GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GIẦY DÉP VIỆT NAM SANG THỊ
TRƯỜNG EU
3.1. Cơ hội và thách thức đối với hoạt động xuất khẩu giày dép của Việt Nam
sang EU
3.1.1. Cơ hội
Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần thúc đẩy các cơ hội phát triển ngành da
giày, việc chuyển giao công nghệ theo chu kỳ nhanh hơn phù hợp với yêu cầu khắt
khe của thị trường. Việc gia nhập tổ chức mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) tạo điều
kiện việc giao lưu hàng hoá thông suốt, ít cản trở, xoá bỏ hàng rào phi thuế quan, ưu
đãi về thuế quan tạo điều kiện cho ngành hàng da giày thâm nhập vào thị trường khu
vực.
Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2009,
toàn ngành đã thu hút 610.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh vực
nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng nghề có
thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động công nghiệp. Đây có
thể được coi là lợi thế so sánh với mức chi phí nhân công thấp.
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú
trọng. Toàn ngành đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và
quảng bá hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất
khẩu da giày tiềm năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị
trường, phòng ngừa các vụ kiện bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các
vụ tranh chấp thương mại. Phương thức bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều
đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán lẻ, tham gia vào các kênh phân
phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức thương mại điện tử.
Chế độ chính trị xã hội ổn định đã và đang tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho
doanh nghiệp phát triển thông qua cơ chế chính sách phù hợp với tình hình trong
nước và thông lệ quốc tế. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để thu hút một lượng lớn
các doanh nghiệp nước ngoài muốn đầu tư phát triển sản xuất giày dép tại nước ta.
Không những thế còn rất phù hợp với xu hướng chuyển dịch hoạt động sản xuất giày
dép của EU - các doanh nghiệp sản xuất của EU đang có xu hướng chuyển dịch sản
xuất sang các thị trường ngoài khối, nơi có chi phí sản xuất thấp, tình hình xã hội ổn
định. Đây sẽ là một cơ hội tốt cho ngành giày dép Việt Nam nếu như tận dụng được
2
cơ hội thu hút được các doanh nghiệp này thì sẽ góp phần không nhỏ vào việc chuyển
đổi công nghệ sản xuất, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất và quản lý, dần nâng cao được
chất lượng và uy tín trên thị trường thế giới về hàng giày dép của nước ta.
Về năng lực sản xuất. Đến hết năm 2009, năng lực sản xuất của toàn ngành
đạt:
1. Kim ngạch xuất khẩu: 4.066,8 tỷ USD
2. Năng lực sản xuất:
Giầy dép các loại: 750,00 triệu đôi
Da thành phẩm: 130,00 triệu sqft
3. Lực lượng lao động: 610.000 người
4. Dự kiến Kim ngạch xuất khẩu năm 6,200 tỷ USD
Nguồn: Hiệp hội da giầy Việt Nam.
Năng lực sản xuất của ngành đã đạt trên 90% mức năng lực được đầu tư, có
mức tăng trưởng mạnh trong 7 năm liên tiếp với mức tăng trung bình đạt 10%/năm
trên loại sản phẩm chính là giày dép các loại. Riêng sản phẩm da thuộc đạt mức tăng
trưởng trung bình khoảng 20%/năm. Mặt hàng chủ lực của ngành vẫn tập trung chủ
yếu vào giày thể thao, chiếm khoảng 51% năng lực sản xuất các sản phẩm giày dép
của ngành, phù hợp với xu thế tiêu dùng của thị trường xuất khẩu.
Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng
được mở rộng và ổn định, nhất là sau sự kiện mở rộng của thị trường EU từ EU 15
lên EU gồm 27 nước thành viên, tạo ra một thị trường rộng lớn với sức tiêu thụ cao
và ngày càng có xu hướng chi tiêu cho việc mua sắm giày dép tăng lên. Ngoài ra thì
theo dự báo về tình hình nhập khẩu trong các năm tới của hiệp hội da giày thì các
nước nhập khẩu giầy dép lớn tại EU như Anh, Đức, Hà Lan, Bỉ… sẽ đều có kim
ngạch nhập khẩu giầy dép từ Việt Nam tăng với tốc độ khá cao. Trong năm 2010 với
phương án thấp thì nhu cầu nhập khẩu từ các nước này cũng tăng từ 5-12,22%, còn
với phương án cao thì tốc độ tăng trung bình là từ 22-32,55%. Dù là có thể đạt kết
quả với phương án thấp hay cao thì có thể thấy năm 2010 sẽ là một năm Việt Nam có
nhiều cơ hội xuất khẩu giầy dép vào EU. Giai đoạn từ năm 2010-2015, sẽ là giai
đoạn ngành giầy dép Việt Nam có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu giầy dép sang thị
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
2
3
trường EU, tốc độ nhập khẩu giầy dép của thị trường này và đặc biệt là các nước có
mức tiêu thụ giầy dép lớn nhất tại đây sẽ đều có nhu cầu nhập khẩu giầy dép từ Việt
Nam gia tăng, mức tăng trưởng trung bình đạt khoảng 10%.
Bảng 6: Dự báo triển vọng xuất khẩu giày dép của Việt Nam đến 2015
Đơn vị: Triệu USD/ %
2010 Tăng bq năm (%) 2015 Tăng bq năm (%)
Phươn
g án
thấp
Phươn
g án
cao
Phươn
g án
thấp
Phươn
g án
cao
Phươn
g án
thấp
Phươn
g án
cao
Phươn
g án
thấp
Phương
án cao
1. Anh
653,68 946,2 8,04 26,56 986,4 1.414,4 10,18 9,90
2. Đức
433,26 695,7 7,01 31,44 713,0 1.150,0 12,92 13,06
3. Hà
Lan 350,30 506,5 8,49 27,15 551,6 790,5 11,50 11,21
4. Bỉ
320,91 464,0 5,02 22,13 500,9 715,4 11,22 10,83
5. Italia
273,04 394,9 8,63 27,36 412,8 589,7 10,24 9,87
6. Pháp
236,06 341,3 5,83 23,30 359,3 524,1 10,44 10,71
7. TBN
174,91 252,9 12,22 32,55 298,0 465,3 14,08 16,79
Nguồn: Hiệp hội da giầy Việt Nam
3.1.2. Thách thức
Bên cạnh những thuận lợi có được thì ngành sản xuất, xuất khẩu giầy dép của
Việt Nam hiện vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức.
Thách thức trước hết phải kể đến là sự cạnh tranh khốc liệt của Trung Quốc –
nước có kim ngạch xuất khẩu giầy dép lớn nhất thế giới. Gần đây Trung Quốc là có
thêm lợi thế với việc gia WTO. Mặt hàng giày dép xuất khẩu của Trung Quốc có ưu
thế hơn giày dép xuất khẩu của Việt Nam do trình độ công nghệ của Trung Quốc tiên
tiến hơn, mẫu mã đẹp và đa dạng hơn, trong khi đó thì thường giá giầy dép của Trung
Quốc thường lại thấp hơn của Việt Nam.
Tuy sức mua của thị trường truyền thống (EU) vẫn giữ ở mức ổn định nhưng
Việt Nam bị chịu nhiều sức ép hơn về thuế và các rào cản so với một số nước như
Brazil, Indonesia... Từ ngày 6 tháng 10 năm 2006 cho đến nay, EU vẫn áp thuế chống
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
3
4
bán phá giá giày mũ da sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu sang EU là 10% và từ ngày
1/1/2009 giầy dép Việt Nam không còn được hưởng GSP.
Nguyên vật liệu sản xuất của ngành da giày chiếm đến 80% giá trị của sản
phẩm trong đó ngành sản xuất da đóng vai trò quan trọng nhất. Theo Hiệp hội da giày
Việt Nam, nhu cầu da thuộc năm 2007 của toàn ngành khoảng 350 triệu feet vuông,
trong khi đó các nhà máy thuộc da của Việt Nam và nước ngoài đầu tư tại Việt Nam
mới chỉ sản xuất và đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu da thuộc của cả nước, 80%
còn lại phải nhập khẩu.
