Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.54 KB, 29 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HIỆU QUẢ XUẤT KHẨU
HÀNG HỐ CỦA DOANH NGHIỆP XUẤT NHẬP KHẨU
1.1.Khái niệm, vai trị và các hình thức xuất khẩu hàng hóa ở doanh nghiệp

1.1.1.Khái niệm
Xuất khẩu là một quá trình thu doanh lợi bằng cách đưa các sản phẩm hoặc
dịch vụ ra khỏi thị trường trong nước và bán chúng ở các thị trường nước ngoài
khác với thị trường trong nước.
Hoạt động xuất khẩu đã ra đời từ rất lâu và nó chính là phương thức phổ
biến nhất với mức độ rủi ro và chi phí thấp để thâm nhập thị trường quốc tế.
Xuất khẩu thực chất là hoạt động bán hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho nước
ngoài trên cơ sở sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh tốn.
1.1.2.Vai trị của xuất khẩu ở doanh nghiệp
Xu hướng hội nhập vào nền kinh tế cùng với sự phát triển của phân công
lao động xã hội và phân công lao động hợp tác quốc tế đã làm cho hoạt động
xuất khẩu ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Ba động cơ chủ yếu để các công ty tham gia kinh doanh quốc tế là:
- Tăng doanh số bán hàng: hầu hết các công ty lớn sử dụng xuất khẩu như
là cách thức để tăng doanh số bán hàng khi thị trường trong nước bão hồ.
- Đa dạng hố thị trường đầu ra: thị trường đầu ra được đa dạng nó có thể
ổn định luồng tiền của cơng ty để thanh tốn cho các nhà cung cấp từ các khách
hàng đa dạng hơn. Các công ty có nguồn thu từ nước ngồi đều có thể đa dạng
thị trường bán hàng và luồng tiền của mình.
- Thu được các kinh nghiệm quốc tế: các nhà kinh doanh và nhà quản lý sẽ
thu được nhiều kiến thức qua việc tiến hành kinh doanh quốc tế. Trong những
môi trường văn hố kinh tế và chính trị khác nhau thì việc sử dụng xuất khẩu
như là một cách thức để có được các kinh nghiệm quốc tế với chi phí và rủi ro
thấp


Xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu về một khoản ngoại tệ phục vụ cho


cơng tác nhập khẩu. Ngồi ra xuất khẩu cịn góp phần tăng tích luỹ vốn, mở
rộng sản xuất tăng thu nhập cho doanh nghiệp nói riêng, nên kinh tế nói chung.
Thơng qua xuất khẩu, hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước sẽ tham
gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng, cuộc cạnh
tranh này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu
sản xuất ln thích nghi được với thị trường quốc tế
Thơng qua xuất khẩu, doanh nghiệp nói riêng, nền kinh tế nói chung mở
rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới; khai thác có hiệu quả lợi thế
tương đối và tuyệt đối của đất nước từ đó kích thích các ngành kinh tế phát
triển.
1.1.3.Các hình thức xuất khẩu hàng hố ở doanh nghiệp
1.1.3.1.Xuất khẩu tại chỗ

Là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu ngay tại chính đất nước mình để
thu ngoại tệ thông qua việc giao hàng bán cho các doanh nghiệp đang hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam theo sự chỉ định của thương nhân nước ngoài; hoặc bán
hàng sang khu chế xuất hoặc các xí nghiệp chế xuất đang hoạt động trên lãnh
thổ Việt Nam.
Ưu điểm của hình thức này là làm tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm rủi ro
trong kinh doanh xuất khẩu, giảm được các chi phí trong kinh doanh xuất khẩu
như chi phí vận tải, chi phí bảo hiểm hàng hố, đồng thời được hưởng ưu đãi về
thuế . Bên cạnh đó, người kinh doanh xuất khẩu cũng không cần am hiểu kỹ các
luật pháp quốc tế cũng như các tập quán thương mại của các nước khác. Tuy
nhiên, hình thức xuất khẩu này cũng có những hạn chế nhất định: Thủ tục xuất
khẩu khá phức tạp; thời gian xử lý hoàn thuế GTGT quá lâu. Với các nguyên
nhiên vật liệu sản xuất tại chỗ phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực của
nền kinh tế; đây là cuộc cạnh tranh mà thông thường chúng ta bị thua do giá sản
phẩm trong nước thường cao hơn giá nhập khẩu của sản phẩm đó từ nước ngoài



vào; và như vậy không phát huy được thế mạnh của chúng ta là cung ứng sản
phẩm tại chỗ cho các doanh nghiệp FDI.
Do vậy, hình thức xuất khẩu tại chỗ thường được áp dụng tại những doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thực hiện xuất khẩu tại chỗ hàng hoá do
doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam; thương nhân Việt Nam có tiềm lực kinh tế
mạnh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi khác có nhu cầu nhập khẩu
tị chỗ khi mới tiếp cận thị trường.
1.1.3.2.Gia công xuất khẩu

Là một phương thức sản xuất hàng xuất khẩu, trong đó người đặt gia cơng
ở nước ngồi cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu hoặc bán thành phẩm
theo mẫu và định mức cho trước; người nhận gia cơng trong nước tổ chức q
trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách. Toàn bộ sản phẩm làm ra người
nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền công. Đây là hình
thức thích hợp với các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện vốn đầu tư hạn
chế, chưa am hiểu về pháp luật quốc tế, chưa có thương hiệu, kiểu dáng công
nghiệp nổi tiếng; thông qua hoạt động này để tận dụng nguồn lao động dồi dào,
tận dụng cơ sở nhà xưởng, máy móc, sử dụng nguyên phụ liệu, vật tư sẵn có
trong nước hoặc nhập khẩu từ các nước khác nhau, sử dụng thương hiệu, kênh
phân phối hàng hoá của bên đặt gia cơng ở nước ngồi. Bên cạnh đó, rủi ro
trong hình thức xuất khẩu này cũng ít hơn vì đầu vào và đầu ra của quá trình
kinh doanh đều do phía đối tác đặt gia cơng nước ngồi lo. Và có thể nói, đây là
hình thức giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, thu ngoại tệ.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của hình thức gia cơng hàng hố xuất
khẩu, có thể thấy rằng, đây là loại hoạt động rất khó kiểm sốt đối với cơ quan
nhà nước, bị phụ thuộc nhiều vào đối tác nước ngồi đặt gia cơng; ngoại tệ thu
được chủ yếu là tiền gia công, mà đơn giá gia công ngày một giảm trong điều
kiện cạnh tranh lớn giữa các đơn vị nhận gia công.
1.1.3.3.Xuất khẩu uỷ thác



