Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Đề án Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (601.42 KB, 66 trang )

BẢN QUYỀN
ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
LỚP TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 45 C
www.TCDN45C.net.tf
www.TCDN45C.vze.com


Tài liệu chỉ được sử dụng vì mục đích nghiên cứu khoa học.
Nghiêm cấm sử dụng với mục đích thương mại.
Xin liên hệ trực tiếp tác giả để biết thêm chi tiết.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
ĐỀ ÁN MÔN HỌC
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài: Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở
các NHTM Việt Nam
Giáo viên hướng dẫn : Th.S Trần Thị Thanh Tú
Sinh viên thực hiện : Phạm Quang Hải
Lớp : Tài Chính Doanh Nghiệp 45C
Hà Nội - 2006
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1.................................................................................................................................................. 4
CƠ SỞ LÝ LUẬN.....................................................................................................................................4
1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM............................................................................ 4
1.1. Khái niệm và đặc điểm tiền gửi trong các NHTM................................................................... 4
1.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM.............................................................................................8
2. Phân loại tiền gửi trong các NHTM................................................................................................. 9
2.1. Tiền gửi không kỳ hạn..............................................................................................................9
2.2. Tiền gửi có kỳ hạn..................................................................................................................13


2.3. Tiền gửi tiết kiệm................................................................................................................... 16
3. Chi phí đối với các loại tiền gửi..................................................................................................... 17
3.1. Chi phí huy động tiền gửi.......................................................................................................17
3.2. Các phương pháp định giá tiền gửi.........................................................................................18
4. Cơ cấu tiền gửi trong một NHTM..................................................................................................25
4.1. Các yếu tố quyết định cơ cấu tiền gửi trong một NHTM.......................................................25
4.2. Cơ cấu tiền gửi trong NHTM................................................................................................. 25
5. Quản lý nguồn tiền gửi...................................................................................................................29
5.1. Quản lý lãi suất:......................................................................................................................30
5.2. Quản lý quy mô và cơ cấu...................................................................................................... 35
5.3. Quản lý kỳ hạn .......................................................................................................................36
5.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn.............................................................................40
CHƯƠNG 2................................................................................................................................................ 49
LIÊN HỆ THỰC TIỄN........................................................................................................................... 49
1. Tình hình huy động và quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam.................................................49
1.1. Thực trạng huy động tiền gửi tại các NHTM Việt Nam........................................................ 50
1.2. Thực trạng quản lý tiền gửi tại các NHTM Việt Nam............................................................56
2. Khả năng ứng dụng các mô hình quản lý tiền gửi tại NHTM Việt Nam....................................... 56
2.1. Quản lý lãi suất ......................................................................................................................57
2.2. Quản lý quy mô và cơ cấu...................................................................................................... 58
2.3. Quản lý kỳ hạn .......................................................................................................................60
2.4. Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn ............................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................63
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
LỜI MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, nền kinh tế nước ta dần được cải thiện, Luật
Doanh nghiệp đã có hiệu lực, cùng với đó là các chính sách của Nhà nước
về khuyến khích phát triển kinh tế trong nước và không ngừng cải thiện
môi trường đầu tư nên ngày càng nhiều doanh nghiệp được thành lập và
mở rộng kinh doanh, nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đã tăng lên. Hiện nay

ở nước ta, thị trường tài chính chưa phải là kênh phân bổ vốn một cách có
hiệu quả, do đó vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh
tế vẫn phải dựa vào nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng. Với vai
trò là một trung gian tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế, các Ngân
hàng thương mại (NHTM) đã trở thành kênh cung ứng vốn hữu hiệu cho
nền kinh tế. Sự thịnh vượng và phát triển của một NHTM căn cứ vào đâu?
Cũng như để hoàn thành tốt vai trò là cầu nối, là “người” cung cấp vốn cho
các doanh nghiệp, cho nền kinh tế, các NHTM phải dựa trên cơ sở nào.
Câu trả lời đó chính là Tiền gửi. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho
vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển của
Ngân hàng (NH).
Xuất phát từ vai trò quan trọng của Tiền gửi đối với mỗi NH nói riêng,
cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, nên em chọn đề tài “Lý
luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM Việt Nam” để có điều kiện
củng cố lại những kiến thức đã học và tiếp xúc với thực tế để biết thêm về
hoạt động của các NHTM hiện nay.
Trên cơ sở kiến thức đã học ở trường, các tài liệu tham khảo, một số
kiến thức có được từ thực tế và qua sách báo em đã thực hiện đề án này.
Kết cấu của đề án gồm hai phần chính:
SVTH: Phạm Quang Hải
2
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Chương 1: Cơ sở lý luận về tiên gửi và quản lý nguồn tiền gửi
Chương 2: Liên hệ thực tiễn hoạt động huy động và quản lý tiền gửi tại
các NHTM Việt Nam.
Hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ của NH là rất đa dạng và
phong phú. Nhưng vì thời gian và khả năng tiếp cận của bản thân có hạn, vì
thế em chưa thể phân tích một cách sâu sắc các hoạt động của NH, nên
phạm vi đề tài của em chỉ tập trung nghiên cứu quá trình huy động và quản
lý tiền gửi của NH. Và cũng do còn thiếu kinh nghiệm nghiên cứu nên đề

án của em vẫn còn những thiếu sót. Em rất mong sẽ nhận được sự đánh giá,
góp ý và sửa chữa của cô.
Em xin chân thành cảm ơn cô.
SVTH: Phạm Quang Hải
3
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái quát chung về nguồn tiền gửi trong NHTM.
1.1. Khái niệm và đặc điểm tiền gửi trong các NHTM
1.1.1. Khái niệm
Lịch sử phát triển hoạt động ngân hàng cho thấy rằng, hình thức ban đầu
của nghiệp vụ tiền gửi là việc nhờ bảo quản những đồng tiền vàng. Người
chủ bảo quản phải đảm bảo trả lại chính những đồng tiền mà họ được
chuyển giao để bảo quản. Tất nhiên trong những điều kiện như vậy, người
bảo quản không thể tiến hành các nghiệp vụ cho vay những đồng tiền nhân
bảo quản đó, và không thể thu lợi nhuận để có thể trả lợi tức cho người gửi
tiền. Dần dần xã hội phát triển đã tạo điều kiện mà người gửi tiền không
yêu cầu phải trả lại chính những đồng tiền mà họ gửi, mà chỉ yêu cầu trả lại
tổng số tiền mà họ gửi. Thời hạn bảo quản cũng kéo dài thêm. Chỉ khi đó
mới xuất hiện khả năng sử dụng số tiền vay mượn đó để cấp tín dụng thu
lợi tức và trả lãi cho người gửi tiền. Nếu như trước đó việc cấp tín dụng
dựa vào vốn tự có, thì bây giờ còn có thể sử dụng vốn vay mượn, đồng thời
phải chú ý tới những điều kiện gửi tiền.
Thông thường người ta xem tiền gửi là các số tiền do khách hàng gửi
vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng. Hiểu như thế chưa trọn
nghĩa
+ Đối với người gửi tiền, ý nghĩa của tiền gửi phụ thuộc vào mục đích
sử dụng của người gửi tiền, có thể tập hợp vào hai trường hợp: (1) Khách

