Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẢ CÔNG LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH KIM KHÍ HẢI PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.86 KB, 36 trang )

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TRẢ CÔNG LAO ĐỘNG TẠI CÔNG TY CỔ
PHẦN SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH KIM KHÍ HẢI PHÒNG
I. Những đặc điểm ảnh hưởng tới công tác trả công tại công ty:
1. Tổ chức bộ máy quản lý công ty:
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty:
Công ty Cổ phần sản xuất và kinh doanh kim khí được cổ phần hóa từ một bộ
phận doanh nghiệp thuộc Tổng công ty Thép Việt Nam theo quyết định số 71/2000/QĐ-
BCN ngày 18/12/2000 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp. Công ty có tên giao dịch trên thị
trường là Produce and Trading metal stock company (Ptramesco). Công ty được thành
lập để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh các nghề đăng kí và các lĩnh vực khác mà pháp luật không cấm, nhằm mục tiêu
thu lợi nhuận tối đa, tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động, tăng lợi tức cho
cổ đông, đóng góp cho ngân sách Nhà nước và phát triển công ty ngày càng lớn mạnh.
Hiện nay, lĩnh vực kinh doanh của Ptramesco rất đa dạng như:
- Sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu vật tư, vật liệu, hàng hóa, thiết bị, phụ
tùng và các sản phẩm kim khí.
- Dịch vụ vận chuyển, bốc xếp, cho thuê văn phòng, kho bãi và các dịch vụ khác.
- Kinh doanh vật liệu xây dựng, sắt thép, sắt thép phế liệu…
- Vận tải và đại lý vận tải thủy bộ.
- Sản xuất và kinh doanh thép các loại.
- Sản xuất và kinh doanh khí công nghiệp và các ngành nghề khác theo quy định
của pháp luật.
Trong đó, lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty là các mặt hàng kim khí nhập
khẩu như thép hình (chữ U, I, H, L, cọc ván thép và ống thép các loại) với mọi kích cỡ,
thép tấm, thép lá dạng cuộn, dạng kiện, phôi thép… từ các nước SNG, Ba Lan, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Nam Phi…phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Trong hơn 8 năm hình thành, xây dựng và phát triển, Ptramesco đã gặt hái được
rất nhiều thành công, từng bước khẳng định tên tuổi trên thị trường trong và ngoài
nước. Đánh dấu những sự thành công đó là các danh hiệu, bằng khen mà công ty đã đạt
được như:
- Năm 2004: Đạt giải thưởng “ Sao vàng đất Việt ” cho sản phẩm lưới thép đạt


tiêu chuẩn của Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
- Năm 2004: Đạt cúp vàng trong Triển lãm hội chợ “ Hội nhập và phát triển ”
Hải Phòng lần thứ I.
- Năm 2004: Nhận bằng khen của thành phố Hải Phòng đã có thành tích xuất
sắc trong phát triển sản phẩm và thương hiệu tham gia hội nhập thị trường quốc tế.
- Năm 2005: Nhận bằng khen của Liên đoàn lao động thành phố Hải Phòng đạt
thành tích xuất sắc trong phong trào thi đua lao động giỏi và xây dựng tổ chức Công
đoàn vững mạnh.
- Năm 2005: Đầu tư xây dựng nhà máy luyện phôi thép công suất 200.000
tấn/năm tại khu kinh tế Đình Vũ - Hải Phòng để đáp ứng nhu cầu thị trường.
- Năm 2006: Nhận bằng khen của thành phố Hải Phòng đã có thành tích xuất sắc
trong công tác bảo hộ lao động.
1.2. Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty:
Ptramesco luôn xác định cho mình những mục tiêu sản xuất kinh doanh ngắn
hạn và dài hạn rất rõ ràng, cụ thể, đồng thời luôn vạch ra những chiến lược, phương
pháp khoa học nhằm thực hiện các mục tiêu đó. Với sự chỉ đạo sáng suốt của ban lãnh
đạo, cùng sự thống nhất, đoàn kết làm việc của công nhân viên đã giúp cho Ptramesco
thực hiện thắng lợi các mục tiêu đặt ra, đạt được doanh thu, lợi nhuận cao, chiếm lĩnh
những mảng thị trường lớn, khẳng định thương hiệu của sản phẩm và công ty ở trong
và ngoài nước. Nhất là trong giai đoạn 3 năm 2005, 2006, 2007, với số lượng cán bộ
công nhân viên không ngừng lớn mạnh cùng những nỗ lực của công ty đã mạnh dạn đổi
mới dây chuyền công nghệ, thay đổi quy trình sản xuất, vì thế mà Ptramesco đã đạt
được kết quả sản xuất kinh doanh rất cao.
Bảng 1: Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Cổ phần sản xuất và kinh
doanh kim khí Hải Phòng năm 2005, 2006, 2007:
S Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 2006/2005 2007/2006 2007/2005
tt tính (%) (%) (%)
1 Doanh thu Triệu đ 382451.99 650921.16 1224734.17 170.20 188.15 320.23
2
Tổng số

