vẫn cùng với thẩm phán xét xử. Ở một
số nƣớc trên thế giới thậm chí còn có cả lực lƣợng cảnh sát do tƣ nhân thành lập v.v.
Điều đó chứng tỏ vấn đề xã hội hóa một số lĩnh vực quản lý nhà nƣớc không chỉ đặt ra
ở nƣớc ta mà cả ở nhiều nƣớc khác trên thế giới. Tuy nhiên xã hội hóa công chứng
không nên hiểu là chuyển công chứng nhà nƣớc thành công chứng tƣ nhân. Hình thức
Văn phòng công chứng quy định trong Luật không phải là Văn phòng công chứng tƣ
nhân. Đã là công chứng thì đều là nhân danh nhà nƣớc. Cũng không nên quan niệm
Văn phòng công chứng đƣợc tổ chức theo mô hình doanh nghiệp có nghĩa là chuyển
hoạt động công chứng theo hƣớng kinh doanh chạy theo lợi nhuận. Việc thu phí, thù
lao, v.v. của công chứng viên sẽ đƣợc nhà nƣớc quy định chứ không phải là theo thoả
thuận giữa công chứng viên với ngƣời yêu cầu công chứng. Việc thành lập các Văn
phòng công chứng cũng không thể theo kiểu tự do thành lập doanh nghiệp mà phải
theo quy hoạch của cơ quan có thẩm quyền của địa phƣơng. Trƣớc mắt, các Văn
phòng công chứng sẽ đƣợc khuyến khích thành lập ở những nơi có điều kiện hành
nghề công chứng nhƣ: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng ...

15



Đối với việc thành lập và đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng đƣợc
quy định tại Điều 27 Luật công chứng. Công chứng viên muốn thành lập Văn phòng
công chứng phải có hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng gửi Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh.
Thủ tục hồ sơ gồm có:
- Đơn đề nghị thành lập Văn phòng công chứng;
- Đề án thành lập Văn phòng công chứng cần nêu rõ sự cần thiết thành lập Văn
phòng công chứng, dự kiến về tổ chức, tên gọi, nhân sự, địa điểm đặt trụ sở, các điều
kiện vật chất và kế hoạch triển khai thực hiện
- Bản sao quyết định bổ nhiệm công chứng viên.Trong thời hạn hai mƣơi ngày,
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ đề nghị thành lập Văn phòng công chứng, Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh xem xét, quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng. Trƣờng hợp
từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Ngƣời bị từ chối có quyền khiếu
nại theo quy định của pháp luật.
- Trong thời hạn chín mƣơi ngày, kể từ ngày nhận đƣợc quyết định cho phép
thành lập, Văn phòng công chứng phải đăng ký hoạt động tại Sở Tƣ pháp của địa
phƣơng cho phép thành lập. Khi đăng ký hoạt động phải có đơn đăng ký hoạt động,
giấy tờ chứng minh về trụ sở ở địa phƣơng nơi quyết định cho phép thành lập.
- Trong thời hạn mƣời ngày làm việc, kể từ ngày nhận đƣợc các giấy tờ đăng ký
hoạt động, Sở Tƣ pháp cấp giấy đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng; trƣờng
hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Ngƣời bị từ chối có quyền
khiếu nại theo quy định của pháp luật. Văn phòng công chứng đƣợc hoạt động kể từ
ngày Sở Tƣ pháp cấp giấy đăng ký hoạt động.
- Đối với trƣờng hợp đã cấp giấy đăng ký hoạt động nhƣng chƣa hoặc không hoạt
động thì Luật công chứng quy định nhƣ sau: “Trong thời hạn sáu tháng, kể từ ngày
đƣợc cấp giấy đăng ký hoạt động, nếu Văn phòng công chứng không hoạt động hoặc
trong trƣờng hợp Văn phòng công chứng không hoạt động liên tục từ ba tháng trở lên
thì Sở Tƣ pháp đăng ký thu hồi giấy đăng ký hoạt động” (khoản 4 Điều 27).
Việc thu hồi quyết định thành lập Văn phòng công chứng đƣợc Luật quy định
đối với trƣờng hợp sau: “Trong thời hạn chín mƣơi ngày, kể từ ngày nhận đƣợc quyết