Ngành phụ liệu sản xuất còn trầm trọng hơn, các doanh nghiệp Việt Nam mới
chỉ sản xuất được một vài mặt hàng rất hạn chế như nhãn, ren, dây giày... nhưng lại
“bỏ ngỏ” những loại phụ kiện tinh xảo là các sản phẩm nhựa có xi mạ như khoen,
móc, cườm, các vật trang trí trên giày, đặc biệt là giày nữ và giày trẻ em.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có
yếu tố nước ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành
phụ thuộc hoàn toàn vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số
trẻ, nhưng năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây
chuyền 450 lao động đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất
lao động của người Nhật, 1/30 của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của
Indonesia.
Hiện nay trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung
bình và trung bình khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả
năng đầu tư và chuyển giao công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp,
đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh nghiệm và khả năng đàm phán, ký
kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế...Đây là một trong những nguyên nhân làm
hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành trong thời
gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy cơ mất
khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế.
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
4
5
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu giày dép sang thị trường EU.
3.2.1. Giải pháp từ phía nhà nước.
3.2.1.1. Gắn nhập khẩu công nghệ nguồn với xuất khẩu.
Bấy lâu nay chúng ta nhập khẩu máy móc thiết bị chủ yếu của Châu Á, giá rẻ
nhưng không lâu bền. Máy móc thiết bị tốt sẽ sản xuất ra hàng hóa chất lượng cao,
cạnh tranh được trên thị trường. Thêm vào đó thì khi xuất khẩu giày dép vào EU thì
phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật của thị trường nay, thì với thiết bị hiện có khó
có thể đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn này do đó tốt nhất là nên hướng vào việc nhập khẩu
công nghệ nguồn từ EU, với chất lượng cao lại có thể đảm bảo được các tiêu chuẩn
kỹ thuật khắt khe của thị trường EU.
Nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU có thể thực hiện bằng hai biện pháp sau:
(1) Đầu tư của Chính phủ; (2) Thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản
xuất hàng giày dép tại Việt Nam. Công nghệ nguồn của EU tiên tiến, hiện đại, chất
lượng cao, song giá lại quá cao so với khả năng thanh toán của các doanh nghiệp Việt
Nam. Vì thế để có thể nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU chỉ có hai biện pháp sau:
Đầu tư của chính phủ: là biện pháp ưu việt để nhập khẩu được công nghệ hiện
đại một cách nhanh nhất và đúng theo yêu cầu đặt ra của của ngành. Nhưng đây
không phải là biện pháp tối ưu của chúng ta hiện nay vì Việt Nam là nước nghèo nên
kinh phí dành cho đầu tư của chính phảu còn hạn chế. Đó chính là mặt hạn chế của
biện pháp này.
Thu hút các nhà đầu tư EU tham gia vào quá trình sản xuất giày dép tại Việt
Nam: đây là biện pháp tối ưu để Việt Nam nhập khẩu được công nghệ nguồn từ EU
và sử dụng công nghệ này đạt hiệu quả cao nhất trong điều kiện chúng ta thiếu vốn và
trình độ hiểu biết còn hạn chế. Nếu đi vay tiền để nhập khẩu công nghệ thì chưa chắc
các kỹ sư Việt Nam đã vận hành đạt hiểu quả như mong muốn, hơn nữa vay tiền thì
phải có nguồn để trả. Còn ở đây vốn của phía EU góp sẽ trả bằng sản phẩm thu được
từ quá trình sản xuất.
Để thực hiện được biện pháp này, thì Nhà nước cần phải có những ưu đãi dành
riêng cho cách nhà đầu tư EU ngoài những ưu đãi về quyền lợi mà họ sẽ được hưởng
theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam như các nhà đầu tư thuộc khu vực khác.