Đây là hình thức doanh nghiệp xuất khẩu kinh doanh dịch vụ thương mại
thơng qua nhận xuất khẩu hàng hóa cho một doanh nghiệp khác và được hưởng
phí trên việc xuất khẩu đó. Ở khía cạnh nào đó, hình thức này làm tăng tiềm lực
kinh doanh xuất khẩu cho công ty nhận uỷ thác như duy trì khách hàng, thị
trường…đồng thời phát triển hoạt động thương mại dịch vụ, tăng thu nhập cho
doanh nghiệp mà không cần đầu tư nhiều vốn. Nhưng mặt khác, doanh nghiệp
nhận uỷ thác lại phụ thuộc hồn tồn vào đối tác, nên tính chủ động trong tiếp
cận thị trường kém (không nắm bắt được nhu cầu của thị trường, khiến sản
phẩm làm ra không tiêu thụ được, giá xuất khẩu quá thấp so với giá bán thực
tế)và có thể phải liên đới chịu trách nhiệm trong các tranh chấp thương mại. Vì
vậy, nhiều doanh nghiệp nhận uỷ thác đã bị thiệt hại khơng ít khi quá phụ thuộc
vào các đối tác trung gian.
1.1.3.4.Xuất khẩu qua đại lý ở nước ngồi

Là hình thức doanh nghiệp có hàng xuất khẩu thuê doanh nghiệp nước
ngoài làm đại lý bán hàng hố của mình để thu ngoại tệ về. Ưu điểm của hình
thức này là doanh nghiệp khơng cần đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt
động thương mại ở nước ngồi mà vẫn có thể thâm nhập sâu và rộng vào thị
trường khu vực và thế giới; phát triển thương hiệu và thị phần ở nước ngồi;
chịu ít rủi ro khi thâm nhập vào thị trường nước ngồi. Tuy nhiên, nếu khơng
am hiểu tận tường đối tác nhận đại lý hoặc không ký hợp đồng đại lý chặt chẽ,
dễ bị chiếm dụng vốn (do đối tác khơng trả) và giải quyết có yếu tố nước ngồi
phức tạp; tốn nhiều chi phí th người quản lý có năng lực ở nước ngồi. Do
vậy, hình thức này chỉ nên áp dụng với các cơng ty có thương hiệu và kiểu dáng
cơng nghiệp, thiết kế sản phẩm có uy tín nhưng chưa biết cách tiếp cận thị
trường nước ngồi.
1.1.3.5.Tạm nhập tái xuất

Hình thức kinh doanh tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua bán hàng

hoá của một nước để bán cho một nước khác trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng
hố ngoại thương, có làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam, rồi làm thủ


tục xuất khẩu mà không qua khâu chế biến. Mọi hình thức tạm nhập nhằm mục
đích dự hội chợ, triển lãm hoặc sửa chữa máy móc, phương tiện theo quy định
của hợp đồng hợp tác đầu tư, liên doanh sản xuất… để rồi tái xuất không được
coi là kinh doanh theo hình thức tạm nhập để tái xuất.
1.1.3.6.Chuyển khẩu

Được hiểu là việc mua hàng của một nước (nước xuất khẩu) để bán cho
một nước khác (nước nhập khẩu) mà không làm thủ tục nhập khẩu vào Việt
Nam và không làm thủ tục xuất khẩu từ Việt Nam.
Đặc điểm của hình thức này là mặt hàng kinh doanh phụ thuộc vào chính
sách mặt hàng của nước bên bán và của nước bên mua, theo thơng lệ và tập
qn quốc tế. Vì vậy nó địi hỏi thương nhân phải am hiểu thị trường, luật lệ, giá
cả, các phương thức thanh toán quốc tế của nhiều nước. Doanh nghiệp kinh
doanh xuất khẩu theo hình thức này có thể kiếm lợi nhuận mà khơng cần bỏ
vốn, đồng thời không phải nộp thuế xuất nhập khẩu, tuy nhiên cũng phải chịu
nhiều rủi ro do phải vận chuyển nhiều.


1.1.3.7.Thương mại biên giới

Đây là hình thức trong đó các hoạt động mua, bán trao đổi hàng hóa diễn
ra ở khu vực biên giới các nước láng giềng, bao gồm: mua bán chính ngạch, tiểu
ngạch, mua bán ở chợ biên giới, mua bán của cư dân biên giới.
1.2.Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở Doanh nghiệp

1.2.1.Lập kế hoạch xuất khẩu.

Khi bắt tay vào một chiến lược xuất khẩu một hay một nhóm loại hàng hóa
nào đó, doanh nghiệp cần phải tiến hành lập kế hoạch xuất khẩu với trình tự và
nội dung cơ bản như sau:
Một là, đánh giá các điều kiện nội tại của Doanh nghiệp. Mục đích của
bước này là tìm ra điểm mạnh và điểm yếu trong kinh doanh của doanh nghiệp
để từ đó có thể đầu tư vào những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu của
doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần có đánh giá đúng đắn về những kết quả đã đạt
được, những lợi thế cạnh tranh hoặc những điểm mạnh mà doanh nghiệp tin
chắc có thể làm tốt hơn những đối thủ cạnh tranh khác; đồng thời cũng cần nhìn
nhận và đánh giá đúng đắn những điểm yếu trong cạnh tranh của doanh nghiệp
mình.
Hai là, đánh giá các điều kiện và yếu tố bên ngoài. Sau khi tiến hành đánh
giá, phân tích các điều kiện bên trong, cần nghiên cứu những yếu tố bên ngồi
có ảnh hưởng đến việc xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp: tiềm năng của thị
trường; yếu tố cạnh tranh; mơi trường chính sách, pháp luật; mơi trường kinh tế
và kinh doanh; mơi trường văn hố xã hội; môi trường kỹ thuật; hệ thống phân
phối…
Ba là, nghiên cứu sản phẩm. Doanh nghiệp cần định ra những sản phẩm,
dịch vụ mà doanh nghiệp có thể tìm được thị trường nước ngoài để tiêu thụ với
những đặc điểm về bao gói, chất lượng, hình dạng vật lý, cách thức sử dụng, …
Bốn là, phân tích SWOT. Sau khi thu thập các dữ liệu thông tin ở các bước
trên, cần thực hiện tổng kết và phân tích để chỉ ra điểm mạnh - yếu, cơ hội thách thức đối với doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp tập trung và