CBCNV Người 557 635 753 114.00 118.58 135.19
3
Năng suất
lao động Triệu/ng 686.63 1025.07 1626.47 149.29 158.67 236.88
4
Quỹ tiền
lương Triệu đ 1049.12 2130.55 4243.69 203.08 199.18 404.50
5
Tiền lương
bình quân
năm Triệu/ng 1.88 3.36 5.64 178.13 167.97 299.21
6 Lợi nhuận Triệu đ 6173.75 10755.63 64402.32 174.22 598.78 1043.16
( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh công ty Cổ phần sản xuất và
kinh doanh kim khí năm 2005, 2006, 2007 )
Trong đó, hoạt động sản xuất kinh doanh của Ptramesco đã đạt được những
thành tựu như:
- Mặt hàng thép hình cỡ lớn từ 150 - 900 được nhập khẩu chủ yếu từ Korea –
SNG và Trung Quốc qua ủy thác nhưng có lãi gộp khá cao trung bình từ 400 – 500
đồng/kg đã đem lại cho công ty khoản lãi gộp trung bình từ 340 – 400 triệu đồng mỗi
tháng và 3,8 – 4 tỷ đồng mỗi năm. Đây được coi là mặt hàng truyền thống và có ưu thế
của Ptramesco, mang lại lợi thế cạnh tranh cao và tạo khả năng tăng trưởng vững chắc
cho cho quá trình phát triển của công ty.
- Với mặt hàng thép tấm, năng lực tiêu thụ của công ty trung bình mỗi tháng từ
3.000 đến 4.300 tấn. Mặt hàng này tuy lãi xuất không cao (lãi gộp 150 – 500 đồng/kg)
nhưng nếu số lượng tiêu thụ bình quân 3.000 tấn/tháng cũng cho một luợng lãi gộp 300

400 triệu đồng và một năm lãi gộp lên tới 3 tỷ đồng. Đây có thể coi là mặt hàng chiến
lược, tạo thế và lực cho công ty trong thời gian tới.
- Các mặt hàng khác được coi là phụ trợ và bổ xung, giúp mở rộng khả năng
kinh doanh tổng hợp, chống rủi ro, tạo thêm uy tín của công ty như: thép lá cán nguội