SVTH: Phạm Quang Hải
4
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
hàng gửi tiền xin mở tài khoản để hưởng các lợi ích của các phương tiện
mà ngân hàng cung cấp cho họ. Tiền gửi ở đây là số tiền được gửi vào để
sử dụng cho các nghiệp vụ trong tương lai hoặc do các nghiệp vụ phát sinh
từ trước còn lại. (2) Khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để lấy lãi suất như
các số tiền gửi vào sổ tiết kiệm hay các tài khoản định kỳ. Khi đó khách
hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như dùng séc để
thanh toán chẳng hạn.
+ Đối với Ngân hàng, các loại tiền gửi tạo thành nguồn vốn cung cấp
cho các nghiệp vụ sinh lợi trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Đối với NHTM, có nhiều loại tiền gửi khác nhau, nhưng nó chú trọng
nhiều hơn đến hai nguồn chủ yếu: Tiền gửi của doanh nhân & Tiền gửi của
dân cư.
Qua những điều trình bày ở trên, người ta nhận thấy có khó khăn trong
việc định nghĩa “tiền gửi”. ở các nước phát triển, người ta định nghĩa “tiền
gửi” trong một bản luật: “Được coi là tiền gửi, tiền mà ngân hàng nhận
được của khách hàng bất luận dưới danh từ nào, dù phải trả lãi hay không
trả lãi, với quyền sử dụng tiền đó cho hoạt động kinh doanh của mình và
với bổn phận làm nghiệp vụ ngân quỹ cho người ký gửi, nhất là phải trả
trong giới hạn số tiền nhận được, tất cả những lệnh phải trả tiền của người
tiền gửi bằng séc, lệnh chuyển khoản, thư tín dụng… hay bất cứ bằng cách
nào khác; cũng thâu nhập vào khoản tiền tiền gửi mọi số tiền mà ngân hàng
thu hộ cho người gửi”.
“Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình
thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các
hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải
được hoàn trả cho người gửi tiền”
1

. Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài
nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
tiền của NH.
1
Luật các TCTD 1997: điều 20, khoản 9.
SVTH: Phạm Quang Hải
5
ỏn LT TC-TT Lý lun v thc trng qun lý tin gi cỏc NHTM_VN
Nh vy, v phng din phỏp lý, ngi gi tin cú quyn la chn cỏc
loi tin gi theo yờu cu v c hng cỏc dch v ngõn qu do ngõn
hng cung ng hoc c hng lói sut, ng thi cú ngha v ngõn
hng tu nghi s dng cỏc s tin gi cho hot ng kinh doanh ca ngõn
hng vi cam kt thc hin vic hon tr vo thi im m ngi gi yờu
cu (i vi loi tin gi khụng k hn) hoc vo ngy ỏo hn i vi loi
tin gi cú k hn. Cỏc khỏi nim v tin gi theo quy nh phỏp lý nờu
trờn cú mi liờn quan mt thit vi ti khon ca khỏch hng ti ngõn hng.
Ngy nay ngi gi cú nhiu hỡnh thc gi tin v cú th lm cho ti sn
bng tin sn sinh ra lói theo cỏc d oỏn ca mỡnh.
1.1.2. c im
Tin gi phi c thanh toỏn khi cú s yờu cu ca khỏch hng, ngay
c khi ú l tin gi cú kỡ hn cha n hn. Hot ng nhn tin gi c
nhỡn nhn nh l mt nghip v kinh doanh ca NHTM, vi ni dung ch
yu l nhn tin gi ca khỏch hng thụng qua m cho khỏch hng mt ti
khon nh ti khon gi nh kỡ (tin gi cú k hn), ti khon tin gi
hot k (tin gi khụng k hn) v ti khon tin gi tit kim. Giao dch
nhn tin gi ca NH c hiu l cam kt song phng gia NHTM vi
khỏch hng gi tin, thụng qua vic giao kt hp ng ti khon tin gi.
Giai on u, nú ch n thun l mt hp ng dch v gi gi ti sn,
theo ú NH úng vai trũ l bờn nhn gi gi c nhn thự lao. V sau,
do nhu cu khỏch quan ca hot ng kinh t, gia NH v khỏch hng cú

thờm tho thun NH cú th s dng chớnh s tin ny u t nhm mc
ớch sinh li, vi iu kin l phi hon tr cho ngi s dng tũan b s
vn ó s dng kốm theo mt khon tin lói nht nh tu thuc vo thi
gian m NH gi khon tin ú. Giao dịch nhận tiền gửi đã đợc nhìn nhận là
hành vi vay tiền từ công chúng với cam kết đảm bảo an toàn cho số tiền gửi
đó cùng với nghĩa vụ hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Vic NH gi cỏc khon tin
gi ny cho khỏch hng khụng n thun l mt nghip v gi h ti sn
SVTH: Phm Quang Hi
6
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
hay quản lý tài sản cho khách hàng để nhận thù lao (như giai đoạn khởi
thuỷ) mà quan trọng hơn nó là nghiệp vụ huy động vốn - nghiệp vụ đi vay
của NHTM từ nền kinh tế. Do đó khi người gửi tiền yêu cầu thanh toán thì
NH buộc phải thực hiện nghĩa vụ như đã cam kết trong hợp đồng.
Quy mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường
chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của
ngân hàng. “Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của
Ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp
phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở
chính của các khoản cho vay và do đó, nó là nguồn gốc sâu xa của lợi
nhuận và sự phát triển trong ngân hàng”
2
.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc nên chi phí tiền gửi cao hơn
trả lãi cho tiền gửi. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự trữ
bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh
toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Hiện nay, hầu hết các
nhà quản lý ngân hàng đang phải đối mặt với tình trạng tiến thoái lưỡng
nan trong việc định giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi - nguồn vốn quan
trọng nhất của ngân hàng. Một mặt, ngân hàng phải trả một mức lãi suất đủ