định cho phép thành lập, Văn phòng công chứng không đăng ký hoạt động hoặc trong
trƣờng hợp Văn phòng công chứng bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động, Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh thu hồi quyết định cho phép thành lập Văn phòng công chứng” 7
Việc thay đổi nội dung đăng ký hoạt động của Văn phòng công chứng đƣợc quy
định tại Điều 28 Luật công chứng. Trƣờng hợp thay đổi trụ sở, tên gọi thì Văn phòng
7

Khoản 5 Điều 27 Luật Công chứng 2006.

16


công chứng sẽ đƣợc cấp lại giấy đăng ký hoạt động. Khi thay đổi trụ sở, tên gọi, hoặc
danh sách công chứng viên, văn phòng công chứng phải có thông báo ngay bằng văn
bản cho Sở Tƣ pháp nơi đăng ký hoạt động. Tại Điều 29 Luật công chứng còn có quy
định giao cho Sở Tƣ pháp làm nhiệm vụ cung cấp thông tin, nội dung đăng ký hoạt
động của Văn phòng công chứng nhƣ sau: “Trong thời hạn mƣời ngày làm việc, kể từ
ngày cấp giấy đăng ký hoạt động hoặc cấp lại giấy đăng ký hoạt động do thay đổi trụ
sở, tên gọi của Văn phòng công chứng, Sở Tƣ pháp phải thông báo cho cơ quan thuế,
cơ quan thống kê, cơ quan Công an cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, Uỷ ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn nơi Văn phòng công chứng
đặt trụ sở”.
Văn phòng công chứng phải đăng báo nội dung đăng ký hoạt động, Điều 30
Luật công chứng quy định: “Trong thời hạn ba mƣơi ngày, kể từ ngày đƣợc cấp giấy
đăng ký hoạt động phải đăng báo trung ƣơng hoặc báo địa phƣơng nơi đăng ký hoạt
động trong ba số liên tiếp. Nội dung đăng ký gồm có các vấn đề sau:
+ Tên gọi, địa chỉ trụ sở của Văn phòng công chứng.
+ Họ, tên, số quyết định bổ nhiệm công chứng viên của công chứng viên hành
nghề trong Văn phòng công chứng;
+ Số, ngày tháng, năm cấp giấy đăng ký hoạt động, nơi đăng ký hoạt động và

ngày bắt đầu hoạt động.
- Trƣờng hợp đƣợc cấp lại giấy đăng ký hoạt động do thay đổi trụ sở, tên gọi,
Văn phòng công chứng phải đăng báo những nội dung giấy đăng ký hoạt động đƣợc
cấp lại”.
Những quy định trên cho thấy thủ tục thành lập và việc đăng ký hoạt động đối với Văn
phòng công chứng đƣợc quy định rất cụ thể, chi tiết tạo điều kiện cho ngƣời muốn
tham gia thành lập Văn phòng công chứng thực hiện dễ dàng.
- Đối với Văn phòng công chứng thì việc chấm dứt hoạt động đƣợc thực hiện
theo quy trình nhƣ sau 8:
- Trƣờng hợp tự chấm dứt hoạt động đƣợc quy định: chậm nhất ba mƣơi ngày
trƣớc thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động, Văn phòng công chứng phải có báo cáo
bằng văn bản gửi Sở Tƣ pháp nơi đăng ký hoạt động. Văn phòng công chứng có nghĩa
vụ thanh toán các khoản nợ, làm thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động đã ký với ngƣời
lao động, thực hiện các yêu cầu công chứng đã tiếp nhận và đăng báo trung ƣơng hoặc
báo địa phƣơng trong hai số liên tiếp về thời điểm dự kiến chấm dứt hoạt động. Sở Tƣ
pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc chấm dứt hoạt động của Văn
phòng công chứng với các cơ quan quy định tại Điều 29 của Luật công chứng.
8

Điều 34 Luật Công chứng 2006.