Những ưu đãi này có thể là những ưu đãi về thuế nhập khẩu công nghệ nguồn từ EU,
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
5
6
thuế suất lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận. Các đối tác EU chỉ được hưởng những ưu
đãi này nếu góp vốn bằng công nghệ hiện đại được chế tạo tại Liên minh. Quyền lợi
và trách nhiệm của các nhà đầu tư EU phải được quy định cụ thể và chi tiết trong các
văn bản.
Nếu thực hiện tốt giài pháp này, chúng ta sẽ nhanh chóng cải thiện được chất
lượng giày dép và còn có thể tạo được nhiều công ăn việc làm và nâng cao tay nghề
cho người lao động Việt Nam.
3.2.1.2. Hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép
Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh giày dép của Việt Nam
sang EU đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu
không cao, vì thế để đẩy mạnh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang
thị trường này, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn thông qua hệ
thống ngân hàng. Để triển khai hoạt động hỗ trợ này, Nhà nước nên thực hiện các
biện pháp sau:
- Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn
với lãi suất thấp, giải quyết được khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới
trang thiết bị. Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thâm
nhập được thị trường EU.
- Đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng ngân hàng trên cơ sở
pháp luật giữa các thành phần kinh tế. Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tín dụng từ
các ngân hàng cũng như các quy định chế tài chính. Đơn giản hóa thủ tục vay vốn và
yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
- Xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp vừa
và nhỏ, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp lớn với sự hỗ
trợ của Nhà nước và các tổ chức quốc tế.
- Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhà nước cần thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện bảo lãnh cho các
doanh nghiệp có khả năng pháp triển nhưng không có đủ tài sản để thế chấp vay vốn.
Quỹ này được thành lập dưới hình thức là một tổ chức tài chính của Nhà nươc, hoạt
động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất,
kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả được vay vốn theo phương thức tự vay, tự trả.
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
6
7
- Thông qua ngân hàng linh hoạt hạ mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất
khẩu sang EU. Ngân hàng thực hiện chiết khấu các kỳ phiếu và hối phiếu chưa đến
hạn thanh toán trong trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mà bị thiếu
vốn. Nếu lãi suất chiết khấu hạ thì giá hàng hóa xuất khẩu cũng hạ, do đó khả năng
cạnh tranh của giày dép xuất khẩu của Việt Nam tăng lên và chúng ta có thể mở rộng
được xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu giày dép sang EU tăng nhanh qua các năm, nhưng trị giá
xuất khẩu theo con đường trực tiếp còn rất thấp. Ngoài nguyên nhân là do các doanh
nghiệp thiếu thông tin về thị trường và kênh phân phối quá phức tạp, thì còn do các
doanh nghiệp thiếu vốn để đầu tư, cải tiến và mở rộng sản xuất nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm và tạo ra nguồn hàng có khối lượng lớn, ổn định thỏa mãn nhu cầu
của thị trường nay. Do vậy, thực hiện tốt “chính sách tín dụng” sẽ giúp các doanh
nghiệp Việt Nam có vốn đầu tư cho sản xuất để nâng cao chất lượng, đa dạng hóa sản
phẩm và cải tiến mẫu mã.
3.2.1.3. Tăng cường cung ứng nguyên liệu.
Đối với ngành giày dép hiện nay thì vấn đề cấp thiếp phải kể đến là nguồn
nguyên liệu, khi mà nguồn nguyên liệu trong nước không thể cung cấp đủ được, mới
chỉ cung cấp với số lượng hạn chế, chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài, khiến cho
hoạt động của ngành sản xuất giày dép bấp bênh, không bền vững luôn phải phụ
thuộc quá nhiều vào yêu tố bên ngoài dẫn đến giá cả hàng hóa, cũng như khối lượng
hàng không ổn định, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh
của các doanh nghiệp. Nên Nhà nước cần phải có các biện pháp thích hợp để có thể
thúc đẩy phát triển ngành phụ liệu song song với ngành giày dép và phải đáp ứng
được các tiêu chuẩn về môi trường, chất lượng… của thị trường EU ngày từ ban đầu:
- Khuyến khích mọi thành phần tham gia đầu tư sản xuất nguyên phụ liệu cho
ngành da - giầy. Ưu tiên phát triển các cơ sở thuộc da có công nghệ tiên tiến, thiết bị
hiện đại, sắp xếp và hiện đại hoá các cở sở thuộc da hiện có để nâng cao sản lượng và
chất lượng da thuộc, khai thác tối đa nguồn nguyên liệu da trong nước.