phát huy những điểm mạnh, giảm thiểu những điểm ýêu của mình, từ đó đầu tư
vốn vào các cơ hội thị trường.
Năm là, xác định các nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công của
thương vụ xuất khẩu.
Sáu là, đặt ra những mục tiêu, chiến lược và kế hoạch hành động.
Bảy là, đánh giá mức độ sẵn sàng xuất khẩu của doanh nghiệp, như là: kỹ

năng, kinh nghiệm có liên quan đến xuất khẩu; các mối liên hệ giữa doanh
nghiệp và thị trường xuất khẩu mục tiêu; khả năng tài chính; nhân lực và thời
gian…
1.2.2.Nghiên cứu thị trường xuất khẩu
Cũng như trong các hoạt động kinh doanh khác, vai trò của nghiên cứu thị
trường trong xuất nhập khẩu rất quan trọng. Nó giúp doanh nghiệp đánh giá
chính xác về thị trường xuất nhập khẩu, có nguồn thơng tin toàn diện, chuẩn
xác làm nền tảng cho chiến lược marketing xuất nhập khẩu. Nếu không thực
hiện nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu hoặc thực hiện sơ sài, doanh nghiệp
sẽ phải đối mặt với những rủi ro rất lớn.
Trong việc nghiên cứu này, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần
nắm vững những nội dung sau: điều kiện chính trị - thương mại chung, luật
pháp và chính sách bn bán, điều kiện về tiền tệ và tín dụng, điều kiện vận tải
và tình hình giá cước…Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần nắm vững những
điều có liên quan đến mặt hàng kinh doanh của mình trên thị trường nước ngồi
đó, như: dung lượng thị trường, tập quán và thị hiếu tiêu dung, những kênh tiêu
thụ (các phương thức tiêu thụ), sự biến động giá cả…
Khi nghiên cứu những nội dung trên, người ta áp dụng hai phương pháp
chủ yếu là nghiên cứu tại văn phòng (điều tra qua tài liệu, sách báo…) và điều
tra thực địa. Ngoài hai phương pháp này, người ta cịn có thể sử dụng các
phương pháp như: mua, bán thử; mua dịch vụ thông tin của các cơng ty điều tra
tín dụng; thơng qua người thứ ba để tìm hiểu khách hàng v.v...


1.2.3.Định giá xuất khẩu

Giá cả là yếu tố quan trọng trong giao dịch ngoại thương. Do vậy, việc xác
định giá xuất khẩu như thế nào hết sức có ý nghĩa đối với doanh nghiệp, nó là
cơ sở để doanh nghiệp tiến hành các bước giao dịch hay đàm phán kí kết hợp
đồng. Doanh nghiệp cần lưu ý rằng nếu giá xuất khẩu được đính giá quá thấp so

với giá nên xuất thì sẽ bị giảm lợi nhuận; cịn nếu định giá cao hơn giá nên bán
thì ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm.
Thông thường trong xuất khẩu việc xác định giá thường dựa trên phương pháp sai biệt phí tổn.

1. Giá thành chế tạo (manufacturing cost) + các chi phí xuất khẩu
(special exporting cost) = giá thành sản xuất (factory cost)
2. Giá thành sản xuất – thuế được hoàn lại = giá thành sản xuất thuần
3. Giá thành xuất khẩu + lợi nhuận + chi phí bán hàng = giá xuất
xưởng (Ex Works Price).
4. Giá xuất xưởng + chi phí vận tải nội địa + các chi phí lưu kho, lưu
bãi cầu cảng, bốc xếp = giá FOB
5. Giá FOB + chi phí vận tải = giá CFR
6. Giá CFR + phí bảo hiểm = giá CIF
Ngồi ra cịn cần phải cộng thêm chi phí khác như : phí ngân hàng, phí ký quỹ (phí bảo đảm);
ngoại hối kỳ hạn (cost of forward exchange cover); các phí EFIC v.v...

1.2.4.Giao dịch và đàm phán, tiến tới kí kết hợp đồng xuất khẩu
Để tiến tới ký kết hợp đồng mua bán với nhau, người xuất khẩu và người
nhập thường phải qua một quá trình giao dịch, thương thảo về các điều kiện
giao dịch. Q trình đó gồm các bước chính sau:
- Hỏi hàng (hỏi giá): Là việc người mua gửi tới một hay một nhóm người
cung cấp về những hàng hố mình quan tâm hoặc có nhu cầu.
- Chào hàng: Là việc người bán gửi tới một (chào hàng cố định) hoặc một
nhóm (chào hàng tự do) người mua những thơng tin về hàng hố của mình
nhằm giới thiệu và thu hút người mua quan tâm tới hàng hoá của doanh nghiệp


mình. Đơn chào hàng cần rõ ràng và hấp dẫn, không chỉ thể hiện ở giá thấp hay
sự giảm giá, mà có thể ở cả dịch vụ cung cấp cho người mua, phẩm chất hàng
tốt, điều kiện thanh tốn có lợi cho người mua.

- Đặt hàng: là đề nghị chắc chắn về việc ký kết hợp đồng, xuất phát từ
người mua. Khi đặt hàng, cần xác định chính xác tên hàng, phẩm chất, quy
cách, số lượng hàng cần đặt mua…
1.2.5.Thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương đã được ký kết, các bên
tham gia ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là cơng việc rất phức
tạp vì nó địi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được
quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của doanh nghiệp xuất nhập
khẩu. Về mặt kinh doanh, trong quá trình thực hiện các khâu công việc để thực
hiện hợp đồng, doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải cố gắng tiết kiệm
chi phí lưu thơng, nâng cao tính doanh lợi và hiệu quả của toàn bộ nghiệp vụ
giao dịch.
Để thực hiện một hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp phải tiến hành các
khâu công việc sau đây:
Giục mở L/C và kiểm tra L/C (nếu hợp đồng quy định sử dụng phương
thức tín dụng chứng từ), xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hóa, thuê tàu
hoặc lưu cước, kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá, làm thủ tục hải quan, gian
hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toàn và giải quyết khiếu nại (nếu
có).
1.3.Hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng hố ở Doanh nghiệp

1.3.1.Quan niệm về hiệu quả xuất khẩu hàng hoá ở DN
1.3.1.1.Phạm trù hiệu quả kinh tế trong doanh nghiệp.