(khoảng 300 tấn/tháng), thép ống chịu lực (khoảng 100 tấn/tháng)… Sắt vụn cũng là
một mặt hàng có nhiều ưu thế do nhu cầu của thị trường trong nước là rất lớn, mà giá
mua ở SNG lại rẻ, do đó công ty đã nhập khẩu mặt hàng này để bán cho công ty gang
thép Thái Nguyên và một số cơ sở luyện thép tư nhân khác với số lượng trung bình
khoảng 100 tấn/tháng. Ngoài ra với việc xây dựng nhà máy luyện phôi thép công suất
200.000 tấn/năm tại khu kinh tế Đình Vũ - Hải Phòng sẽ giúp cho Ptramesco mở rộng
thêm thị trường, nâng cao lợi nhuận.
Như vậy, nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của ban giám đốc cùng sự đồng lòng thống
nhất của cán bộ, công nhân viên trong toàn công ty đã khiến cho doanh thu và lợi nhuận
kinh doanh của Ptramesco không ngừng tăng qua các năm. Quỹ tiền lương nói chung và
tiền lương bình quân nói riêng của người lao động cũng khá cao và không ngừng tăng,
đã phần nào đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của người lao động. Điều này phản ánh
được sự quan tâm của ban lãnh đạo công ty tới cán bộ, công nhân viên trong công ty,
cũng như thể hiện được chiến lược giữ chân người lao động sáng suốt mà Ptramesco
đang thực hiện nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh cho mình.
1.3. Thị trường sản phẩm:
- Trong nước: Thị trường tiêu thụ các hàng hóa chủ lực của công ty như thép
hình, thép lá, phôi thép tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung như Hải
Phòng (Công ty Đóng tàu và xây dựng Thăng Long; Công ty Cổ phần Thép Việt - Nhật;
Công ty liên doanh và phát triển Đình Vũ…), Hà Nội (Vinaconex; Công ty Cổ phần
Thép Việt Nam; Tổng Công ty Thép Việt Nam; Công ty Cổ phần tập đoàn Hòa Phát…),
Hải Dương, Thái Nguyên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Vĩnh Phúc, Nghệ An,
Ninh Bình, Quảng Ninh…Đây là những thị trường trong nước lớn và có nhiều tiềm
năng để công ty tiêu thụ sản phẩm thế mạnh của mình.
- Ngoài nước: Hiện công ty đang có mối quan hệ bạn hàng tại Nga, Hàn Quốc,
Trung Quốc…Ngoài ra, Ptramesco đang hướng vào khai thác thị trường Nga và Đông
Âu; hay liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm với các công ty, tập đoàn lớn của nước
ngoài như
Huyndai, khu vực SNG…Với những đối tác này, công ty xúc tiến quảng bá mạnh mẽ
những sản phẩm do công ty sản xuất ra hay trao đổi, thu mua trong nước để tạo ra

nguồn hàng đối lưu với thị trường nước ngoài theo hướng nhập CIP và xuất đổi FOB tại
Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh…Như vậy, công ty không chỉ mở rộng
thị trường trong nước mà đang từng bước xâm nhập ra các thị trường nước ngoài bằng
những sản phẩm có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn hội nhập quốc tế. Đây là chiến lược
kinh doanh rất đúng đắn nhằm nâng cao lợi nhuận cho công ty, nâng giá trị cổ phiếu
trên thị trường, tăng thu nhập cho người lao động.
1.4. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty:
Mối quan hệ giữa phòng tổ chức văn thư với các phòng ban khác trong công ty:
• Phòng tổ chức văn thư làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch đào tạo, đào tạo lại cán
bộ, công nhân viên gửi đến các phòng ban của Công ty dựa theo nhu cầu và kế hoạch
sản xuất kinh doanh của công ty.
• Bên cạnh đó, phòng có chức năng xây dựng các hình thức trả lương, đơn giá tiền
lương và các biện pháp bảo vệ đời sống, điều kiện làm việc, an toàn và bảo hộ lao động
cho các phòng ban và người lao động.
• Có chức năng quản lý hành chính, quản lý nhân sự toàn Công ty. Giúp Tổng
Giám đốc trong công tác văn thư, tổ chức nhân sự, tính toán nhu cầu tuyển dụng và bố
trí nhân lực, đào tạo, tiền lương, quản lý, cấp phát trang bị bảo hộ lao động, chế độ
chính sách, quản lý duy tu công trình, lực lượng xe tải, xe con và lực lượng bảo vệ.
• Quản lý và bảo quản các công văn đi và đến của công ty nói chung và các phòng
ban nói riêng; mở sổ theo dõi các công văn đi và đến; quản lý con dấu và các dấu chức
danh của Công ty; quản lý và sử dụng máy fax, máy Foto của Công ty; soạn thảo các
văn bản trên máy vi tính nhằm phục vụ cho các hoạt động của tất cả các phòng ban
trong Công ty.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức của công ty:

Hội đồng quản trị
Tổng giám đốc

( Nguồn: Phòng tổ chức văn thư Công ty Cổ phần sản xuất và kinh doanh kim khí )
Như vậy: Với cơ cấu tổ chức như hiện nay công ty sẽ phải lên kế hoạch và thực

hiện phân phối quỹ tiền lương cụ thể, rõ ràng, và công bằng giữa các phòng ban với
nhau; giữa các phân xưởng, tổ sản xuất với nhau, nhằm tạo động lực cho người lao
động, kích thích nâng cao năng suất lao động, từ đó nâng cao lợi nhuận cho công ty.
2. Những đặc điểm của lao động ảnh hưởng đến công tác trả công lao động:
2.1. Biên chế lao động tại công ty:
Trước sự biến động mạnh mẽ của môi trường kinh doanh, tính chất khốc liệt của
cạnh tranh và nhu cầu đòi hỏi đáp ứng ngày càng cao của nhân viên đã đặt ra cho
Ptramesco những thách thức mới. Chính vì vậy, quản trị nguồn nhân lực tốt, thực hiện
biên chế lao động khoa học, tuân thủ theo đúng luật pháp Nhà nước là một trong những
giải pháp mà công ty đã và đang thực hiện nghiêm túc, có kế hoạch nhằm giữ chân lao
Phó TGĐ
kĩ thuật
Phó TGĐ
nội chính
Phó TGĐ
kinh doanh
Phó TGĐ
đầu tư
Phòng
tài
chính -
kế toán


Phòng
đầu tư
Kho
tàng,
cửa
hàng

Phòng
kinh
doanh
Văn
phòng
tổ chức
văn thư
Chi
nhánh
Phòng
kĩ thuật
sản
xuất
Xưởng
sản
xuất
Tổ xe tải
và xe cần
trục
Tổ cơ
khí (sắt
hàn,cắt
gọt,cắt
thép
lưới, tổ
nguội,
bốc xếp
Tổ vận
hành sửa
chữa

điện
động giỏi làm việc cho công ty, đồng thời tăng lợi thế cạnh tranh và vị trí kinh doanh
của mình trên thị trường.
Biên chế lao động được thực hiện dựa trên những nguyên tắc như: đảm bảo sự
phù hợp giữa trình độ của người lao động với yêu cầu của công việc; phải đáp ứng nhu
cầu phát triển của công ty; phải có ảnh hưởng tích cực tới hành vi và sự trung thành của
người lao động; tạo ra sự đồng lòng giữa cán bộ công nhân viên và công ty…
Bảng 2: Tình hình biên chế lao động tại công ty Cổ phần sản xuất và kinh doanh
kim khí năm 2007:
Đơn vị: Người
St
t
Đơn vị
Số lao
động Giới tính Trình độ
Nam Nữ ĐH& trên ĐH
CĐ & Trung
cấp
LĐ phổ
thông

Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số
lượng %
Số

lượng %
1
Văn
phòng 101 50 49.50 30 29.70 38 37.62 63 62.38 0 0.00
2
Bán
hàng 55 43 78.18 12 21.82 8 14.55 35 63.64 12
21.8
2
3
Xưởng
sản xuất 597 595 99.66 2 0.34 12 2.01 485 81.24 100
16.7
5

( Nguồn: Phòng tổ chức văn thư công ty Cổ phần sản xuất và kinh doanh kim khí)
Trong đó, tình hình biên chế lao động ở một số bộ phận trong công ty như sau:
Ví dụ 1: Số lượng lao động theo biên chế trong một số phòng ban tại trụ sở chính của
công ty năm 2007 như sau:
• Phòng tài chính kế toán: Số cán bộ nhân viên trong biên chế là 6 người, trong đó
có 1 trưởng phòng, 1 phó phòng, 4 nhân viên.
• Phòng tổ chức văn thư: Số cán bộ, nhân viên trong biên chế là 5 người, trong đó
1 truởng phòng, 1 phó phòng, 3 nhân viên.
• Phòng kinh doanh: Số cán bộ nhân viên trong biên chế là 13 người, trong đó 1
trưởng phòng, 2 phó phòng, 10 nhân viên.
Trong khi đó, lực lượng lao động gián tiếp của công ty lại có sự biến động khá
lớn để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và sự phát triển của công ty.
Do đó, số lượng lao động theo biên chế thuộc khối này cũng có sự thay đổi lớn.
Ví dụ 2: Số lượng lao động theo biên chế trong tổ cơ khí thuộc xưởng 1 trong năm
2007:

• Tổ sắt hàn: Số công nhân trong biên chế là 83 người.
• Tổ cắt gọt: Số công nhân trong biên chế là 32 người.
• Tổ cắt thép lưới: Số công nhân trong biên chế là 75 người.
• Tổ nguội: Số công nhân trong biên chế là 39 người.
• Tổ bốc xếp: Số công nhân trong biên chế là 21 người.
• Tổ máy trục: Số công nhân trong biên chế là 47 người.
Như vậy: Do việc mở rộng quy mô sản xuất và sự thay đổi trong cơ cấu ngành
nghề kinh doanh tại Ptramesco mà số lượng cán bộ, công nhân viên tại công ty đã
không ngừng tăng lên qua các năm cả về số lượng lẫn chất lượng, vì thế mà tình hình
biên chế lao động tại công ty cũng có nhiều sự thay đổi.
Hiện nay, công ty Ptramesco đang thực hiện một cách nghiêm túc công tác biên
chế lao động trong tất cả các phòng ban, chi nhánh, phân xưởng, tổ sản xuất. Hàng năm
công ty luôn lập kế hoạch biên chế lao động khoa học, dựa trên những nguyên tắc nhất
định nhằm phục vụ cho mục tiêu hoạt động kinh doanh của công ty, đảm bảo kết hợp
hài hòa giữa quyền lợi của người lao động với lợi ích của công ty. Dựa trên kế hoạch
biên chế
lao động và số lượng lao động theo biên chế hàng năm, công ty sẽ xây dựng kế hoạch
quỹ tiền lương, thực hiện trả lương và cung cấp những chương trình phúc lợi (như
BHYT, BHXH, trợ cấp tai nạn lao động, ốm đau, tử tuất) cho tất cả cán bộ, công nhân
viên trong biên chế theo đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, qua bảng số liệu tình hình biên chế lao động tại công ty năm 2007
thấy:
• Do đặc thù sản xuất kinh doanh nên có thể thấy rằng, số lượng cán bộ, công
nhân viên nam tại công ty cao hơn so với nữ, tỉ trọng nữ chiếm khoảng 0,34% – 29,7%,
lao động nữ tập trung chủ yếu ở khu vực văn phòng và quản lý. Đây là tỉ trọng hợp lí vì
lao động trong ngành kim khí nặng nhọc, vất vả, đòi hỏi phải có sức khỏe và độ dẻo dai
lớn.
• Số lượng cán bộ, công nhân viên có trình độ Đại học và trên Đại học trong công
ty chỉ chiếm tỉ lệ thấp, chủ yếu gồm những người làm việc trong khối văn phòng (chiếm
37,62%), trong khi đó lực lượng lao động có trình độ cao đẳng vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất

làm việc tại các phân xưởng (chiếm 81,24%), song đây lại là lực lượng chính tạo ra các
sản phẩm và đem lại doanh thu cao cho công ty. Với trình độ của cán bộ, công nhân
viên hiện nay thì trong thời gian Ptramesco tới cần phải có những kế hoạch tuyển dụng
nhân lực hợp lý, bố trí đúng người đúng việc, đặc biệt chú trọng tới công tác đào tạo
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động, tăng cao hơn
nữa doanh thu và lợi nhuận cho công ty.
Có thể thấy, trình độ lao động của cán bộ, công nhân viên không chỉ ảnh hưởng
tới sự hoàn thành công việc, hiệu quả hoạt động của công ty mà đây còn là căn cứ để
công ty xây dựng các bậc lương (hiện công ty có 4 bậc lương từ 1,0 đến 1,3 ứng với
những trình độ khác nhau của cán bộ, công nhân viên); từ đó làm cơ sở để xây dựng
khung lương khởi điểm chung cho từng chức vụ trong công ty, làm căn cứ cho việc tính
lương.
2.2. Chất lượng lao động:
Trong những năm gần đây, doanh thu và lợi nhuận mà Ptramesco đạt được khá
cao và không ngừng tăng lên, các sản phẩm của công ty dần chiếm được chỗ đứng vững
chắc trên thị trường. Để đạt được những thành tựu đó là do công ty đã xây dựng được
những chiến lược phát triển sản xuất - kinh doanh đúng đắn, có sự lãnh đạo sáng suốt
của Ban lãnh đạo, nhất là nhận được sự ủng hộ, cống hiến và lao động chăm chỉ của đội
ngũ cán
bộ, công nhân viên. Hiện nay, Ptramesco đang nắm trong tay một lực lượng lao động
trẻ, đông đảo, nhiệt tình, song chất lượng lao động không cao, trình độ của cán bộ, công
nhân viên thuộc 2 khối văn phòng và phân xưởng không đồng đều. Trong đó, chất
lượng lao động được đánh giá trên số lượng lao động theo các bậc thợ khác nhau, cụ
thể:
• Công nhân sản xuất:
+ Công nhân có bằng nghề và sử dụng đúng nghề: 3 bậc;
+ Công nhân lao động phổ thông hoặc sử dụng trái nghề: 1 bậc.
• Nhân viên thuộc khối văn phòng: 3 bậc.
• Ban lãnh đạo: 10 bậc.
• Nhân viên cấp dưỡng, tạp vụ, bảo vệ, lái phụ cẩu: 1 bậc.