lớn để có thể thu hút và duy trì sự ổn định trong lượng tiền gửi của khách
hàng. Mặt khác, ngân hàng phải cố gắng hạn chế việc trả lãi suất quá cao
bởi vì điều này sẽ làm giảm mức thu nhập tiềm năng của ngân hàng. Hiện
nay, sự cạnh tranh gay gắt trong thị trường cung cấp các dịch vụ tài chính
càng làm cho vấn đề nêu trên trở nên phức tạp hơn bởi vì cạnh tranh có xu
hướng làm tăng chi phí trả lãi tiền gửi trong khi làm giảm thu nhập dự kiến
từ hoạt động đầu tư và cho vay.
ở nhiều nước ngân hàng phải mua bảo hiểm tiền gửi. NH là một tổ chức
có quan hệ mật thiết với các lĩnh vực, ngành kinh tế khác rất chặt chẽ, hơn
nữa các NHTM cũng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết. Do đặc tính
2
Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 459, NXB Tài chính.
SVTH: Phạm Quang Hải
7
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
phải thanh toán khi có yêu cầu của khách hàng nên các NHTM luôn luôn
phải đảm bảo khả năng thanh toán của mình. Khi một NHTM có nguy cơ
sụp đổ rất có thể sẽ dẫn đến hiệu ứng Đôminô đối với các NHTM khác. Vì
vậy một số nước yêu cầu NHTM phải mua bảo hiểm tiền gửi, là để tránh
rủi ro cho khách hàng gửi tiền, tạo tâm lý an toàn hơn cho khách hàng. Như
vậy sẽ đảm bảo an toàn cho cả hệ thống NHTM của quốc gia đó.
1.2. Vai trò của tiền gửi trong NHTM
Các khách hàng doanh nhân thông qua việc mở tài khoản để được ngân
hàng cung ứng các dịch vụ về ngân quỹ, thu chi tài vụ một cách nhanh
chóng và an toàn. Những nghiệp vụ này nếu tự khách hàng đứng ra đảm
trách sẽ tốn rất nhiều công sức và thời gian. Về phía ngân hàng, qua nghiệp
vụ này, cũng thu hút được một số lượng tiền gửi của khách hàng trên tài
khoản và một lệ phí nhất định.
Đối với khách hàng thuộc tầng lớp dân cư, việc mở tài khoản và ký gửi
tiền tại ngân hàng, ngoài việc được ngân hàng cung cấp một số séc để

thuận tiện chi trả, còn được ngân hàng cung ứng một loạt dịch vụ đa dạng
về tài chính có sinh lời. Trong nền kinh tế thị trường, một công dân muốn
tích luỹ vốn trước hết có hai khả năng lựa chọn: hoặc giữ đồng tiền tích luỹ
được của mình trong két sắt, hoặc mua cổ phần (của các công ty cổ phần)
hay mua trái phiếu (của nhà nước và của công ty). Cả hai khả năng này đều
có rủi ro hoặc ít khả năng thanh toán. Do đó, họ phải có cách lựa chọn thứ
ba: gửi tiền vào ngân hàng để vừa gữ được vốn tích lũy của mình tương đối
an toàn, vừa thu được một khoản lợi tức nhất định.
Đối với các NHTM, tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát
triển của Ngân hàng, là khoản mục duy nhất trên Bảng cân đối kế toán giúp
phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Tiền gửi là cơ sở
chính cho các khoản cho vay của NHTM, là nguồn gốc xâu xa của lợi
nhuận và sự phát triển của Ngân hàng. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng
SVTH: Phạm Quang Hải
8
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
phải duy trì sự trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo
khả năng thanh toán, ngân hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Khả
năng huy động tiền gửi với mức lãi suất hợp lý còn là những chỉ số quan
trọng đánh giá tính hiệu quả trong quản lý ngân hàng. Ngoài ra Ngân hàng
còn thu được một khoản lệ phí nhất định.
2. Phân loại tiền gửi trong các NHTM.
2.1. Tiền gửi không kỳ hạn.
Là các loại tiền gửi hoàn toàn theo quy tắc khả dụng, nghĩa là người gửi
có quyền rút tiền vào bất cứ lúc nào họ muốn. Ngân hàng sẽ sắp xếp loại
tiền gửi này vào nhóm tiền gửi không kỳ hạn, nghĩa là các khoản gửi với
thời gian không xác định. Người vừa mới gửi tiền vào sáng nay, nếu cần
anh ta có thể rút ra ngay vào buổi chiều cùng ngày. Nếu không có nhu cầu
sử dụng, anh ta có thể một thời gian sau mới rút ra. Tính bất định về thời
gian gửi, cùng với địa điểm có thể rút ra bất cư lúc nào đã làm cho loại tiền

gửi này có tên gọi theo tiếng Anh là tiền gửi theo yêu cầu.
Tiền gửi không kỳ hạn vào mỗi thời điểm trong các tài khoản không kỳ
hạn của các NHTM tạo khả năng có thể viết séc để chi tiền hoặc chuyển
nhượng khi cần. Vì vậy, tiền gửi không kỳ hạn còn được gọi là tiền trong
tài khoản séc (checking accounts). Khách hàng không có ý định để dành và
cũng không chú trọng đến tiền lãi. Khách hàng chỉ muốn đổi hình thức tiền
tệ này bằng một hình thức tiền tệ khác và thích thanh toán bằng séc hơn là
bằng tiền mặt. Khả năng tiện lợi của tiền gửi không kỳ hạn trong thanh toán
phụ thuộc vào tổ chức và hoạt động của NHTM đã phát hành ra nó. Nếu
gửi tiền vào tài khoản này ở một NHTM có chi nhánh ở khắp nơi trên lãnh
thổ kể cả những vùng xa xôi hẻo lánh nhất, thì séc do chủ tài khoản viết ra
có hiệu lực thanh toán và được chấp nhận nhanh chẳng kém gì tiền mặt. Đó
là lý do để tiền gửi không kỳ hạn được xem là loại hình gần tiền mặt nhất
SVTH: Phạm Quang Hải
9
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
trong tất cả các loại tiền của NHTM. Khả năng chuyển đổi từ nó sang tiền
mặt là nhanh nhất vào bất cứ lúc nào và vì thế ở các nước phát triển, người
ta xem nó như là một loại tiền mạnh. Tuy nhiên, nếu ngân hàng mà chúng
ta gửi tiền vào có quá ít chi nhánh hoặc không quan hệ tốt với các ngân
hàng khác, séc của nó do chúng ta viết ra được chấp nhận trong thanh toán
ở vùng này, nhưng chưa chắc đã được chấp nhận ở các vùng khác. Có lẽ vì
lý do này mà ở các nước mới phát triển, tiền séc vẫn chưa được xem là tiền
mạnh.
Tiền gửi loại này có thể phát xuất từ khách hàng là một thương nhân
hay từ một công dân bình thường. Việc phân biệt giữa các tài khoản vãng
lai (current account) mở cho thương nhân và các tài khoản sec (checking
account) mở cho công dân rất cần thiết cho ngân hàng không những về mặt
pháp lý mà cả về mặt kỹ thuật. Khoản tiền khách hàng gửi vào thực chất là
một khoản khách hàng cho ngân hàng vay. Ngân hàng sẽ phải trả lãi cho