Ngày nay, người ta thường sử dụng rất nhiều đến thuật ngữ “hiệu quả” khi
đánh giá khả năng làm việc của một hoặc một nhóm người, đánh giá tình hình
thực hiện của một công việc hay đánh giá hoạt động của một ngành, một lĩnh


vực…Vậy “hiệu quả” là gì? Căn cứ vào đâu để đánh giá một người, một doanh

nghiệp, một ngành…hoạt động có hiệu quả hay không?
Thực tế, phạm trù “hiệu quả” đã xuất hiện từ xã hội chiếm hữu nô lệ,
nhưng cho đến nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả, xuất phát
từ hình thái xã hội, hồn cảnh lịch sử và góc độ nghiên cứu khác nhau.
Theo quan điểm của nhà kinh tế học người Anh, Adam Smith thì “hiệu quả
là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hoá”.
Cách hiểu này đã đồng nhất hiệu quả với kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh, do đó sẽ khơng giải thích được sự gia tăng doanh thu của doanh nghiệp
là do tăng chi phí, mở rộng các nguồn lực sản xuất hay do tăng năng suất lao
động…Và như vậy, nếu hai hoạt động có cùng một mức kết quả nhưng có hai
mức chi phí khác nhau thì theo quan điểm này, chúng vẫn có cùng hiệu quả.
Quan điểm thứ hai cho rằng “hiệu quả là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng
thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí”. Quan điểm này mặc dù biểu
hiện được mối quan hệ giữa kết quả bổ sung và chi phí bổ sung, nhưng trong
thực tế, các sự vật và hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ, tác động
qua lại chứ không tồn tại một cách độc lập riêng rẽ. Vì vậy, trong kinh doanh,
các yếu tố tăng thêm có quan hệ mật thiết với các yếu tố sẵn có, nên khi đánh
giá hiệu quả khơng thể chỉ xem xét phần tăng thêm của kết quả và chi phí.
Quan điểm thứ ba lại cho rằng hiệu quả là trình độ sử dụng các yếu tố cần
thiết tham gia vào hoạt động nhằm đạt mục tiêu nhất định, “hiệu quả được đo
bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Quan điểm
này đã phản ánh được mối quan hệ bản chất hiệu quả kinh tế , gắn kết quả với
chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là trình độ sử dụng các chi phí. Tuy nhiên, nó
vẫn chưa biểu hiện một cách toàn diện mối tương quan về lượng và chất giữa
kết quả với chi phí và chưa phản ánh mức độ chặt chẽ của mối liên hệ này. Vì
để tạo ra kết quả của một hoạt động, một quá trình nào đó khơng chỉ có chi phí
mà cịn cả các nguồn được huy động hay được sử dụng. Trong khi đó, để phản
ánh được tình hình sử dụng các nguồn lực, chúng ta phải cố định một trong hai



yếu tố là kết quả đạt được hoặc chi phí bỏ ra. Nhưng theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, các yếu tố này không ở trạng thái tĩnh mà luôn vận động và
biến đổi.
Một quan điểm nữa cho rằng “hiệu quả là mối tương quan giữa đầu vào
các yếu tố khan hiếm với đầu ra hàng hoá và dịch vụ”.
Như vậy, có thể thấy, mặc dù “hiệu quả” là một phạm trù quen thuộc trong
bất kỳ hoạt động nào của con người, của một tổ chức, của toàn xã hội, nhưng ở
mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi giác độ nghiên cứu lại có những quan điểm khác
nhau về hiệu quả.
Trong nền kinh tế Xã hội chủ nghĩa, để làm sáng tỏ bản chất của khái niệm
hiệu quả, chúng ta cần phải xuất phát từ những luận điểm của triết học Mác Lênin. Có nghĩa là, phải xem xét tới tính biện chứng của các yếu tố kết quả đạt
được và các chi phí nguồn lực bỏ ra, sau đó là mức độ phản ánh mối liên hệ
giữa các hiện tượng.
Theo nghĩa tổng quát, hiệu quả của một hoạt động, một q trình nào đó
được hiểu là mối quan hệ so sánh giữa kết quả - gắn với mục đích - và chi phí gắn với nguồn lực được sử dụng. Như vậy, phạm trù hiệu quả phán ánh mối liên
hệ tương hỗ giữa mục đích, kết quả, chí phí và nguồn lực trong hoạt động hay
q trình được nghiên cứu.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với mức độ cạnh tranh gay gắt như
ngày nay, việc thực hiện tốt chế độ hạch toán kinh tế, bảo đảm lấy thu bù chi và
có lãi trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá và dịch vụ là cơ sở để các
thành phần kinh tế, các doanh nghiệp tồn tại và phát triển khi tham gia các hoạt
động kinh tế trong mơi trường kinh tế quốc dân nói riêng, mơi trường kinh tế
quốc tế nói chung. Điều này địi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu
quả và luôn đặt hiệu quả làm mối quan tâm hàng đầu.
Đối với một doanh nghiệp, khi đánh giá hiệu quả, người ta thường xét đến
hiệu quả xuất khẩu và hiệu quả kinh tế.