Bảng 3: Số lượng cán bộ, công nhân viên theo bậc thợ trong năm 2007:
Đơn vị: Người
Stt Chỉ tiêu
Số
lượng
LĐ Bậc thợ
Bậc 1 Bậc 2 Bậc 3 Bậc 4 Bậc 5 Bậc 6 Bậc 7
1 Văn phòng 101 12 16 34 26 5 6 2
2 Bán hàng 55 25 22 8
3 Xưởng sản xuất 597 156 377 64
4 Tổng số 753 193 415 106 26 5 6 2
5 % 100 25.63 55.11 14.08 3.45 0.66 0.80 0.27
( Nguồn: Phòng tổ chức văn thư công ty Cổ phần sản xuất và kinh doanh kim khí )
Như vậy: Bậc thợ cao nhất trong công ty là bậc 7/10, tuy nhiên số lượng cán bộ,
công nhân viên đạt bậc này rất thấp (chỉ có 2 người, chiếm 0,27%). Trong khi đó số
lượng lao động bậc 2 chiếm tỉ trọng cao nhất (55,11%), chủ yếu là công nhân thuộc
xưởng sản xuất đạt bậc 2/3 (chiếm 90,84%). Có thể thấy chất lượng lao động của công
ty không cao và không đồng đều giữa các khối, đặc biệt chất lượng công nhân sản xuất
không cao (số lao động đạt bậc 3/3 chỉ chiếm 60,04%), trong khi đó đây là lực lượng
sản xuất ra sản phẩm chính cho công ty. Chính vì vậy, trong thời gian tới công ty cần có
hướng đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực hiện tại, cũng như quan tâm tới công tác tuyển dụng lực
lượng lao động đầu vào nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực và nâng cao
năng suất lao động, hiệu quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Có thể thấy, việc quy định các bậc thợ cho từng loại lao động một mặt nhằm
đánh giá chất lượng cán bộ, công nhân viên trong công ty cũng như mức độ phấn đấu
trong công việc của người lao động; mặt khác đây là cơ sở để thực hiện công tác trả
công lao động trong công ty một cách công khai, minh bạch và công bằng. Cụ thể, công
ty sẽ tính toán, xây dựng thang bảng lương thể hiện những mức lương khác nhau ứng
với mỗi bậc thợ khác nhau; từ đó xác định khung bậc lương cho từng chức vụ khác

nhau trên cơ sở số bậc thợ.
2.3. Tình hình sử dụng thời gian lao động:
Hiện nay, công ty Cổ phần sản xuất và kinh doanh kim khí đang áp dụng thực
hiện chế độ làm việc 26 ngày công/tháng và trong một năm người lao động được nghỉ
những ngày theo đúng quy định của pháp luật như ngày lế, tết, nghỉ phép, nghỉ ốm
đau…
Bảng 4: Tình hình sử dụng thời gian lao động tại công ty Cổ phần sản xuất và
kinh doanh kim khí năm 2005, 2006, 2007:
Stt Chỉ têu
Đơn vị
tính
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
2006/2005
(%)
2007/2006
(%)
2007/2005
(%)
1
Ngày công
làm việc
thực tế
bình quân Ngày 280 282 286 100.71 101.42 102.14
2
Giờ công