17


-

Trƣờng hợp bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động do Văn phòng công chứng vi

phạm pháp luật hoặc không còn công chứng viên do bị miễn nhiệm đƣợc quy định:
Trong thời hạn bảy ngày làm việc, kể từ ngày thu hồi giấy đăng ký hoạt động, Sở Tƣ

pháp có trách nhiệm thông báo bằng văn bản với các cơ quan thuế, cơ quan thống kê,
cơ quan Công an cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh,
Ủy ban nhân dân xã, phƣờng, thị trấn nơi Văn phòng công chứng đặt trụ sở. Văn
phòng công chứng có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ, làm thủ tục chấm dứt hợp
đồng lao động đã ký với ngƣời lao động; đối với yêu cầu công chứng đã tiếp nhận mà
chƣa công chứng thì phải trả lại hồ sơ yêu cầu công chứng cho ngƣời yêu cầu công
chứng và đăng báo trung ƣơng hoặc báo địa phƣơng trong hai số liên tiếp về việc chấm
dứt hoạt động (Điều 33 Luật công chứng 2006).
* Điểm giống và khác nhau giữa hai mô hình tổ chức hành nghề công chứng:
Điểm giống : Việc hành nghề công chứng mang tính chất công, nhiệm vụ, trách
nhiệm nghề nghiệp trong thực hiện các việc công chứng đƣợc quy định nhƣ nhau, mức
thu phí của Văn phòng công chứng và Phòng công chứng đƣợc Nhà nƣớc quy định
theo một giá nhất định. Việc thành lập Phòng công chứng và Văn phòng công chứng
đƣợc giao cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thành lập khi thấy có
nhu cầu và đều không phải có chấp thuận của Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp. Về giá trị pháp
lý của văn bản công chứng đƣợc quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 6 cũng cho
thấy không có sự phân biệt về giá trị văn bản công chứng của Phòng công chứng và
Văn phòng công chứng. Chính quy định này trong Luật đã giải quyết đƣợc những ý
kiến băn khoăn của ngƣời yêu cầu công chứng và ngƣời muốn thành lập Văn phòng
công chứng. Ngoài quy định về địa vị pháp lý, trình tự, thủ tục thành lập Phòng công
chứng và Văn phòng công chứng, Luật còn có quy định về quyền hạn của tổ chức
hành nghề công chứng tại Điều 31 và nghĩa vụ của tổ chức hành nghề công chứng tại
Điều 32. Tại đây cũng cho chúng ta thấy đƣợc về cơ bản không có sự phân biệt giữa
quyền và nghĩa vụ của hai tổ chức hành nghề công chứng này.
Điểm khác: Phòng công chứng do Nhà nƣớc thành lập, công chứng viên và một
số nhân viên là viên chức nhà nƣớc, Nhà nƣớc đầu tƣ cơ sở vật chất, trang thiết bị làm
việc cho Phòng công chứng nếu không tự trang trải đƣợc. Đối với Văn phòng công
chứng do công chứng viên đề nghị thành lập, tự đăng ký hoạt động, tự đầu tƣ cở sở vật
chất, trụ sở làm việc, tự trang trải trả lƣơng cho công chứng viên, nhân viên phục vụ,
phải mua bảo hiểm trách nhiệm cho công chứng viên và nộp thuế theo quy định của

pháp luật.
1.3.2. Công chứng viên

18


Với vai trò quan trọng, ảnh hƣởng đến giá trị của văn bản công chứng nên trong
Luật Công chứng 2006 nhà làm luật đã dành riêng một chƣơng để quy định về Công
chứng viên. “Công chứng viên là người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật này,
được bổ nhiệm để hành nghề công chứng”9. Theo đó, với vai trò là nhà chuyên môn về
pháp luật, Công chứng viên do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ nhiệm chịu trách nhiệm để
tiếp nhận hoặc lập các hợp đồng, giao dịch theo yêu cầu của ngƣời yêu cầu công
chứng, đảm bảo cho các hợp đồng, giao dịch sai khi chứng nhận có giá trị pháp lý nhƣ
một văn bản của cơ quan công quyền và để làm đƣợc nhiệm vụ trên công chứng viên
phải có đủ tiêu chuẩn theo quy định:
-