khách hàng hàng tháng mặc dù rất thấp. Do đó, đối với ngân hàng nó là
một khoản nợ, khoản nợ này sẽ được trả theo nhu cầu của người gửi.
Xã hội càng phát triển càng có tính đa dạng. Và vì thế, ở các nước phát
triển, sự tồn tại nhiều loại tiền gửi không kỳ hạn để thỏa mãn tất cả những
nhu cầu đa dạng của xã hội, của cá nhân là điều tất nhiên. ở các nước này,
tiền gửi không kỳ hạn bao gồm:
a) Tiền gửi dùng séc (đã được trình bày ở trên) (checking deposits).
b) Tiền gửi rút tiền tự động hay tiền gửi thông dụng (ordinary deposits)
thực hiện qua máy rút tiền (canh dispensers) máy nhận rút và chuyển tiền
tự động (automated teller machine... máy ATM).
c) Tài khoản ATS (automatic transfer service account) tài khoản phối
hợp tài khoản tiết kiệm và tài khoản séc ở Mỹ.
d) Tiền gửi có thông tri (deposits at notice), tiền gửi hẹn rút (deposits at
call) hay tiền gửi có báo trước (dépôts à préavis): là loại tiền gửi không có
SVTH: Phạm Quang Hải
10
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
qui định một kỳ hạn nào, nhưng các bên có thỏa thuận việc thông báo trước
(từ 8 đến 5 ngày). Xuất hiện câu hỏi là việc thông báo trước, có làm biến
mất tính chất khả dụng, nghĩa là làm cho khoản tiền gửi mất tính chất pháp
lý cơ bản của nó chăng ?
- Xét về khía cạnh kinh tế, thông tri báo trước một vài ngày nhằm mục
đích giúp cho ngân hàng có thời gian gom đủ số tiền cần thiết cho việc
thanh toán, thì tiền gửi có báo trước đúng là một loại tiền gửi.
- Xét về phương diện pháp lý, tiền gửi có báo trước không cho phép
khách hàng sử dụng sec để rút tiền trong các tài khoản có báo trước. Do đó
tiền gửi có báo trước phụ thuộc quy tắc cho vay. Những loại tiền gửi có báo
trước thường cũng được trả lãi; nhưng thấp hơn so với các tiền gửi có kỳ
hạn.
Có nhiều ngân hàng đã dung hợp hai lối tiền gửi có kỳ hạn và báo trước.

Khách hàng lúc gửi tiền ấn định một kỳ hạn, nhưng gặp khi cần tiền có thể
rút tiền trước kỳ hạn miễn là báo trước mấy ngày hoặc một tuần, tùy theo
số tiền lớn hay nhỏ.
đ) Tài khoản NOW: Ra đời ở Anh trong thập kỷ 70 của thế kỷ 20, sự kết
hợp giữa tiền gửi giao dịch không hường lãi và tiền gửi tiết kiệm đã xuất
hiện dưới hình thức tài khoản NOW - negotiable order of withdrawal - tài
khoản lệnh rút tiền có thể thương lượng. NOW là tài khoản giao dịch được
hưởng lãi, do đó nó cho phép Ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải thông
báo trước về việc rút tiền. Do đòi hỏi này ít khi được thực hiện nên NOW
được sừ dụng như là một tài khoản phát séc để chi trả cho việc mua hàng
hoá và dịch vụ. Từ năm 1981, NOW được chấp nhận rộng rãi trên toàn
nước Mỹ theo Luật về Phi quản lý hoá. Các tổ chức nhận tiền gửi
(Depository Institutions Deregulation Act of 1980). Tuy nhiên loại tài
khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các tổ chức phi lợi
nhuận (nonprofit institutions). Khi NOW được chấp nhận trên toàn nước
SVTH: Phạm Quang Hải
11
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Mỹ, chính phủ Mỹ cho phép ngân hàng thực hiện nghiệp vụ chuyển vốn tự
động, trong đó khách hàng uỷ quyền trước (preauthorize) cho ngân hàng
trong việc chuyển vốn từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản séc đền bù đắp
thấu chi (overdraft). Kết quả cuối cùng là khách hàng hưởng lãi trên tài
khoản giao dịch tương đương với lãi thu được từ tài khoản tiền tiết kiệm.
e) Tài khoản MMDA: “Với việc thông qua Đạo luật về các tổ chức nhận
tiền gửi Garn-st Germain năm 1982, hai loại hình tài khoản giao dịch
hưởng lãi quan trọng được hình thành. Ngân hàng và các tổ chức tiết kiệm
phi Ngân hàng có thể đưa ra một loại hình tiền gửi mới để cạnh tranh với
tài khoản đầu tư chứng khoán có lãi suất cao hơn, được cung cấp bởi các
quỹ trên thị trường tiền tệ và được bảo đảm bằng không danh mục đầu tư
chứng khoán có chất lượng cao. Kết quả là đưa tới sự ra đời của tài khoản

tiền gửi trên thị trường tiền tệ (MMDA) và tài khoản Super NOW”
3
. Hai
loại tài khoản này trả lãi theo lãi suất trên thị trường tiền tệ và khách hàng
có thể thực hiện thanh toán cho các giao dịch mua hàng hoá và dịch vụ
thông qua việc phát séc hay hối phiếu uỷ quyền trước (preauthorised draft).
MMDA là tài khoản tiền gửi thời hạn ngắn, có thể là vài ngày, vài tuần
hay vài tháng và Ngân hàng có thể trả lãi suất ở mức đủ lớn để thu hút và
nắm giữ tiền gửi của khách hàng. Có tới sáu hối phiếu uỷ quyền trước được
phép thực hiện trong một tháng nhưng số lượng séc phát hành chỉ được
giới hạn là 3 lần. Đối với lệnh rút tiền cá nhân thì không có hạn chế (mặc
dù ngân hàng có quyền đặt mức tối đa cho quy mô tiền rút và cho số lượng
lệnh rút tiền cá nhân). Không như NOW, MMDA có thể được nắm giữ bởi
cả doanh nghiệp và cá nhân.
g) Tài khoản Super NOW (SNOW) ra đời gần như cùng thời gian với
MMDA. nhưng tài khoản này chỉ có thể được nắm giữ bởi cá nhân và các
tổ chức phi lợi nhuận. Không có quy định nào hạn chế số lượng séc người
gửi tiền có thể phát hành. Tuy nhiên, Ngân hàng áp dụng một mức lãi đối
3
Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 461, NXB Tài chính.
SVTH: Phạm Quang Hải
12
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
với SNOW thấp hơn cả với MMDA bởi vì SNOW có thể được phát séc
thường xuyên hơn. Do dó, các nhà quản lý trung ương xếp MMDA vào
nhóm tiền gửi tiết kiệm. Tuy vậy, chúng ta xếp lài khoản loại này vào phần
tài khoản giao dịch vì chúng có đặc quyền phát séc.
đ) Tiền gửi đặc biệt.
Nhằm phát triển tiền gửi, một số ngân hàng áp dụng loại tiền gửi đặc
biệt với các nội dung sau:

- Các bên có thể thỏa thuận về số tiền gửi sẽ được phong tỏa. Thông
thường thì các vụ rút tiền được quì định trong phạm vì một phần số tiền
gửi, người gửi cam kết không sử dụng vào phần tối thiểu qui định. Đối với
các số tiền phong tỏa, người ta sẽ áp dụng lãi suất cao hơn. Nếu khách hàng
rút tiền ra trước ngày đã dự định, thì hoặc không được hưởng lãi suất hoặc
hưởng một lãi suất thấp.
- Có khi khách hàng ký gửi một số tiền vào ngân hàng để chuẩn bị cho
một doanh vụ đã có dự định trước. Cũng có khi dùng loại tiền gửi này để
tạo một bảo đảm cho chính ngân hàng hay một bên thứ ba, hoặc tiền gửi
được dùng để tạo một khoản dự phòng để trả lãi công trái, hoặc là các
khoản tiền đã được gửi nhằm dể mua các chứng khoán, để dự đính vào vốn
của một công ty dang thành lập hoặc tăng vốn hay là để thanh toán một hối
phiếu.
Qua các giả thuyết trên đây chỉ kể ra một số mà thôi..., có thể thấy tiền
gửi ngân hàng phụ thuộc cho một nghiệp vụ pháp lý khác.
2.2. Tiền gửi có kỳ hạn.
Là loại tiền gửi được ủy thác vào ngân hàng mà có sự thỏa thuận về thời
gian rút tiền giữa khách hàng và ngân hàng. Như vậy, về nguyên tắc, khách
hàng gửi tiền chỉ được rút tiền ra, khi đến hạn đã thỏa thuận.
SVTH: Phạm Quang Hải
13
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Thực ra, các loại tiền gửi định kỳ này không phải là những tiền gửi theo
nghĩa của pháp lý, mà nó có dạng như một khoản tiền vay của ngân hàng
nhưng không thể hiện bằng một phiếu khoán. Nó là một ngoại lệ của quy
tắc khả dụng, bởi vì ngân hàng chỉ phải hoàn lại số tiền tiền gửi vào ngày
đáo hạn ghi trên hợp đồng. Tiền gửi có kỳ hạn có những đặc điểm sau:
+ Tên gọi "có kỳ hạn" có nghĩa là khoản tiền được gửi sẽ có thời gian
gửi tối thiểu theo thỏa thuận giữa ngân hàng và thân chủ, và không được
rút ra trước hạn kỳ đã định nói trên. Nếu vì lý do đặc biệt phải rút tiền ra

trước hạn kỳ, NHTM có một trong ba cách xử lý: 1) Từ chối. Họ đã từng
có quyền làm như vậy trước đây, bởi vì việc gửi tiền của khách hàng là một
hợp đồng cho vay với thời hạn đã thống nhất. Khi khách hàng đòi lại trước
thời hạn, điều đó sẽ gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tuy nhiên, thông thường ngân hàng áp dụng hai cách mềm dẻo hơn, là 2)
yêu cầu khách hàng phải báo trước, ít nhất một khoảng thời gian nào đó về
ý định rút tiền và 3) với những yêu cầu rút tiền đột xuất như vậy, khoản lãi
suất mà ngân hàng trả cho tiền gửi của khách hàng sẽ rất thấp, do khách
hàng phải chịu lãi suất phạt vì đã lâm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh
của ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế hiện nay do áp lực của cạnh tranh, ngân
hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn với điều kiện hàng lãi
suất tiền gửi không kỳ hạn, hoặc ngân hàng có thể cho vay bằng cách mở
một tài khoản đặc biệt cho việc này trong giới hạn số dư tài khoản tiền gửi
định kỳ của khách hàng.
+ Xuất phát từ loại hình tiền gửi có kỳ hạn, một khái niệm được hình
thành đó là "thời gian đáo hạn" hay "đến hạn (maturity) thanh toán" của các
loại chứng thư tiền gửi. Khi khách hàng gửi tiền vào một ngân hàng tại tài
khoản có kỳ hạn 3 tháng rồi nhận một cuốn passbook (quyển sổ) do ngân
hàng cấp, hoặc dùng tiền, mua một trái phiếu tiết kiệm (savings bong) cũng
của chính ngân hàng đó phát ra với thời hạn thanh toán sau ba tháng. Hai
việc làm này tính chất không khác nhau, ngoại trừ một điểm là trái phiếu
SVTH: Phạm Quang Hải
14
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
không được đổi lại thành tiền mặt nửa chừng như passbook: Vấn đề cơ bản
ở đây là cả hai loại chứng thư này đều có thời hạn thanh toán tiền mặt về
nguyên tắc là đến ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Đúng hơn, khách hàng
chỉ có thể và chỉ có quyền (theo hợp đồng) dùng các loại chứng thư nói trên
để đổi trở lại thành tiền mặt vào ngày cuối cùng của tháng thứ ba. Ngày nói
trên là ngày đáo hạn. Khoảng thời gian hay kỳ hạn ba tháng của chứng thư

được gọi là "thời gian đến hạn" kể từ ngày chứng thư được phát ra. Thời
gian đến hạn của các khoản gửi có kỳ hạn như tiền tiết kiệm passbook và
các loại trái phiếu khác là tiêu chuẩn hay cơ sở để đánh giá khả năng thanh
tiêu của các loại tài sản nói trên. Khả năng thanh tiêu là khả năng chuyển
đổi trở lại thành tiền mặt của các loại tài sản mà chúng ta sở hữu. Với cách
xác định như thế, một khoản gửi có kỳ hạn hoặc một trái phiếu tiết kiệm ba
tháng có khả năng thanh tiêu cao hơn rất nhiều lần so với một khoản gửi
hoặc một trái phiếu cố thời gian đến hạn 10 năm.
+ Tiền gửi có kỳ hạn được hưởng lãi suất cố định. Tuy nhiên, giữa các
loại tiền gửi có kỳ hạn khác nhau lãi suất được trả sẽ khác nhau. Tiền gửi
có kỳ hạn với thời gian càng lâu, lãi suất sẽ càng lớn bởi vì ngân hàng hoàn
toàn có thể dùng tiền gửi này đem đầu tư vào những dịch vụ hoặc sản xuất
có tính lâu dài hơn, lợi tức cao và ổn định hơn; Lãi suất mà ngân hàng trả
cho tiền gửi có kỳ hạn thường là cao hơn nhiều so với tiền gửi không kỳ
hạn. Lý do ở đây là, ngân hàng hoàn toàn yên tâm sử dụng tiền gửi của
khách hàng để cho vay với thời hạn ổn định và sẽ kiếm được nhiều lợi
nhuận hơn. Vì thế tiền thù lao nó trả cho khách hàng cũng phải cao hơn để
kích thích sự gửi tiền nhiều nữa.
Khác với tiền gửi không kỳ hạn (tiền gửi thanh toán), tiền gửi định kỳ là
tiền tạm thời chưa sử dụng hoặc là tiền để dành của cá nhân, vì vậy mục
đích gửi tiền vào ngân hàng là nhằm tìm kiếm lợi tức. Tiền gửi có kỳ hạn
thường phụ thuộc vào ba thông số chính: 1) Lãi suất do các NHTM trả cao
hay thấp, 2) lãi suất của các loại hình đầu tư khác như trái phiếu, cổ phiếu...
SVTH: Phạm Quang Hải
15
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
và 3) thu nhập của nhân dân. Thông số đầu tiên là quan trọng nhất. Vì thế
việc đưa ra chiến lược lãi suất như thể nào để thu hút được vốn nhiều và
kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kỹ trị của
các NHTM.