- Kết hợp công nghiệp chế biến da với việc khuyến khích phát triển chăn nuôi
công nghiệp, giết mổ tập trung để nâng cao chất lượng, sản lượng da nguyên liệu.
Phối hợp với các ngành dệt, nhựa, cơ khí để phát triển nguyên phụ liệu đáp ứng yêu
cầu của ngành.
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
7
8
- Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất các sản phẩm
giầy dép, đồ da để phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Xây dựng các khu
công nghiệp tập trung có đủ điều kiện về hạ tầng và xử lý môi trường để kêu gọi các
nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư.
- Quy hoạch theo vùng lãnh thổ. Bố trí sản xuất và đầu tư của ngành da - giầy
trên toàn quốc được xác định thành 3 vùng. Tạo ra sự phát triển cân đối theo vùng và
lãnh thổ nhằm tận dụng hết lợi thế về nhân công, nguồn nguyên liệu của từng vùng,
đáp ứng chiến lược phát triển kinh tế của từng vùng theo từng giai đoạn.
- Song song với việc xây dựng các nhà máy sản xuất nguyên phụ liệu, cần xây
dựng các trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu để tăng khả năng cung ưng về nguyên
liệu cho các doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của ngành công
nghiệp sản xuất, xuất khẩu giày dép.
- Để có thể tăng cường khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường
cho nguồn nguyên phụ liêu – một khâu còn rất yếu đối với các doanh nghiệp Việt
Nam – thì Nhà nước có thể khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là các
doanh nghiệp chuyên sản xuất tại EU, vừa có thể đáp ứng được tiêu chuẩn môi
trường của EU đặt ra, lại có thể tăng cường khả năng cung ứng nguyên liệu trong
nước và giúp phần thúc đầy ngành công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu phát triển.
Để có thể thu hút được các doanh nghiệp nước ngoài thì Nhà nước cần phải có kế
hoạch quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành, ưu tiên các dự án đầu
tư sản xuất.
- Tuy nhiên thì để có thể phát triển ngành công nghiệp phụ trợ này cần nhiều
thời gian chứ không thể một sớm một chiều là có thể hoàn thành do đó Nhà nước cần
phải có biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên
phụ liệu dễ dàng hơn như có thể giảm thuế nhập khẩu hiện nay là 3% xuống 0% để
khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu, và dó đó cũng có thể giảm giá thành để
nâng cao khả năng cạnh tranh của giày dép Việt Nam.
3.2.1.4. Hoàn thiện hành lang pháp lý tạo điều kiện tối đa cho xuất khẩu.
Rà soát lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc
chưa được rõ, trước hết là luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến
khích đầu tư trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế. Về luật thương mại: Cần mở
rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO. Cần quy định chặt
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
8
9
chẽ và cụ thể hơn về mọi hoạt động thương mại và liên quan đến thương mại cho phù
hợp với xu hướng mở cửa thị trường và xu hướng hội nhập để khuyến sản xuất và
xuất khẩu; Về luật đầu tư nước ngoài: Cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên
tắc đối xử quốc gia trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến
thương mại, dịch vụ. Cần mở cửa hơn, tầm nhìn lâu dài hơn thì mới thu hút được đầu
tư; Về luật khuyến khích đầu tư trong nước: Cần quy định rõ hơn về ngành nghề
khuyến khích đầu tư để khắc phụ tình trạng không rõ ràng giữa “thay thế nhập khẩu”
và “định hướng nhập khẩu”.
Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực thương mại theo hướng
xóa bỏ các thủ tục phiền hà, và phấn đấu ổn định môi trường pháp lý để tạo tâm lý tin
tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Phấn
đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là chính sách thuế xuất khẩu có định hướng
nhất quán để không gây ra khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh
doanh. Giảm dần, tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm
thời. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách.
Ngoài ra khi thực hiện các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu thì phải phù hợp với
luật pháp quốc tế. Hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức WTO thì
khi thực muốn thực hiện trợ cấp xuất khẩu cần tránh hình thức trợ cấp trực tiếp, thay
vào đó có thể thực hiện thông qua các hình thức gián tiếp khác như miễn giảm thuế
đối với xuất khẩu, dùng ngân sách nàh nước để giới thiệu, triển lãm, quảng cáo về
sản phẩm giầy dép của Việt Nam với bạn hàng quốc tế, tạo điều kiện cho xuất khẩu
giầy dép ra nước ngoài.
3.2.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp.
3.2.2.1. Đa dạng mẫu mã sản phẩm xuất khẩu.
Mẫu mã kiểu dáng giầy dép hiện nay là khâu còn rất kém đối với ngành sản
xuất giầy dép Việt Nam hiện nay. Với kiểu dáng đơn giản, mầu sắc không phong phú
thì để có thể cạnh tranh với giầy dép của Trung Quốc là một điều không dễ dàng.
Trước sức cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các nước xuất khẩu giầy dép giá rẻ nếu
các doanh nghiệp Việt Nam không thể cải tiến mẫu mã thì sẽ ngày càng khó để xuất
khẩu trực tiếp sang thị trường EU, thị phần sẽ dần giảm xuống và chỉ còn tồn tại
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
9
10
được những doanh nghiệp chuyên làm gia công cho nước ngoài với kiểu dáng đã có
sẵn.
Để có thể tạo ra được nhiều kiểu dáng và mẫu mà cho giầy dép thì yếu tố
quyết định đó là đội ngũ thiết kế trong mỗi doanh nghiệp. Nhưng hiện nay Việt Nam
có quá ít những đội ngũ nhà thiết kế giầy dép lành nghề, hoặc nếu có thì họ cũng
chưa được đào tạo một cách chuyên nghiệp, bài bản. Như vậy vấn đề trước mắt hiện
nay là làm thế nào để trong thời gian ngắn có thể xây dựng cho các doanh nghiệp có
những đội ngũ cán bộ thiết kế giầy dép giỏi. Với đội ngũ nhà thiết kế hiện có tại các
doanh nghiệp có thể tiếp tục đào tạo lại, cử một số nhà thiết kế đi học tập tại nước
ngoài, hoặc có thể thuê chuyên gia nước ngoài về để giảng dạy trực tiếp.
Hiện tại ở nước ta có rất ít buổi lễ thời trang dành riêng cho giầy dép, có ít nhà
thiết kế có tên tuổi trong ngành, đây là một thiếu sót rất lớn cho việc phát triển ngành
để đưa sản phẩm đến gần với người tiêu dung hơn, cũng như quảng bá cho các mẫu
mã sản phẩm giầy dép của các công ty. Do đó hàng năm nên tổ chức các buổi diễn
thời trang chuyên hoặc không chuyên về giầy dép để thu hút các nhà thiết kế chuyên
và không chuyên, từ đó có thể sớm phát hiện các tài năng mới làm phong phú cho hội
diến thời trang. Bên cạnh đó thì việc tổ chức các buổi diến thời trang như vậy cũng
có thể thu hút được sự chú ý của dư luận cũng như nhiều khách hàng tiềm năng trong
tương lại.
3.2.2.2. Tăng cường xây dựng thương hiệu cho giày dép Việt Nam
Các doanh nghiệp Việt Nam cần đẩy mạnh xây dựng thương hiệu. Các sản
phẩm giầy dép nhập khẩu vào EU phải có nhãn mác đầy đủ ghi rõ tên thương hiệu.