Công dân Việt Nam thƣờng trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc, tuân thủ

Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn thì đƣợc
xem xét, bổ nhiệm làm công chứng viên, cụ thể:
 Có bằng cử nhân luật;
 Có thời gian công tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức
(thời gian đào tạo nghề công chứng sáu tháng và tập sự hành nghề công chứng mƣời
hai tháng đƣợc tính vào thời gian công tác pháp luật).
 Có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng;
 Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng;
 Có sức khoẻ bảo đảm hành nghề công chứng.10
- Những ngƣời sau đây đƣợc miễn đào tạo nghề công chứng (ngƣời đƣợc miễn
đào tạo nghề công chứng cũng đƣợc miễn tập sự hành nghề công chứng) :

 Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sƣ đã hành nghề từ ba năm
trở lên;
 Giáo sƣ, phó giáo sƣ chuyên ngành luật, tiến sĩ luật;
 Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát,
chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp
luật.11
- Tính chất công việc của công chứng viên là chứng nhận tính xác thực, tính hợp
pháp của hợp đồng giao dịch là những loại văn bản theo quy định của pháp luật phải
đƣợc công chứng; hoặc do cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Bên cạnh
đó, Công chứng viên có các quyền sau:
 Đƣợc lựa chọn nơi để hành nghề công chứng, trừ công chứng viên của Phòng
công chứng.
9

Điều 7 Luật công chứng 2006.
Khoản 1 Điều 13 Luật Công chứng 2006
11
Điều 15 Luật Công chứng 2006
10

19


 Đề nghị cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu để
thực hiện việc công chứng.
 Các quyền khác theo quy định của Luật công chứng 2006.
- Chức năng nhiệm vụ của công chứng viên là:
 Tuân thủ nguyên tắc hành nghề công chứng.
 Tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời yêu cầu công chứng.
 Giữ bí mật về nội dung công chứng, trừ trƣờng hợp đƣợc ngƣời yêu cầu công

chứng đồng ý bằng văn bản hoặc pháp luật có quy định rõ.
 Hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng.
- Công chứng viên Phòng công chứng là công chức, viên chức nhà nƣớc đƣợc
hƣởng lƣơng từ ngân sách nhà nƣớc; Công chứng viên Văn phòng công chứng không
phải là công chức, viên chức nhà nƣớc, lƣơng và các khoản thu nhập khác đƣợc trích
từ nguồn thu phí công chứng, thù lao công chứng và nguồn thu hợp pháp khác từ hợp
đồng công chứng.
- Chế độ hành nghề của công chứng viên đƣợc quy định cụ thể: Công chứng viên
phải hành nghề chuyên trách; không đƣợc đồng thời hành nghề khác, không đƣợc
kiêm nhiệm các chức danh tƣ pháp nhƣ luật sƣ, đấu giá viên, trọng tài viên, thừa phát
lại hoặc các chức danh tƣ pháp khác. (Điều 2 Nghị định 04/2013/NĐ-CP của Chính
phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Công chứng).
1.3.3. Quản lý nhà nước về công chứng
Để tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc về công chứng, Luật công chứng phân
định rõ nhiệm vụ quyền hạn của các cơ quan trong quản lý về tổ chức và hoạt động
công chứng, theo hƣớng tăng cƣờng vai trò của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đối với việc
phát triển và quản lý hệ thống tổ chức hành nghề công chứng ở địa phƣơng mình, đồng
thời bảo đảm tính thống nhất trong việc quản lý nhà nƣớc về công chứng trên phạm vi
toàn quốc, trong đó Bộ Tƣ pháp là đầu mối giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ này.
Bên cạnh các Phòng công chứng đã trở thành truyền thống và có “thƣơng hiệu”
theo thời gian thì một số Văn phòng công chứng cũng đã tạo đƣợc uy tín, khẳng định
đƣợc niềm tin và thu hút đƣợc số lƣợng khách hàng đông đảo, chính vì điều đó đã tạo
ra sự cạnh tranh giữa các tổ chức hành nghề công chứng, nếu muốn củng cố và phát
triển phải cải tiến và đổi mới để nâng cao uy tín, vƣơn lên khẳng định vị trí, thƣơng
hiệu của mình trong xã hội. Tuy nhiên cũng không tránh khỏi những sai phạm trong
quá trình hoạt động nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh của các tổ chức hành
nghề công chứng và chủ yếu là các Văn phòng công chứng vì mục đích lợi nhuận, dẫn
đến nhiều vấn đề pháp lý phát sinh. Vì lý do đó, quản lý nhà nƣớc về công chứng nói
20