Tiền gửi có kỳ hạn thường dưới các dạng:
a) các chứng chỉ tiền gửi (Certificate of depoits – CD).
b) Chứng thư tiết kiệm (savings certificates).
c)Trái phiếu tiết kiệm.
2.3. Tiền gửi tiết kiệm.
Tiền gửi tiết kiệm (savings deposits) hay tài khoản dùng sổ (passbook
account). Một khoản ký thác dưới hình thức tiết kiệm rất đa dạng và phổ
biến trong nền kinh tế được NHTM huy động là các khoản tiền tiết kiệm
trong xã hội, Loại ký thác này có dặc điểm: người gửi tham gia gửi tiền vào
ngân hàng rất dông, nhưng số tiền gửi từng lần thường ít, về số lượng tuyệt
đối lại rất lớn, chiếm tỷ trọng rất quan trọng trong cơ cấu vốn ký thác huy
động được. Thông thường có hai loại tiền gửi tiết kiệm sau:
a) Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
b) Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
Nguồn vốn từ loại tiết kiệm không kỳ hạn có lãi suất thấp, làm cho lãi
suất đầu vào của ngân hàng rất thấp và rất có lợi khi cho vay.
Việc điều hành các tài khoản này, tại phần lớn các nước được qui định
như sau: Các sổ tiết kiệm chỉ được mở cho các thể nhân và chỉ mở một sổ
cho mỗi người. Người gửi tiền, khi mở sổ tiết kiệm, phải cam đoan chưa
mở một tài khoản tiết kiệm nào ở một ngân hàng khác.
- Số dư tối đa của sổ tiết kiệm cũng được qui định cụ thể cho từng thời
kỳ.
SVTH: Phạm Quang Hải
16
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Các nghiệp vụ cho phép thực hiện được hạn chế tối đa: chỉ có thể gửi
tiền mặt và chỉ có chủ tài khoản mới được rút tiền, không cấp tập sec.
- Các nghiệp vụ thực hiện phải chẵn số, nghĩa là phải là bội số của l00đ
hay l000đ chẳng hạn.
3. Chi phí đối với các loại tiền gửi.

3.1. Chi phí huy động tiền gửi.
Mỗi loại tiền gửi mà chúng ta đã nghiên cứu đều mang một mức lãi suất
khác nhau. Lãi suất sẽ quyết định chi phí, và chi phí cho các nguồn tiền gửi
khác nhau có sự khác nhau. Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân
hàng sẽ huy động vốn bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí
thấp nhất, hay thu nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi
này là lớn nhất sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy
động toàn bộ tiền gửi từ các nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các
tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ tối đa hoá mức chênh lệch lãi
suất, và có thể tối đa hoá thu nhập ròng của cổ đông. Nhưng đâu là nguồn
tiền gửi có chi phí tháp nhất? Và loại tiền gửi nào tạo ra thu nhập ròng cao
nhất? Khoản chi phí lớn nhất cho đến nay là lãi tiền gửi có kỳ hạn và tiết
kiệm. Khoản chi phí này năm 1986 chiếm hơn 50% tổng chi phí của các
NHTM năm đó
Nói chung, theo lý thuyết giá trị của tiền theo thời gian và theo mối
quan hệ tỷ lệ thuận trong đường cong thu nhập thì tiền gửi có kỳ hạn thanh
toán càng dài sẽ tạo ra mức lãi càng cao cho người gửi tiền. Ví dụ. tài
khoản NOW và tài khoản tiết kiệm đều có thể được rút tiền ngay lập tức, và
do đó khách hàng được hưởng mức lãi thấp nhất trong số tất cả các loại
tiền. Ngược lại ngân hàng trả lãi suất tiền gửi cao nhất cho chứng chỉ tiền
gửi có thể chuyển nhượng với kỳ hạn một năm hoặc dài hơn.
SVTH: Phạm Quang Hải
17
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
Quy mô và mức độ rủi ro trong hoạt động của ngân hàng cũng đóng một
vai trò quan trọng trong việc hình thành lãi suất tiền gửi. Ví dụ các ngân
hàng ở New York, Lon don hay Tokyo nhờ vào quy mô lớn và sức mạnh
tài chính nên có thể thu hút tiền gửi ở mức lãi suất bình quân thấp nhất,
trong khi lãi suất được thông báo tại các ngân hàng khác thường cao hơn.
Những yếu tố quan trọng là triết lý về Marketing và mục tiêu của việc cung

cấp các dịch vụ ngân hàng. Ngân hàng nào quyết định chọn mục tiêu là
cạnh tranh giành tiền gửi sẽ luôn luôn đặt ra mức lãi suất cao hơn để kéo
khách hàng khỏi các đối thủ cạnh tranh. Ngược lại khi ngân hàng muốn hạn
chế quy mô của một loại hình tiền gửi nào đó, ngân hàng sẽ hạ lãi suất
công bố thấp hơn mức lãi suất của các đối thủ cạnh tranh đưa ra.
3.2. Các phương pháp định giá tiền gửi.
3.2.1. Định giá tiền gửi theo phương pháp tổng hợp chi phí - thu nhập
Trong hoạt động ngân hàng ngày nay, các nhà quản lý nhìn chung
không chấp nhận quan điểm cho rằng khách hàng là người phải chịu toàn
bộ chi phí dịch vụ liên quan đến tiền gửi. Cho đến vài năm gần đây, luận
điểm "khách hàng nên được sử dụng miễn phí các dịch vụ về tiền gửi"
được xem như một đường lối khôn ngoan nhằm đối phó với sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt phía các trung gian tài chính khác trên thị trường truyền
thống của ngân hàng. Tuy nhiên, rất nhiều ngân hàng đã sớm nghi ngờ tính
hiệu quả của chiến lược Marketing mới này bởi vì nó làm gia tăng số lượng
các tài khoản có số dư nhỏ với mức độ nhạy cảm cao và do đó buộc ngân
hàng phải đối mặt với tình trạng bùng nổ trong chi phí hoạt động.
Sự phát triển của tiền gửi thanh toán hưởng lãi, đặc biệt là tiền gửi trong
tài khoản NOW đã tạo cơ hội cho các ngân hàng xem xét lại phương pháp
định giá đối với các dịch vụ về tiền gửi. Thật không may, nhiều ngân hàng
mới tham gia thị trường đã liều lĩnh chấp nhận định giá dưới mức chi phí
nhằm mở rộng nguồn vốn tiền gửi. Khách hàng chỉ phải trả một khoản lệ
SVTH: Phạm Quang Hải
18
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
phí nhỏ, thấp hơn chi phí hoạt động và chi phí quản lý chung cho việc cung
cấp các khoản tiền gửi giao dịch và các khoản tiền gửi khác. Kết quả là tỷ
lệ thu nhập khách hàng được hưởng tăng lên đáng kể, người ta gọi đây là
lãi suất ẩn – chênh lệch giữa chi phí cho việc cung cấp dịch vụ tiền gửi và
số tiền thực tế khách hàng phải thanh toán.