Vấn đề là thương hiệu của loại giầy dép đó có nổi tiếng hay không. Tuy cùng loại
hàng giống hệt nhau được sản xuất tại Việt Nam song nếu sản phẩm nào được gắn
nhãn hiệu nổi tiếng thì sẽ được bán với giá cao hơn rất nhiều tai thị trường EU. Điều
đó có nghĩa là giầy dép dù có chất lượng tốt nhưng không có thương hiệu, không
được biết đến rộng rãi tại EU thì sẽ được bán với giá thấp hơn nhiều so với sản phẩm
cùng loại mà đã có tên tuổi. Điều đó cho thầy tầm quan trọng của việc xây dựng được
thương hiệu cho từng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép. Nhưng
cho tới nay thì giầy dép được sản xuất tai Việt Nam lại hầu hết là gia công cho nước
ngoài phần còn lại thì đều chưa xây dựng được thương hiệu nổi tiếng trong nước chứ
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
10
11
chưa nói đến nước ngoài. Do đó việc cấp thiết lúc này là các doanh nghiệp cần nhanh
chóng đẩy mạnh việc xây dựng chiến lược để phát triển thương hiệu của mình.
Tuy nhiên do các công ty xuất khẩu giầy dép của Việt Nam chủ yếu có quy mô
còn nhỏ bé năng lực sản xuất chưa cao dó để có thể tự xây dựng được thương hiệu
lớn trên thế giới là rất khó khăn, do đó bước đầu các doanh nghiệp nên tập trung vào
khuếch trương thương hiệu chung là giày dép Việt Nam, sau dó mới xây dụng đến
thương hiệu riêng cho doanh nghiệp của mình. Với việc liên kết của hơn 500 doanh
nghiệp trong lĩnh vực giầy dép thì đây quả thực sẽ là một đối thủ mạnh hơn nhiều khi
xây dựng thương hiệu riêng lẻ trên thị trường EU. Trước khi tính đến xây dựng
thương hiệu riêng để hội nhập toàn câu thì ngành da giầy Việt Nam cần phải phấn
đấu để có được một vài công ty lớn, trở thành nhà thầu phụ cho các nhãn hiệu lớn
trên thế giới như Nike, Adidas, Reebook…Nhà thầu phụ ở đây chính là người thực
hiện, biến các ý tưởng của nhãn hiệu toàn cầu thành sản phẩm có chất lượng, mầu
sắc, đường nét cụ thể. Các công ty nhỏ còn lại sẽ trở thành đơn vị gia công cho công
ty lớn.
Ngoài biện pháp tự xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của công ty
mình thì các doanh nghiệp Việt Nam còn có thể thực hiện biện pháp nhượng quyền
kinh doanh. Đây là hình thức rất phổ biến trên thế giới nhưng lại chưa quen thuộc đối
với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh giầy dép của Việt Nam hiện nay. Hình
thức nhượng quyền kinh doanh có hai loại điểm hình là nhượng quyền phân phối sản
phẩm và nhượng quyền sử dụng công thức kinh doanh.
- Hình thức nhượng quyền phân phối sản phẩm là: Các doanh nghiệp sản xuất
và xuất khẩu giầy dép Việt Nam có thể mua giấy phép sử dụng thương hiệu của một
hay nhiều hãng sản xuất giầy dép khác đã có thương hiệu nổi tiếng như của hãng
Nike, Adidas…sau đó có thể tự điều hành hoạt động kinh doanh một cách độc lập
trong một khoảng thời gian nhất định mà ít bị ràng buộc bởi những quy định từ các
doanh nghiệp nhượng quyền. Điều này giúp cho các doanh nghiệp có thể khai thác
được thương hiệu đã nổi tiếng này, không mất nhiều công để xây dựng thương hiệu
cho riêng mình.
- Hình thức nhượng quyền sử dụng công thức kinh doanh là hình thức: Các
doanh nghiệp ngoài việc có thể sử dụng thương hiệu có sẵn mà còn được chuyển giao
thêm các kỹ thuật kinh doanh và cách thức điều hành quản lý. Đây là hình thức kinh
SV: Đặng Thị Thoa_KTQT48B
11