chung và Văn phòng công chứng nói riêng là một hoạt động không thể thiếu trong bối
cảnh xã hội hiện nay.
Quản lý nhà nƣớc về công chứng là việc nhà nƣớc dùng các biện pháp, công cụ có
đƣợc tác động vào lĩnh vực công chứng để hệ thống các tổ chức hành nghề công chứng
hoạt động đúng định hƣớng, mục tiêu mà nhà nƣớc mong muốn.
Công tác quản lý nhà nƣớc về công chứng có những đặc điểm sau:
 Quản lý nhà nước về công chứng nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của
các tổ chức hành nghề công chứng theo hướng xã hội hóa. Với vai trò,vị trí,chức năng
đặc biệt nên các tổ chức hành nghề công chứng phải mang tính ổn định và phát triển
bền vững cao. Không giống nhƣ sự phát triển của các mô hình dịch vụ công khác, sự
phát triển của các tổ chức hành nghề công chứng phải có sự điều tiết, phân bổ và đƣợc
kiểm soát trong một quy hoạch, nhất là sau khi hoạt động công chứng đã đƣợc xã hội
hóa. Vì lý do trên nên rất cần thiết có một mạng lƣới các tổ chức hành nghề công
chứng, cũng nhƣ thực hiện quản lý nhà nƣớc trên phạm vi cả nƣớc để đảm bảo các tổ
chức hành nghề công chứng đƣợc thành lập và phân bố một cách hợp lý, khoa học và
đáp ứng nhu cầu công chứng của nhân dân một cách thuận tiện nhất.
Việc xã hội hóa hoạt động công chứng đồng nghĩa với việc nâng cao trách nhiệm của
các cơ quan quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động cung ứng dịch vụ công này. Quản lý
nhà nƣớc đối với hoạt động công chứng sau khi hệ thống các Văn phòng công chứng
đƣợc thành lập có những điểm thay đổi cơ bản, theo đó đối tƣợng của hoạt động quản
lý nhà nƣớc ngoài Phòng công chứng còn có các Văn phòng công chứng. Quản lý nhà
nƣớc đối với các Văn phòng công chứng gắn liền với việc quy định các tiêu chuẩn
thành lập Van phòng công chứng, cấp phép thành lập và bổ nhiệm Công chứng viên,
giám sát, kiểm tra đánh giá hoạt động công chứng.
 Quản lý nhà nước về công chứng nhằm đảm bảo tính xác thực, tính hợp pháp
cũng như hiệu lực của các văn bản công chứng. Ngoài vai trò là chứng nhận tính xác
thực thì hoạt động công chứng còn có vai trò tích cực trong việc phòng ngừa tranh
chấp, giao dịch có thể xảy ra. Vì thế, văn bản công chứng có ý nghĩa chứng cứ trƣớc
tòa, là căn cứ pháp lý hợp pháp để xác lập quyền sở hữu cho các bên có quyền liên

