Tài nguyên rừng và nguyên nhân
suy thoái rừng trên thế giới
Tài nguyên sinh vật là nguồn sống chính
của loài người, nền tảng của mọi nền văn
minh trong lịch sử phát triển của nhân
loại. Tài nguyên sinh vật có giá trị cho
cuộc sống của con người là rừng và các
động vật hoang dã sống trong rừng, là
các nguồn lợi thủy sản chứa trong các
sông, hồ, đồng ruộng, đặc biệt tiềm tàng
trong các biển và đại dương.
Rừng là yếu tố quan trọng nhất của sinh
quyển và có ý nghĩa lớn trong sự phát
triển kinh tế xã hội, sinh thái và môi
trường. Trên thực tế rừng đã có lịch sử
phát triển lâu dài nhưng những hiểu biết
về rừng chỉ mới thực sự có được từ thế
kỷ thứ XIX. Theo quan điểm học thuyết
sinh thái học, rừng được xem là hệ
sinh thái điển hình trong sinh quyển
(Tansley, 1935; Vili, 1957; Odum, 1966).
Rừng là sự thống nhất trong mối quan hệ
biện chứng giữa sinh vật – trong đó thực
vật với các loài cây gỗ giữ vai trò chủ
đạo, đất và môi trường. Rừng là
dạng đặc trưng và tiêu biểu nhất của
tất cả các hệ sinh thái trên cạn, đồng thời
cũng là đối tượng tác động sớm nhất và
mạnh nhất của con người.
Việc hình thành các kiểu rừng có liên
quan chặt chẽ giữa sự hình thành các
thảm thực vật tự nhiên với vùng địa
lý và điều kiện khí hậu. Trong mỗi
kiểu rừng được hình thành thì khí hậu,
đất đai và độ ẩm sẽ xác định thành phần
cấu trúc và tiềm năng phát triển của thảm
thực vật rừng.. Các kiểu thảm thực vật
rừng quan trọng trên thế giới là:
Rừng lá kim (rừng Taiga) vùng ôn
đới có thành phần khá đồng nhất,
phân bố chủ yếu ở Bắc Mỹ, Châu Âu,
Bắc Trung Quốc và một số vùng núi cao
nhiệt đới. Kiểu rừng này có năng suất
thấp hơn vùng nhiệt đới.
Rừng rụng lá ôn đới phân bố ở vùng thấp
hơn và gần vùng nhiệt đới hơn, chủ yếu ở
Đông Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Châu Âu, một
phần Trung Quốc, Nhật Bản, Australia.
Rừng mưa nhiệt đới có độ Đa dạng sinh
học cao nhất. Phân bố chủ yếu ở vùng
xích đạo thuộc lưu vực sông Amazone
(Nam Mỹ), sông Congo (Châu Phi), Ấn
Độ, Malaysia. Trong đó dãi rừng Ấn Độ -
Malaysia có sự đa dạng sinh học trên
một đơn vị diện tích là cao nhất, có
tới 2.500 – 10.000 loài thực vật trong
một khu vực hẹp và có tới 7 tầng cây với
các loài cây quý như lim (Erythrophleum
sp), gụ (Sindora sp), chò chỉ (Shorea
chinensis), lát (Chukrasia sp). Do có sự
biến đổi phức tạp về chế độ mưa, gió
mùa và nhiệt độ, rừng nhiệt đới thường
rất phức tạp cả về thành phần loài và cấu
trúc của rừng.
Dựa vào chức năng cơ bản mà thực chất
là dựa vào tính chất và mục đích sử dụng,
rừng được chia thành 3 loại chính như
sau:
+ Rừng phòng hộ được sử dụng cho mục
đích bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất,
chống xói mòn, hạn chế thiên tai, điều
hòa khí hậu, bảo vệ môi trường. Rừng
phòng hộ lại được chia thành 3 loại là
rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng phòng hộ
chống cát bay, rừng phòng hộ chắn sóng
ven biển.
+ Rừng đặc dụng được sử dụng cho các
mục đích đặc biệt như bảo tồn thiên
nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái, bảo tồn
nguồn gen động thực vật rừng, phục vụ
cho công tác nghiên cứu khoa học, bảo
vệ di tích lịch sử, văn hóa và danh lam
thắng cảnh cho nghỉ ngơi du lịch. Rừng
đặc dụng bao gồm các vườn quốc gia,
các khu bảo tồn thiên nhiên, các khu văn
hóa - lịch sử và môi trường.
+ Rừng sản xuất bao gồm các loại rừng
sử dụng để sản xuất kinh doanh gỗ, lâm
đặc sản rừng, động vật rừng và kết hợp
bảo vệ môi trường.