Hiệu quả xã hội là những lợi ích mà doanh nghiệp tạo ra, đem lại cho xã
hội trong hoạt động kinh doanh của mình. Những khía cạnh thường thấy khi

đánh giá hiệu quả xã hội của doanh nghiệp là vấn đề giải quyết cơng ăn việc
làm trong phạm vi tồn xã hội hoặc trong từng khu vực kinh tế, giảm số người
thất nghiệp, nâng cao mức sống cho nhân dân, nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần cho nhân dân, vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khoẻ người dân…
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội trong lĩnh
vực thương mại thông qua những chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật được xác định bằng tỷ
lệ so sánh giữa các đại lượng phán ánh kết quả đạt được về kinh tế với các đại
lượng phản ánh chi phí đã bỏ ra hoặc nguồn vật lực đã được huy động vào trong
lĩnh vực kinh doanh.
Hiệu quả kinh tế được xác định thông qua việc so sánh giữa các chỉ tiêu
phản ánh kết quả kinh doanh và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Về giá trị tuyệt đối:

Về giá trị tương đối:

1.3.1.2.Hiệu quả kinh tế ngoại thương

Hiệu quả hoạt động ngoại thương của một đất nước là hiệu quả kinh tế - xã
hội thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, là quan hệ so sánh giữa kết quả (về hai
mặt giá trị và giá trị sử dụng) theo mục đích với nguồn lực để thực hiện các hoạt
động lưu thông đối ngoại về hàng hoá và dịch vụ.
Như vậy, hiệu quả hoạt động ngoại thương là tồn bộ lợi ích mà ngoại
thương mang lại cho đất nước, bao gồm lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế. Lợi ích
về xã hội của ngoại thương đối với nền kinh tế quốc dân được xác định thông


qua sự đóng góp vào cơng cuộc xây dựng và cải tạo cơ cấu, cân đối nền kinh tế
quốc dân, phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành
sản xuất kinh doanh, tăng tổng sẩn phẩm quốc nội. Lợi ích kinh tế của hoạt
động ngoại thương là hiệu quả hoạt động ngoại thương xét về nội dung kinh tế,

là phần lợi ích tài chính thu được trong hoạt động xuất nhập khẩu của mỗi nước
thơng qua việc đối sánh trực tiếp chí phí với kết quả.
1.3.1.3.Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu

Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu được hiểu là phần hiệu quả kinh tế ngoại
thương thơng qua xuất khẩu, là phần lợi ích tài chính thu được trong xuất khẩu
hàng hố và dịch vụ của mỗi nước (hoặc mỗi doanh nghiệp xuất nhập khẩu)
thông qua việc so sánh trực tiếp kết quả với chi phí.
Trong đó, kết quả kinh doanh xuất khẩu là tổng doanh thu hàng hoá, tổng
lợi nhuận, tổng giá trị tài sản gia tăng sau một thương vụ xuất khẩu hoặc một
khoảng thời gian nhất định như tháng, quý, năm; chi phí kinh doanh là tồn bộ
chi phí để có được hàng hoá xuất khẩu, bao gồm giá mua vào sản phẩm, các chi
phí cần thiết khác như chi phí phí hồn thiện sản phẩm, chi phí hành chính
khác…Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng, đặc điểm của đồng tiền thanh tốn trong
xuất nhập khẩu là ngoại tệ, chứ khơng phải là đồng tiền bản tệ, do đó để tính
đúng được hiệu quả kinh tế ta cần phải quy đổi về cùng một đơn vị tiền tệ, lấy
tỷ giá hối đoái tại thời điểm thực hiện hợp đồng và tỷ giá hối đối khi tính hiệu
quả, nếu có chênh lệch phải cộng (trừ) vào kết quả hoạt động kinh doanh xuất
khẩu của doanh nghiệp.
Để đánh giá được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu, cần phải xem xét một
cách toàn diện cả về thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả
chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân., nhất là trong giai đoạn hiện này. Với
đường lối chính sách mở cửa của nước ta, để tạo đà cho sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hố đất nước, hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng
để thực hiện những nhiệm vụ, chủ trương mà Đảng đã để ra.


Về mặt thời gian, hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn,
thời kỳ không được làm giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, thời kỳ tiếp theo.
Tức là doanh nghiệp phải quan tâm đến lợi ích lâu dài, khơng vì lợi ích trước

mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài. Khơng thể coi việc giảm chi phí tăng
doanh thu là có hiệu quả được khi giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc như:
giảm chi phí đào tạo nhân lực, sử dụng đầu vào chất lượng thấp làm gây hại
đến môi trường, đến sức khoẻ người lao động và cộng đồng…
Về mặt không gian, hiệu quả kinh doanh xuất khẩu được coi là có hiệu quả
khi nó khơng làm ảnh hưởng đến các hoạt động kinh doanh khác trong nội bộ
ngành và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hiệu quả củahd xuất khẩu phải
phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Tóm lại, đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả mà doanh nghiệp
đạt được phải gắn chặt với hiệu quả của toàn xã hội. Đạt được hiệu quả cao là
chưa đủ mà còn phải mang lại hiệu quả cho xã hội cả về hai mặt kinh tế và xã
hội. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích nhận thức
đúng đắn về trình độ, năng lượng và chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp.
Từ đó tìm ra những tồn tại, những ngun nhân ảnh hưởng đến hiệu quả kinh
doanh để đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục và giúp doanh nghiệp đưa
ra được những phương án kinh doanh hiệu quả nhất.
1.3.2.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hoá ở DN
Khi xét đến hiệu quả xuất khẩu là xét đến mối tương quan giữa kết quả
xuất khẩu và chi phí xuất khẩu, tỷ lệ này càng lớn thì hiệu quả xuất khẩu càng
cao, tỷ lệ này nhỏ hơn 1, rõ ràng xuất khẩu khơng có hiệu quả vì kết quả khơng
đủ bù đắp chi phí. Do đó, trong hoạt động xuất khẩu, vấn đề không phải chỉ là
chũng ta xuất khẩu được bao nhiêu tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng là bao nhiêu, mà
cịn phải tính đến những chi phí đã bỏ ra để có được kết quả xuất khẩu như vậy.
Để nâng cao hiệu quả xuất khẩu, một mặt chúng ta phải tìm cách nâng cao kết
quả xuất khẩu, nhưng mặt khác quan trọng hơn là phải giảm được chi phí xuất
khẩu một cách hợp lý. Kết quả xuất khẩu có thể khơng tăng nhưng việc làm


giảm chi phí xuất khẩu sẽ làm tăng hiệu quả xuất khẩu. Vì vậy việc nâng cao
hiệu xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ đối với hoạt động sản xuất

kinh doanh của cơng ty mà cịn có ý nghĩa đối với toàn xã hội.
1.3.2.1. Nâng cao hiệu quả xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nói
chung và là cơ sở đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp .

Xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, do đó việc nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất
khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh chung của doanh nghiệp. Đồng
thời, nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp gia tăng lợi
nhuận, có thể bù đắp cho các hoạt động khác làm ăn kém, nhờ đó doanh nghiệp
có thể duy trì hoạt động kinh doanh của mình. Bên cạnh đó, nâng cao hiệu quả
hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể đầu tư chiều sâu,
đổi mới công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành, phát
triển thị trường… từ đó, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, củng cố thêm
sức mạnh và uy tín cho doanh nghiệp trên thị trường.
1.3.2.2. Nâng cao hiệu quả xuất khẩu là nhân tố góp phần nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp.

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cùng với cơ chế kinh tế thị trường đang
diễn ra như hiện nay làm cho yếu tố cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh
diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, mọi lĩnh vực, mọi hoạt động. Nó có thể làm cho
doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ hơn hoặc cũng có thể làm cho doanh nghiệp
bị phá sản một cách nhanh chóng.
Đối với hoạt động xuất khẩu, mức độ cạnh tranh khốc liệt hơn bất kỳ hoạt
động kinh doanh nào khác. Doanh nghiệp xuất khẩu không phải chỉ cạnh tranh
với các doanh nghiệp kinh doanh cùng ngành, cùng lĩnh vực, cùng mặt hàng
trong cùng một quốc gia mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp ở các
quốc gia xuất khẩu khác và các doanh nghiệp bản địa tại thị trường xuất khẩu.
Do đó, để có thể tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh, doanh nghiệp phải thực



hiện tốt tất cả các khâu trong quá trình xuất khẩu hàng hố, như: thu thập và xử
lý thơng tin nhanh chóng, chính xác giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian và
chi phí, từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn; công tác hậu cần đầu
vào phải đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu với chi phí tiết kiệm, hạn chế tối
đa những tổn thất trong quá trình thu gom, vận chuyển và lưu kho…; phải làm
tốt công tác quản lý, phát huy tối đa năng lực của người lao động…Nhờ đó, hạ
giá thành sản phẩm, gia tăng lợi nhuận và tăng cường khả năng cạnh tranh của
mình.
1.3.2.3. Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu hàng hố ở doanh nghiệp góp phần
phát triển nền kinh tế đất nước và gia tăng lợi ích xã hội.

Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu được cải thiện và nâng cao sẽ làm gia
tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp, nhờ đó làm tăng thu nhập cho người lao động.
Người lao động có động lực và điều kiện để làm việc tốt hơn, được đào tạo để
nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và đời sống của họ nhờ đó cũng được cải thiện
và nâng cao.
Bên cạnh đó, phần lợi nhuận gia tăng từ việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
xuất khẩu sẽ góp phần tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư tái sản xuất mở
rộng, tăng quy mô hoạt động xuất khẩu. Nhờ vậy, tạo ra công ăn việc làm cho
người lao động, góp phần nâng cao mức sống xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp, đói
nghèo và tệ nạn xã hội.
Đối với nền kinh tế nói chung, việc nâng cao hiệu quả xuất khẩu không chỉ
làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, mang lại nguồn ngoại tệ lớn hơn
để đầu tư phát triển, mà cịn góp phần khơng nhỏ vào việc thúc đẩy các ngành
kinh tế khác phát triển và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng cơng
nghiệp hố - hiện đại hố.


1.3.3.Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu hàng hoá ở DN

1.3.3.1 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu tổng hợp

a) Chỉ tiêu tuyệt đối
Hiệu quả

=

Doanh thu xuất khẩu

-

Chi phí xuất khẩu

Chỉ tiêu này thực tế phản ánh lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu mà công ty đạt được trong một thời kỳ
nhất định.

b) Chỉ tiêu tương đối
* Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả theo doanh thu
Doanh thu xuất khẩu
HXK =
Chi phí xuất khẩu

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng chi phí xuất khẩu mang lại bao nhiêu đồng
doanh thu từ hoạt động xuất khẩu. Chỉ tiêu này càng lớn, nghĩa là trình độ sử
dụng các nguồn lực tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh càng
tốt và ngược lại, chỉ tiêu này càng nhỏ thì trình độ sử dụng các yếu tố chi phí
càng kém hiệu quả.
* Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu
Lợi nhuận xuất khẩu
H1 =

Doanh thu xuất khẩu

Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu xuất khẩu mang lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận xuất khẩu.
* Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận theo chi phí


H2 =

Lợi nhuận xuất khẩu
Chi phí xuất khẩu

Chỉ tiêu này cho phép doanh nghiệp xác định được một đồng chi phí mang
lại bao nhiêu đồng lợi nhuận, cho phép đánh giá sâu hơn hiệu quả hoạt động
xuất khẩu vì lợi nhuận mới là cái doanh nghiệp được giữ lại, là nguồn để trả
lương cho nhân viên, đầu tư cải tiến máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng và lập nên
các quỹ cho doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả kinh tế càng cao.
* Tỷ suất ngoại tệ xuất khẩu
Chi phí xuất khẩu ( nội tệ )
H2 =

Doanh thu xuất khẩu( ngoại tệ )

Chỉ tiêu này cho biết phải chi ra bao nhiêu đồng nội tệ để có một đồng
ngoại tệ. Nếu tỷ số này nhỏ hơn tỷ giá hối đối thì xuất khẩu khơng có hiệu quả.
1.3.3.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xuất khẩu bộ phận
a) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Doanh thu xuất khẩu
Sức sản xuất của

vốn lưu động

=

Vốn lưu động

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu xuất khẩu.
Lợi nhuận xuất khẩu
Vốn lưu động
Sức sinh lời của vốn lưu động


=

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động đem lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận xuất khẩu.
Vốn lưu động
Giá trị sản xuất cơng nghiệp
Suất hao phí vốn lưu động
=

=

Chỉ tiêu này phản ánh bao nhiêu đồng vốn lưu động thì tạo ra một đơn vị
hàng hố xuất khẩu.
* Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định

Sức sản xuất của
vốn cố động


Doanh thu xuất khẩu
=
Vốn cố định

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu xuất khẩu.

Sức sinh lời của
vốn cố định

Lợi nhuận xuất khẩu
=

Vốn cố định


Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định đem lại bao nhiêu đồng lợi
nhuận xuất khẩu.