quan (công chứng hợp đồng mua bán nhà, hợp đồng chuyển nhƣợng quyền sử dụng
đất). Ngoài ra, công chứng còn có vai trò tƣ vấn : Công chứng viên tƣ vấn cho ngƣời
yêu cầu công chứng về các thủ tục pháp lý trong hoạt động công chứng (khác với luật
sƣ)....
Văn bản công chứng là hành lang pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật, ngăn ngừa hành vi vi phạm
pháp luật, ngăn ngừa rủi ro, tranh chấp hoặc khi có rủi ro tranh chấp xảy ra các cơ
21


quan nhà nƣớc có thẩm quyền căn cứ vào văn bản công chứng để giải quyết các vụ
việc tranh chấp.
 Quản lý nhà nước về công chứng nhằm đảm bảo cho hoạt động của các tổ chức
hành nghề công chứng nói chung và Văn phòng công chứng nói riêng đúng phạm vi
quy định của pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Quản lý nhà nƣớc có
vai trò định hƣớng sự phát triển của ngành theo lĩnh vực công chứng, xuất phát từ tính
chất của hoạt động công chứng là hoạt động mang tính công quyền nhà nƣớc, công
chứng là hoạt động đƣợc nhà nƣớc ủy quyền để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác
thực của hợp đồng giao dịch. Vì lẽ đó, việc xác định phạm vi và ranh giới các việc
công chứng cũng là xác định thẩm quyền của các tổ chức hành nghề công chứng đƣợc
làm những việc gì có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhà nƣớc trong quản lý đối với
Văn phòng công chứng, nhằm phòng ngừa những vi phạm rất dễ xảy ra trong lĩnh vực
này.
-

Các nguyên tắc quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực công chứng:

 Nguyên tắc đảm bảo sự quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động của các tổ
chức hành nghề công chứng.
Nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở chổ: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nƣớc

về tổ chức hành nghề công chứng; Bộ Tƣ pháp chịu trách nhiệm trƣớc Chính phủ
trong việc thực hiện quản lý nhà nƣớc đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên
phạm vi cả nƣớc; UBND cấp tỉnh quản lý nhà nƣớc đối với các tổ chức hành nghề
công chứng trên phạm vi địa phƣơng.
 Nguyên tắc đảm bảo sự độc lập và tự chịu trách nhiệm của Công chứng viên
trong việc thực hiện hoạt động công chứng.
Ở nƣớc ta hiện nay, công chứng là hoạt động do nhà nƣớc tổ chức và quản lý, tuy
nhiên hành vi công chứng lại do Công chứng viên thực hiện một cách độc lập, không
bị chi phối hoặc áp đặt bởi bất cứ tổ chức hay cá nhân nào, chính vì thế ngƣời thực
hiện hành vi công chứng phải tự chịu trách nhiệm cá nhân trƣớc pháp luật đối với công
việc mà mình thực hiện. Hiện nay, Công chứng là một trong các nghề bổ trợ tƣ pháp,
Công chứng viên là một chức danh tƣ pháp. Công chứng viên hoạt động độc lập, tuân
thủ pháp luật, thủ trƣởng cơ quan công chứng không chịu trách nhiệm đối với văn bản
công chứng của Công chứng viên thuộc cơ quan mình quản lý thực hiện. Bên cạnh đó,
Công chứng viên còn phải đảm bảo giữ bí mật nội dung công chứng và các thông tin
liên quan đến hoạt động công chứng, trừ trƣờng hợp cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền
yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ cho việc thanh tra,
kiểm tra, điều tra, truy tố, xét xử vụ việc có liên quan đến việc công chứng.
22