làm việc
thực tế
năm Giờ 2016 2087 2145 103.51 102.79 106.40
3
Giờ công
làm việc
thực tế
ngày Giờ 7.2 7.4 7.5 102.78 101.35 104.17
( Nguồn: Phòng tổ chức văn thư công ty Cổ phần sản xuất và kinh doanh kim khí
năm 2005, 2006, 2007 )
Như vậy: ngày công làm việc thực tế bình quân trong 3 năm giảm, từ 99,32%
(2005) xuống 97,95% (2007), trong khi đó số giờ làm việc thực tế bình quân ngày tăng
từ 7,2h (2005) lên 7,5h (2007). Sự thay đổi này trong thời gian làm việc cùng với việc
cải tiến trang thiết bị hiện đại đã giúp công ty vẫn duy trì và thực hiện tốt kế hoạch sản
xuất kinh doanh, cũng như không ngừng nâng cao năng suất lao động, lợi nhuận kinh
doanh. Người lao động có số ngày làm việc tuy giảm song do số giờ làm việc tăng nên
họ vẫn đảm bảo được nguồn thu nhập. Trong thời gian làm việc này người lao động sẽ
được hưởng mức lương tương xứng với số ngày công họ thực hiện trong một tháng
hoặc có những hỗ trợ nhất định cho người lao động trong những trường hợp không
đựơc hưởng lương theo quy định của pháp luật, chính vì vậy càng nâng cao thêm trách
nhiệm làm việc của cán bộ, công nhân viên với công ty.
Mặt khác, việc thống kê, phân tích và đánh giá tình hình sử dụng thời gian lao
động là một trong những công việc cần thiết để công ty xây dựng, thực hiện hình thức
trả công theo thời gian sao cho phù hợp với thực tế mà vẫn đảm bảo tuân thủ đúng pháp
luật. Giúp công ty có những hướng điều chỉnh kịp thời để vẫn đảm bảo tăng năng suất
lao động và nhu cầu của người lao động.
3. Các đặc điểm về công nghệ ảnh hưởng đến công tác trả công lao động:
Hiện nay công ty sản xuất rất nhiều sản phẩm như thép hình (chữ U, I, H, L, cọc
ván thép và ống thép các loại) với mọi kích cỡ, thép tấm, thép lá dạng cuộn, dạng kiện,
phôi thép…Song tất cả các sản phẩm đều trải qua quy trình sản xuất chung như sau

Sơ đồ 2: Quy trình sản xuất chung:
( Nguồn: Xưởng sản xuất chi nhánh Bến Kiền – Công ty Cổ phần SX & KD kim khí )
Dựa trên đặc điểm quy trình sản xuất và yêu cầu thực tế công việc, công ty phân
chia 2 đối tượng chính thực hiện các công đoạn trong quá trình sản xuất là khoán trực
tiếp cho cá nhân người lao động và khoán cho một nhóm người lao động. Trong đó,
phần công việc khoán cho nhóm người lao động bao gồm: Sản xuất lưới thép, cắt cuộn,
phần sắt hàn; phần bốc xếp thủ công. Như vậy, công ty sẽ lấy việc phân công lao động
Vệ sinh sơn
hoàn thiện
Hàn
liên kết
Gá lắp
đính
Cắt pha
phôi
Lấy
dấu
Chuẩn
bị phôi
Xếp gọn
thành phẩm
Kiểm tra sơn
phủ
theo quy trình công nghệ sản xuất là một trong những căn cứ để thiết lập đơn giá tiền
lương và thực hiện tính lương cho từng đối tượng cụ thể.
Ngoài ra, công ty luôn quy định rõ ràng về các máy móc, thiết bị phục vụ cho
quá trình sản xuất. Trên cơ sở phân tích bước công việc và những yêu cầu về trình độ
lành nghề nhất định của người lao động cần có để sử dụng các máy móc, thiết bị trong
phân xưởng, công ty sẽ sắp xếp bố trí nhân lực phù hợp nhằm nâng cao hiệu suất hoạt
động của dây chuyền công nghệ, sử dụng tối đa hiệu quả lao động của công nhân.