“Ở Mỹ, việc thay đổi lãi suất ẩn là phương pháp cạnh tranh chủ yếu mà
hầu hết các ngân hàng thực hiện nhằm tăng cường khả năng huy động tiền
gửi tiền gửi suốt 50 năm từ sau Đại khủng hoảng kinh tế tới những năm
đầu thập kỷ 80. Sự ra đời của đạo luật Glass Steagal năm 1933 quy định về
lãi suất trần áp dụng cho tiền gửi chính là nguyên nhân khiến cho phương
pháp cạnh tranh này trở nên phổ biến. Thông qua luật này, chính phủ muốn
bảo vệ hệ thống ngân hàng tránh khỏi một mức lãi suất quá cao, điều đó có
thể đẩy ngân hàng tới chỗ phá sản. Tuy nhiên, các ngân hàng Mỹ lại
chuyển từ cạnh tranh về lãi suất danh nghĩa sang cạnh tranh về thu nhập
tiềm ẩn thông qua các dịch vụ như ngân hàng cam kết trả phí cả đi lẫn về
cho các dịch vụ của mình hay thiết lập các hệ thống chi nhánh nhằm đáp
ứng tốt các yêu cầu của khách hàng. Không may, phương pháp cạnh tranh
phi giá cả (nonprice competition) như vậy đã bóp méo sự phân bổ nguồn
lực khan hiếm trong lĩnh vực ngân hàng. Cuối cùng, đến năm 1980 Quốc
hội đã phải thông qua Đạo luật phi quản lý hoá các tổ chức nhận tiền gửi
(Depository Institutions Deregulation) nhằm đối phó với tình trạng này.
Đạo luật mới thông qua ung hộ việc từng bước xoá bỏ lãi suất trần. Ngày
nay, ở Mỹ và ở cả các quốc gia công nghiệp hàng đầu khác, việc định giá
tiền gửi không còn là trách nhiệm của nhà chức trách nữa mà nó đã được
chuyển sang cho khu vực tư nhân - ngân hàng và khách hàng của họ”
4
.
Việc định giá dịch vụ diễn ra linh hoạt hơn sau khi những quy định về
lãi suất trần được xoá bỏ. Do cạnh tranh ngày càng gay gắt cùng với sự
tăng lên của lệ phí bảo hiểm, chi phí trung bình của ngân hàng cho một
4
Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 492, NXB Tài chính.
SVTH: Phạm Quang Hải
19
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN

khoản tiền gửi đã tăng lên. Điều này có nghĩa là ngân hàng tiến hành định
giá tiền gửi độc lập, tách biệt khỏi các khoản cho vay và các dịch vụ khác.
Đồng thời, mỗi dịch vụ liên quan tới tiền gửi thường được định giá sao cho
khoản thu đủ bù đắp tất cả hoặc phần lớn chi phi cho việc cung cấp dịch vụ
đó. Giá của các dịch vụ này được xác định theo công thức tổng hợp chi phí
- thu nhập như sau:
Giá khách
hàng phải trả
cho 1 đơn vị
dịch vụ tiền gửi
=
Chi phí
hoạt động cho
1 đơn vị dịch
vụ tiền gửi
+
Chi phí quản lý
cung dự tính phân
bổ cho bộ phận
nhận tiền gửi
+
Định
mức lợi
nhuận từ 1
đơn vị dịch
vụ tiền gửi
Phương pháp định giá theo chi phí như công thức trên khuyến khích các
ngân hàng đặt giá sát hơn với chi phí và loại bỏ nhiều dịch vụ trước đây
miễn phí. Ví dụ, ngày càng nhiều ngân hàng Mỹ áp đặt phí cho dịch vụ
chấp nhận thấu chi, tăng lệ phí đối với các tờ séc bị máy rút tiền tự động

ATM, tính phí hàng tháng cho việc duy trì tài khoản kể cả đối với tài khoản
tiết kiệm nhỏ, đồng thời nâng cao mức quy định về số dư tiền gửi tối thiểu.
Trong hầu hết các trường hợp, những khoản phí dịch vụ này dường như
tăng nhanh hơn tỷ lệ lạm phát. Kết quả của những xu hướng này nói chung
có lợi cho ngân hàng, thu nhập từ phí dịch vụ vượt trội tổn thất do những
khách hàng khó tính đóng tài khoản của họ tại ngân hàng.
3.2.2. Sử dụng chi phí cận biên để xác định lãi suất tiền gửi
Nhiều nhà phân tích tài chính cho rằng nếu như điều kiện cho phép, các
ngân hàng không nên dùng chỉ tiêu chi phí bình quân mà nên sử dụng chi
tiêu chi phí cận biên – chi phí tăng thêm cho một đồng vốn mới - trong việc
định giá các khoản tiền gửi và các nguồn vốn khác của ngân hàng. Lý do ở
đây là sự thay đổi liên tục của lãi suất sẽ làm cho chi phí trung bình trở
thành một tiêu chuẩn không trung thực và phi thực tế trong việc định giá
tiền gửi. Ví dụ, nếu lãi suất đang giảm, chi phí tăng thêm (chi phí cận biên
biên) để huy dộng một nguồn vốn mới có thể giảm đáng kể, xuống dưới
SVTH: Phạm Quang Hải
20
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
mức chi phí nguồn vốn bình quân của ngân hàng. Một số khoản tín dụng và
đầu tư có thể được coi là không sinh lợi khi đánh giá theo chi phí nguồn
vốn trung bình nhưng lại có thể là sinh lợi nếu đánh giá theo chỉ tiêu chi
phí lãi cận biên bởi vì hiện tại ngân hàng đang huy dộng vốn với lãi suất
thấp hơn để thực hiện các khoản tín dụng và đầu tư này. Trái lại khi lãi suất
đang tăng, chi phí cận biên của các khoản vốn mới có thể lớn hơn chi phí
nguồn vốn trung bình đáng kể. Nếu việc xét duyệt những khoản cho vay
mới được thực hiện trên cơ sở chi phí trung bình thì khả năng sinh lời của
các khoản cho vay này có thể sẽ rất hạn chế khi đánh giá theo chi phí huy
động vốn cận biên - một chỉ tiêu đã tăng rất nhanh trong những năm gần
đây.
Thật vậy, “nguyên nhân của một trong những vụ phá sản được biết tới