 Nguyên tắc đảm bảo pháp chế Xã hội Chủ nghĩa trong quản lý hoạt động của
các tổ chức hành nghề công chứng.
Trong quản lý hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng đòi hỏi các cơ quan
thực hiện quản lý nhà nƣớc về công chứng phải tuân thủ đúng các quy định của pháp
luật; Ngƣời yêu cầu công chứng và ngƣời thực hiện hành vi công chứng phải nghiêm
chỉnh và triệt để tuân thủ pháp luật trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
nhằm đảm bảo sự thống nhất về kỷ cƣơng, trật tự, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà
nƣớc.
- Hoạt động quản lý nhà nƣớc đối với các tổ chức hành nghề công chứng gồm:

thành lập, hoạt động, giải thể, kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và xử lý
vi phạm về công chứng, có thể chia thành 3 nội dung nhƣ sau:
 Quản lý tổ chức hành nghề công chứng về mặt hình thức. Luật Công chứng và
các văn bản có liên quan đều có các quy định trực tiếp về tổ chức, hoạt động quyền và
nghĩa vụ của các tổ chức hành nghề công chứng; Tiêu chuẩn bổ nhiệm, quyền và nghĩa
vụ của Công chứng viên; Thủ tục yêu cầu đối với hoạt động công chứng.
 Quản lý tổ chức hành nghề công chứng về mặt nội dung. Vấn đề này không
đƣợc quy định trực tiếp trong Luật Công chứng mà pháp luật chỉ có thể tác động gián
tiếp thông qua các quy định về nguyên tắc của hoạt động công chứng, áp dụng pháp
luật của nhiều lĩnh vực khác nhau.
 Quản lý tổ chức hành nghề công chứng thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm là một nội dung quan trọng trong
công tác lãnh đạo, quản lý nhà nƣớc, là nhiệm vụ không thể thiếu của cơ quan lãnh
đạo, chỉ đạo; là một trong ba việc phải làm của cơ quan Đảng và chính quyền các cấp,
là một bộ phận hợp thành công tác lãnh đạo của Đảng và Nhà nƣớc: quyết định đƣờng
lối, chính sách, chủ trƣơng, pháp luật; tổ chức thực hiện kiểm tra tranh tra việc thực
hiện đó.
1.4. Khái niệm, đặc điểm của vi phạm hành chính trong lĩnh vực công chứng
1.4.1. Vi phạm hành chính
1.4.1.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội.
Cần phân định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm, góp phần tăng cƣờng
đấu tranh, phòng chống có hiệu quả đối với vi phạm hành chính vì vậy hiểu rỏ về vi
phạm hành chính là điều rất cần thiết.
- Về định nghĩa vi phạm hành chính đã đƣợc quy định trong nhiều văn bản theo
từng thời kỳ khác nhau:
23


 Điều lệ xử phạt vi cảnh ban hành kèm theo Nghị định 143/CP ngày 27/5/1971

của Hội đồng Chính phủ (vi phạm hành chính lúc bấy giờ đƣợc gọi là “vi cảnh”)
 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 30/11/1989 có hiệu lực từ ngày
1/1/1990 do Hội đồng Nhà nƣớc ban hành.
 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995 do Ủy ban Thƣờng vụ Quốc
hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 1/8/1995.
 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 2/7/2002 do Ủy ban Thƣờng vụ Quốc
hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 1/10/2002.
 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 có hiệu lực từ ngày 1/7/2013 do Quốc
hội ban hành.
Tuy nhiên, chỉ có Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 đƣa ra định nghĩa về vi phạm
hành chính tại khoản 1 Điều 2 : “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ
chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là
tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính” tƣơng tự
về cách diễn đạt với định nghĩa với định nghĩa đƣợc đƣa ra trong Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính ngày 30/11/1989 :“ Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ
chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm những quy tắc quản lý hành chính
nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt vi phạm hành chính”.
Riêng Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6/7/1995 thay thế cho Pháp lệnh xử
phạt vi phạm hành chính ngày 30/11/1989 định nghĩa vi phạm hành chính một cách
gián tiếp tại khoản 2 Điều 1: “ Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá
nhân, tổ chức có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt vi phạm hành chính”.
Từ những định nghĩa về vi phạm hành chính trong ba văn bản trên tuy có sự khác nhau
về cách diễn đạt nhƣng điều thống nhất với nhau về dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi
phạm hành chính :Tính trái pháp luật, tính xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nƣớc,
tính có lỗi và tính bị xử phạt vi phạm hành chính.
Tóm lại, vi phạm hành chính là đƣợc hiểu là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với
lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nƣớc mà không

phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính.
1.4.2.3. Đặc điểm vi phạm hành chính
Thứ nhất, vi phạm hành chính là hành vi trái pháp luật xâm hại đến các quy tắc
và trật tự quản lý Nhà nƣớc do cá nhân hoặc tổ chức thực hiện một cách cố ý hay vô ý.
24


Hành vi vi phạm hành chính có khả năng làm thay đổi trật tự bình thƣờng của
quản lý hành chính nhà nƣớc: Vi phạm hành chính pháp sinh xâm hại hoặc có nguy cơ
xâm hại đối với các quan hệ xã hội hình thành trong quản lý hành chính nhà nƣớc. Các
quan hệ này đƣợc nhà nƣớc điều chỉnh bằng pháp luật. Tuy có nội dung đa dạng
nhƣng các quan hệ này đƣợc sắp xếp, phân loại thành những nhóm nhất định do quy
phạm hành chính điều chỉnh tạo nên trật tự quản lý hành chính nhà nƣớc. Tính xâm hại
các quy tắc quản lý nhà nƣớc của hành vi vi phạm hành chính là khả năng làm tổn hại
đến các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật quy định và bảo vệ.
Tổ chức là chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang. Cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính phải
là ngƣời không bị bệnh tâm thần hoặc bệnh làm mất khả năng nhận thức, khả năng
điều khiển hành vi và đủ độ tuổi do pháp luật quy định. Cá nhân và tổ chức nƣớc ngoài
cũng có thể là chủ thể của vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam
trừ trƣờng hợp Điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác.
Lỗi là dấu hiệu cơ bản, bắt buộc phải có trong mọi loại vi phạm hành chính do cá
nhân thực hiện. Vi phạm hành chính phải là hành vi có lỗi đƣợc thực hiện với dạng cố
ý hoặc vô ý. Nói cách khác, ngƣời thực hiện hành vi này phải có đủ khả năng nhận
thức và điều khiển đƣợc hành vi của mình nhƣng vô tình không nhận thức đƣợc hành
vi của mình là nguy hiểm cho xã hội (lỗi vô ý) hoặc nhận thức đƣợc điều đó nhƣng
vẫn cố tình thực hiện (lỗi cố ý). Hành vi vi phạm hành chính đƣợc xem là không xảy ra
khi có đủ căn cứ cho rằng chủ thể thực hiện hành vi trong tình trạng không có đủ khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Nhƣ vậy,pháp luật hành
chính đã không chia nhỏ lỗi vô ý và lỗi cố ý nhƣ pháp luật hình sự vì mức độ nguy

hiểm của hành vi vi phạm pháp luật hành chính không đáng kể bằng tội phạm.
Vi phạm hành chính không chỉ đơn thuần là hành vi trái pháp luật hành chính mà
còn có thể là hành vi trái pháp luật dân sự, lao động, hôn nhân và gia đình.
 Ví dụ: hành vi sử dụng đất không đúng mục đích là hành vi trái pháp luật đất
đai, theo Điều 9, Nghị định 105/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai, hành vi này sẽ bị xử phạt từ 100.000 đồng đến 30.000.000 đồng.
Hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn là hành vi trái pháp luật hôn nhân và gia đình,
theo Điều 47 Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tƣ pháp, hành chính tƣ pháp, hôn nhân và gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (sau đây gọi tắt là Nghị
định 110/2013/NĐ-CP, hành vi này sẽ bị xử phạt từ 500.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
Thứ hai, về mức độ vi phạm hành chính có tính chất nguy hiểm cho xã hội thấp
hơn tội phạm, chính vì thế vi phạm hành chính không phải là tội phạm.
25


×