Thông qua việc sắp xếp người lao động vào những vị trí công việc phù hợp công ty sẽ
xác định mức lương cho người lao động phù hợp với mức độ phức tạp của công việc và
trình độ lành nghề của người lao động.
Như vậy, công ty dựa trên đặc điểm dây chuyền sản xuất công nghệ mà quy định
những máy móc, thiết bị cần thiết cũng như những yêu cầu nhất định về trình độ lành
nghề của người lao động, từ đó làm cơ sở trả lương hợp lý, công bằng giữa các công
đoạn sản xuất và giữa những người lao động khác nhau.
4. Công tác định mức lao động ảnh hưởng đến trả công lao động:
Hiện nay, công ty đang áp dụng hình thức định mức lao động tổng hợp cho đơn
vị sản phẩm, và định mức lao động chủ yếu dựa trên thống kê kinh nghiệm, tức là công
ty vẫn chưa thực hiện công tác định mức lao động một cách có căn cứ khoa học. Tình
hình thực hiện mức lao động hiện nay trong công ty thể hiện ở tình trạng làm việc của
người lao động theo mức lao động hoặc không theo mức lao động. Cụ thể:
Bảng 5: Công tác định mức lao động tại công ty các năm 2005, 2006, 2007:
Stt Chỉ tiêu
Đơn
vị tính Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007

Số
lượng %
Số
lượng % Số lượng %
1
Tổng lao
động Người 557 100 635 100 753 100
2
Làm việc có
mức Người 273 49.01 339 53.39 441 58.56
3
Làm việc

không có
mức Người 284 50.99 296 46.61 312 41.44
( Nguồn: Xưởng sản xuất chi nhánh Bến Kiền – công ty Cổ phần sản xuất và kinh
doanh kim khí năm 2005, 2006, 2007 )
Như vậy: Hiện nay công ty Ptramesco đang thực hiện không tốt công tác định
mức lao động khoa học cho các công việc trong doanh nghiệp, nhất là cho bộ phận sản
xuất. Cụ thể, công ty không có quy định hay căn cứ cụ thể, rõ ràng nào về số mức lao
động đang thực hiện, do đó không chỉ ra được số mức lao động nào có căn cứ khoa học
hoặc theo thống kê kinh nghiệm. Đây là một điểm bất cập trong công tác định mức lao
động tại công ty, bởi công tác định mức lao động có ảnh hưởng lớn tới công tác trả
lương cho người lao động trong công ty. Do đó cách tính đơn giá cho hình thức trả
lương khoán hay trả lương theo thời gian đều không được quy định rõ ràng, mà dựa chủ
yếu trên thực tế để quy định đơn giá. Đây là một điểm bất lợi cho công ty khi thực hiện
công tác trả công lao động, bởi rất có thể người lao động sẽ cảm thấy mức lương mà họ
nhận được không phù hợp với công sức lao động mà họ bỏ ra do không được tính toán
có căn cứ.
5. Đặc điểm về tổ chức và phục vụ nơi làm việc:
5.1. Phục vụ nơi làm việc:
Với những đặc thù riêng của ngành sản xuất kim khí, công ty luôn coi trọng
công tác phục vụ điện và phục vụ sửa chữa bởi đây là hai mặt ảnh hưởng lớn đến tình
hình hoạt động của máy móc, thiết bị, năng suất lao động của công nhân và kết quả sản
xuất sản phẩm.
- Phục vụ điện: Trong phòng kĩ thuật sản xuất của công ty có giao nhiệm vụ cho
5 kĩ thuật viên điện trực tiếp giải quyết mọi vấn đề liên quan đến tình hình vận hành, sử
dụng điện sản xuất của toàn công ty. Nếu phát hiện thấy có nguy cơ cháy nổ hoặc mất
an toàn trong lao động có liên quan đến điện phải thông báo ngay với ban lãnh đạo để
kịp thời phòng tránh…

×