nhiều nhất trong lịch sử - Vụ sụp đổ của Franklin National Banh of New
York năm 1974 - cũng một phần bắt nguồn từ chiến lược quản lý mà theo
dó nhà quản lý so sánh tỷ lệ thu nhập dự tính của các khoản tín dụng mới
với chi phí nguồn vốn trung bình. Nếu thu nhập dự tính của khoản tín dụng
lớn hơn chi phí nguồn vốn trung bình từ 1 % trở lên, cán bộ tín dụng của
Franklin được phép cho vay. Không may. khi lãi suất huy dộng vốn tăng
lên đáng kể thì 0,5% lợi nhuận biên của Franklin so với chi phí trung bình
trở lên quá nhỏ bé. Thu nhập thực tế từ một lượng lớn các khoản tín dụng
và đầu tư khổng lồ không đủ bù đắp chi phí nguồn vốn hiện tại. Điều này
đã làm suy giảm vốn tự có của Franklin”
5
.
“Nhà kinh tế học James E. Mc Nulty đã khuyên các ngân hàng nên sử
dụng phương pháp chi phí cận biên để xác định lãi suất cho các tài khoản
tiền gửi mới. Để hiểu rõ phương pháp xác định giá theo chi phí cận biên do
Mc Nulty đề xướng hãy giả định rằng một ngân hàng dự lính sẽ huy động
dược 25 triệu USD tiền gửi khi đặt lãi suất ở mức 7%. Nhà quản lý dự đoán
rằng nếu ngân hàng nâng lãi suất lên 7,5%, 8%, 8,5% và 9% thì lượng tiền
5
Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 499, NXB Tài chính.
SVTH: Phạm Quang Hải
21
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
gửi sẽ tăng lên tương ứng là 50 triệu USD, 75 triệu USD, 100 triệu USD và
125 triệu USD. Lượng tiền này bao gồm các khoản tiền gửi mới và các
khoản tiền gửi hiện có ở ngân hàng được khách hàng giữ lại để hưởng lãi
suất cao hơn. Giả định là nhà quản lý tin rằng việc đầu tư bằng các khoản
tiền gửi mới sẽ mang lại tỷ lệ thu nhập là 10%, đây chính là thu nhập cận
biên - thu nhập gia tăng từ việc cho vay hay đầu tư bằng nguồn vốn mới
huy dộng. Với giả định này, ngân hàng nên đặt lãi suất tiền gửi ở mức

nào?”
6
3.2.3. Phương pháp định giá xâm nhập thị trường.
Xâm nhập thị trường là một phương pháp định giá không nhấn mạnh tới
vấn đề lợi nhuận, ít nhất là ngắn hạn. Ý tưởng ở đây là nâng cao lãi suất,
thường là cao hơn hẳn mặt bằng lãi suất thị trường hoặc thu phí dịch vụ
thấp hơn mức phí thị trường để có thể thu hút được số lượng khách hàng tối
đa. Nhà quản lý hy vọng rằng sự gia tăng nhanh chóng của quy mô tiền gửi
và của những khoản tín dụng sẽ bù đắp một phần sự giảm sút trong lợi
nhuận cận biên. Với chiến lược này, ngân hàng muốn tối đa hóa thị phần
tron một thị trường đang tăng trưởng nhanh chóng.
Đối với khách hàng, chọn ra được một ngân hàng có đủ uy tín để gửi
tiền là một công việc rất tốn kém. Do vậy, khách hàng thường tập trung
mua dịch vụ của một ngân hàng. Một tài khoản tiền gửi có thể là điều kiện
nền tảng cho các khoản vay, dịch vụ ủy thác và các dịch vụ khác. Việc cắt
đứt quan hệ thường gây ra những thiệt hại lớn nên khách hàng có xu hướng
trung thành với ngân hàng họ đã lựa chọn. Bởi vậy, tiền gửi có thể được
xem là một yếu tố ổn định tiền gửi hoạt động ngân hàng. Tiền gửi thường
kém nhạy cảm hơn các nguồn tiền khác trước những thay đổi trong lệ phí,
lãi suất và chính sách huy động vốn của ngân hàng đối thủ. Nếu ngân hàng
có thể đưa ra lãi suất cao hơn mức bình quân thị trường trong một thời gian
đủ dài để tạo ra sự trung thành của khách hàng thì trong tương lai, khách
6
Peter S.Rore, 2004, Quản trị Ngân hàng thương mại, trang 499, NXB Tài chính.
SVTH: Phạm Quang Hải
22
Đề án LT TC-TT Lý luận và thực trạng quản lý tiền gửi ở các NHTM_VN
hàng vẫn sẽ gửi tiền vào ngân hàng dù rằng lãi suất mà ngân hàng đưa ra
không còn cao như trước. Chi phí không nhỏ cho việc lựa chọn và thay đổi
ngân hàng là nguyên nhân giải thích cho hành vi nêu trên của khách hàng.

Trên thực tế, sự thất bại của các ngân hàng trong chiến lược thu hút
thêm tiền gửi bằng cách giảm lệ phí hoặc nâng cao lãi suất bắt nguồn từ
tính ổn định tương đối của tiền gửi: khách hàng thường không thay đổi
ngân hàng ngay lập tức bởi vì chi phí và rủi ro cho sự thay đổi này là không
nhỏ. Các công ty và các hộ gia đình trước khi quyết định gửi tiền vào một
ngân hàng nào đều xem xét đến rất nhiều yếu tố, không chỉ có lãi suất.
3.2.4. Phương pháp Bảng tỷ lệ phí tiền gửi.
Khách hàng sẽ phải trả một khoản lệ phí rất nhỏ thậm chí là không phải
trả lệ phí nếu số dư tiền gửi bình quân của họ cao hơn một mức nhất định
hoặc khách hàng sẽ phải trả lệ phí cao hơn nếu số dư tài khoản trung bình
thấp hơn mức giới hạn. Do đó, mức giá dịch vụ mà khách hàng phải trả phụ
thuộc vào việc anh ta sử dụng tiền gửi như thế nào
Giá các dịch vụ liên quan đến tiền gửi thay đổi trên cơ sở một hoặc một
số những yếu tố sau:
+ Số lần giao dịch thực hiện qua tài khoản (số séc được viết, số tiền gửi
vào, số lần chuyển tiền, số lệnh ngừng trả hay số lần thấu chi).
+ Số dư tài khoản trung bình trong một thời kỳ nhất định (thường là một
tháng).
+ Kỳ hạn của tiền gửi theo ngày, tuần, hoặc tháng.
Khách hàng phải lựa chọn ngân hàng và xây dựng kế hoạch tiền gửi sao
cho mức lệ phí là thấp nhất và (hoặc) nhận được thu nhập cao nhất trên cơ
sở dự kiến về số séc viết, số tiền gửi vào và rút ra cũng như số dư trung
bình của tài khoản. Đương nhiên khách hàng cũng phải xem xét tới các
khía cạnh khác như mức độ an toàn và sự sẵn có của các dịch vụ.
SVTH: Phạm Quang Hải
23

×