Suất hao phí vốn
cố định

Vốn cố định
=

=
Giá trị sản xuất công nghiệp

Chỉ tiêu này phản ánh bao nhiêu đồng vốn cố định thì tạo ra một đơn vị

hàng hố xuất khẩu.
b) Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động trong hoạt động xuất
khẩu.
* Năng suất lao động
Q
W =
T
Trong đó:
W: Là năng suất lao động
Q: Là số lượng hoặc giá trị hàng hoá được sản xuất ra trong kỳ.
T: Là số lượng lao động làm ra hàng hoá trong thời kỳ đó.
Chỉ tiêu này phản ánh số lượng hoặc giá trị hàng hoá mà một người lao
động làm ra trong một thời kỳ nhất định.
* Suất hao phí lao động
T
W

=
Q

Cơng thức tính suất hao phí lao động thực chất là nghịch đảo của công thức
năng suất lao động. Chỉ tiêu này cho biết để tạo ra một đơn vị sản phẩm (hoặc
một đơn vị giá trị sản phẩm) cần bao nhiêu lao động.


* Hiệu suất sử dụng tiền lương
Hiệu suất sử dụng
tiền lưong

Lợi nhuận xuất khẩu

=

Tiền lương

Chỉ tiêu này cho biết một đợn vị tiền lương của công nhân tương ứng với
bao nhiêu đồng lợi nhuận xuất khẩu.
1.4.Những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu hàng hoá ở doanh nghiệp

Kinh doanh là các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi của các chủ thể kinh
doanh trên thị trường. Nghĩa là các doanh nghiệp luôn luôn phải phụ thuộc vào
thị trường và hoạt động theo quy luật của thị trường. Do đó, sự tồn tại và phát
triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố chủ quan cũng như
khách quan bên ngoài doanh nghiệp.
1.4.1.Nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
1.4.1.1.Nhân tố chính trị - luật pháp

Các cơng ty, doanh nghiệp một khi đã mở rộng hoạt động ra khỏi phạm vi
biên giới một quốc gia, thì khơng những phải tn thủ luật pháp nước mình, mà
cịn phải thích nghi với những thể chế chính trị và hệ thống pháp luật mới.
Mơi trường chính trị mới có thể mở ra và đưa đến cho doanh nghiệp các cơ
hội thương mại nếu doanh nghiệp am hiểu và có chính sách thích nghi hợp lý
với nó và ngược lại, có thể tạo ra những rào cản, khó khăn khi doanh nghiệp
khơng thích nghi được với sự thay đổi về thể chế chính trị đó.
Ngồi ra, sự ổn định của mơi trường chính trị cũng là một trong những
điều kiện tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc
biệt là hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu hàng hoá sang một quốc gia có tình hình
chính trị bất ổn thì doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nhiều rủi ro, như: rủi ro từ
sự biến đổi đột ngột về nhu cầu khách hàng, rủi ro trong vận chuyển hàng hoá,
hay các rủi ro về chính trị…Những rủi ro này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kế hoạch



xuất khẩu, đến việc triển khai hoạt động xuất khẩu, đến lợi nhuận xuất khẩu của
doanh nghiệp.
Bên cạnh những tác động của mơi trường chính trị, hệ thống luật pháp của
quốc tế và của từng quốc gia cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình và kết
quả xuất khẩu của doanh nghiệp. Nói cách khác, luật sẽ quy định và cho phép
doanh nghiệp được xuất khẩu những mặt hàng nào, trong những lĩnh vực nào,
với những phương thức nào; đồng thời cũng quy định những mặt hàng, những
lĩnh vực, những phương thức doanh nghiệp không được phép tiến hành khi xuất
khẩu hoặc được phép nhưng phải có điều kiện nhát định.
Vì vậy, chỉ trên cơ sở tìm hiểu rõ thể chế chính trị và nắm chắc hệ thống
luật pháp của từng quốc gia cũng như khu vực, mới cho phép doanh nghiệp đưa
ra được những phương án xuất khẩu đúng đắn, nhằm giảm thiểu thách thức, hạn
chế rủi ro, tối đa hoá lợi nhuận và hiệu quả xuất khẩu.
1.4.1.2.Nhân tố văn hoá - xã hội

Nhân tố văn hoá - xã hội có ảnh hưởng lớn đén hoạt động kinh doanh xuất
khẩu của doanh nghiệp. Nó góp phần hình thành nên thị trường tiêu thụ của
doanh nghiệp với những đặc trưng riêng:
Đặc trưng đầu tiên là nền văn hoá. Doanh nghiệp xuất khẩu luôn hướgn tới
nhiều thị trường ở nhiều quốc gia khác nhau. Vì vậy, việc hiểu được mơi trường
văn hoá khác nhau giữa các quốc gia và ảnh hưởng của môi trường này đến hiệu
quả xuất khẩu của doanh nghiệp là rất cần thiết. Văn hóa là một tổng thể phức
tạp, bao gồm ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục…
quy định hành vi của mỗi con người, mối quan hệ giữa người với người trong
tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Do đó, nó ảnh hưởng đến tất cả các quyết
định của doanh nghiệp, đặc biệt là các quyết định về quản lý nguồn nhân lực và
quyết định về marketing, dẫn đến ảnh hưởng tới hiệu quả xuất khẩu của doanh
nghiệp.
Đặc trưng thứ hai là đặc trưng về dân số. Nói tới dân số, người ta thường

nhắc đến các yếu tố như quy mô dân số, xu hướng vận động của dân số, phân bố


dân cư... Quy mô dân số sẽ quyết định quy mơ và tính đa dạng của thị trường:
dân số càng lớn thì quy mơ thị trường càng lớn, nhu cầu và khối lượng tiêu thụ
một nhóm sản phẩm cầng lớn, nhờ đó khả năng đảm bảo doanh số tiêu thụ,
doanh thu xuất khẩu của doanh nghiệp càng cao. Mật độ phân bố dân cư phản
ánh mức độ phân bố của nhu cầu thị trường về một hay một dòng sản phẩm. Xu
hướng vận động của dân số lại ảnh hưởng tới sự vận động của dung lượng thị
trường và tính đa dạng của thị trường trong tương lai, dẫn đến việc có thể hình
thành những cơ hội mới cho doanh nghiệp xuất khẩu và suy tàn những cơ hội
hiện tại của doanh nghiệp.
Đặc trưng tiếp theo là đặc trưng về thu nhập và phân bố thu nhập của dân
cư. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, khách hàng sẽ phân bổ thu nhập để trang
trải cho những nhu cầu của mình theo tỷ lệ và mức độ ưu tiên khác nhau. Điều
này sẽ ảnh hưởng đến sự lựa chọn loại sản phẩm, hình thành nên khái niệm chất
lượng theo cách đánh giá của từng nhóm khách hàng. Vì vậy, muốn hoạt động
xuất khẩu đạt hiệu quả, doanh nghiệp phải quan tâm và nắm bắt được yếu tố này
trong quyết định về sản phẩm, về chất lượng sản phẩm, về giá bán của doanh
nghiệp mình trên những thị trường cụ thể.
1.4.1.3.Nhân tố cạnh tranh

Q trình quốc tế hố đời sống kinh tế thế giới cùng với sự phát triển bùng
nổ của khoa học và công nghệ, một mặt làm tăng khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp, mặt khác làm cho quá trình cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt
và khốc liệt hơn. Trong điều kiện như vậy, đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh
quốc tế nói chung, các doanh nghiệp xuất khẩu nói riêng phải nhanh nhạy trong
việc nắm bắt thị trường, tìm kiếm những cơ hội kinh doanh ở nước ngồi và
phải có những chính sách linh hoạt để thích nghi và vươn lên trong cạnh tranh.
Theo mơ hình cạnh tranh của M.Porter, môi trường cạnh tranh vi mô của

doanh nghiệp gồm 5 yếu tố cơ bản chi phối hoạt động của doanh nghiệp, đó là:
đối thủ cạnh tranh hiện tại, khách hàng, nhà cung cấp, các đối thủ cạnh tranh
tiềm tàng và sản phẩm thay thế. Việc phân tích các yếu tố này là hết sức cần


thiết đối với sự sống còn và phát triển của doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh
nghiệp xuất khẩu bởi phạm vi hoạt động của doanh nghiệp khơng cịn bó hẹp
trong thị trường nội địa, và thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp khơng chỉ có
một thị trường duy nhất.
1.4.1.4.Chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái.

Tỷ giá hối đoái là giá của một đơn vị tiền tệ nước này thể hiện bằng số
lượng đơn vị tiền tệ nước kia. Thực chất, đó là sự so sánh tương quan giá trị
giữa hai đồng tiền của hai quốc gia.
Tỷ giá có vai trị hết sức quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hố vì nó tác động đến giá cả tương đối của hàng hoá trong nước và háng nước
ngồi. Qua đó, nó ảnh hưởng đến lợi nhuận xuất nhập khẩu hàng hoá và khả
năng cạnh tranh của hàng hoá giữa các nước với nhau trên thị trường quốc tế.
Một sự tăng giá của đồng tiền có thể làm cho các doanh nghiệp gặp khó khăn
khi xuất khẩu hàng hố ra nước ngồi. Ngược lại, sự giảm giá của đồng tiền có
thể làm cho doanh nghiệp có ưu thế cạnh tranh trong việc xuất khẩu và bán
hàng hoá của mình ở nước ngồi, đồng thời hạn chế nhập khẩu vào nước mình.
1.4.2.Nhân tố bên trong doanh nghiệp
1.4.2.1.Tiềm lực tài chính

Tiềm lực tài chính là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh
nghiệp thông qua khối lượng vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh
doanh, khả năng phân phối và quản lý có hiệu quả các nguồn vốn. Tiềm lực tài
chính có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, quyết định
quy mơ doanh nghiệp và quy mơ cơ hội có thể khai thác, tham gia vào việc hình

thành và khai thác cơ hội của doanh nghiệp. Có tiềm lực tài chính mạnh, doanh
nghiệp mới có thể tạo ra niềm tin với đối tác, nhất là đối tác nước ngồi, có điều
kiện để nghiên cứu thị trường nước ngoài và nắm bắt được cơ hội kinh doanh ở
thị trường ngoài nước. Một số chỉ tiêu thường dùng để đánh giá tiềm lực tài
chính của doanh nghiệp là vốn chủ sở hữu, vốn vay, khả năng thanh toán nợ
ngắn hạn, nợ dài hạn, khả năng quay vòng vốn…


1.4.2.1. Nhân tố con người

Trong kinh doanh, con người là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
kinh doanh và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp bởi chính con người mới có thể

kết hợp các yếu tố vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ… trong quá trình sản xuất
kinh doanh để tạo ra kết quả cuối cùng cho doanh nghiệp. Người cán bộ, công nhân
kỹ thuật phải có trình độ khoa học kỹ thuật, nắm chắc chun mơn, nghề nghiệp. Thực tế

cho thấy, dù có vốn lớn, máy móc thiết bị hiện đại mà người lao động khơng có
trình độ, tay nghề thì sẽ khơng phát huy được tác dụng của máy móc, cơng
nghệ. Do đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của chắc chắn sẽ khơng đạt hiệu
quả cao. Ngược lại, người cơng nhân có trình độ kỹ thuật, nắm chắc chun
mơn, khơng những khai thác được tối đa tác dụng của máy móc, cơng nghệ, mà
cịn có thể đưa ra những sáng kiến nhằm đổi mới quá trình làm việc giúp cho
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp được nâng lên đáng kể.
Bên cạnh đó, người lãnh đạo cũng giữ vai trị hàng đầu trong một doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung, doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng.
Một nhà lãnh đạo giỏi, có tầm nhìn chiến lược, đề ra những định hướng đúng
đắn cho doanh nghiệp phát triển; có những mối quan hệ tốt trong và ngoài phạm
vi doanh nghiệp cũng như phạm vi quốc gia; tạo ra cho nhân viên môi trường
làm việc cởi mở, chuyên nghiệp; và biết phát huy khả năng của nhân viên là

một trong những yếu tố quyết định tới chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp,
qua đó trực tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu của doanh
nghiệp.
1.4.2.2.Nhân tố cơng nghệ
Trình độ tiên tiến của hệ thống máy móc, nhà xưởng, thiết bị, dây chuyền sản xuất trong
doanh nghiệp tác động trực tiếp đến năng suất chất lượng sản phẩm cũng như các chỉ tiêu về
giá thành, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, theo xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế, việc giảm giá thành và chi phí sản xuất để tối đa hố lợi nhuận
là mục tiêu sống còn của các doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh quốc tế.
Một doanh nghiệp được đầu tư đúng đắn về nhà xưởng, máy móc với công nghệ và dây
chuyền tiên tiến chắc chắn sẽ thu được những sản phẩm đạt chất lượng cao. Vì thế, để nâng cao


×