Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bí mật đằng sau giá cổ phiếu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.05 KB, 7 trang )

Bí mật đằng sau giá cổ phiếu
Suốt nhiều tháng nay, TTCKVN đi vào giai đoạn điều chỉnh sâu đã thử thách nhà
đầu tư không ít. Theo nhiều chuyên gia thì đây là giai đoạn thích hợp nhất cho nhà
đầu tư bổ sung kiến thức đầu tư chứng khoán để họ có thể hiểu hơn về những điều
họ đang làm với chính khoản tiền của mình. Một ít kiến thức không bao giờ là đủ
để đánh thắng thị trường. Rất nhiều người vẫn cho rằng đầu tư chứng khoán chẳng
qua chỉ là một trò đánh bạc hợp pháp. Thắng- thua là do hên- xui. Tôi cũng không
muốn tranh cãi nhiều, song hi vọng với những gì bài viết thể hiện sẽ có thể có tác
động tích cực nào đó đối với suy nghĩ của nhiều nhà đầu tư.
Các yếu tố điều khiển giá cổ phiếu
Ai cũng biết giá cổ phiếu được quyết định bởi thị trường nơi mà cung - cầu gặp
nhau, cung nhiều cầu ít thì giá sẽ thấp và ngược lại. Tuy nhiên cũng chẳng thể tìm
được một công thức đầy đủ diễn tả chính xác sự di chuyển giá cả của các cổ phiếu,
nhưng ít nhất chúng ta cũng biết được một số nguyên nhân khiến giá cổ phiếu lên
hoặc xuống. Các nguyên nhân ấy được xếp thành 3 nhóm chính: các yếu tố cơ bản,
các yếu tố kỹ thuật và xúc cảm của thị trường.
Các yếu tố cơ bản tác động đến giá cổ phiếu .
Trong một thị trường hiệu quả, giá cổ phiếu trước tiên sẽ được quyết định bởi các
yếu tố cơ bản, thường thấy là sự kết hợp của: một căn cứ về thu nhập (earning
base) (chẳng hạn như EPS ) và hệ số nhân giá trị( valuation multiple)( ví dụ như tỷ
số P/E).
Chủ sở hữu của cổ phần thường sẽ có quyền đối với thu nhập của cổ phần đó và
giá trị thu nhập trên mỗi cổ phần EPS chính là phần giá trị mang về từ các khoản
đầu tư của họ. Vì thế khi bạn mua một cổ phiếu thì có nghĩa là bạn đang mua một
phần trong toàn bộ dòng thu nhập tương lai của doanh nghiệp ấy. Đó cũng là lý do
vì sao xuất hiện hệ số nhân giá trị. Hệ số nhân giá trị chẳng qua chỉ nhằm mục
đích xác định mức giá mà bạn sẵn sàng trả để sở hữu dòng thu nhập trong tương
lai.
Một phần trong thu nhập có thể được phân phối cho các cổ đông dưới dạng cổ tức,
phần còn lại có thể được doanh nghiệp sử dụng để tái đầu tư vào các dự án tiềm
năng. Dòng thu nhập trong tương lai bao gồm cả mức thu nhập hiện tại và tăng


trưởng thu nhập kỳ vọng.
Nói chung, hệ số nhân giá trị hay giá chứng khóan cũng chỉ là cách thể hiện giá trị
của dòng thu nhập dự kiến trong tương lai chiết khấu về hiện tại.
Căn cứ về thu nhập
Mặc dù chúng ta đang sử dụng chỉ số EPS, tính theo phương pháp kế tóan để làm
rõ nội dung của căn cứ về thu nhập, tuy nhiên vẫn có nhiều cách thức đo lường
khác về khả năng thu nhập. Có khá nhiều tranh cãi cho rằng thước đo dòng tiền
mới là thước đo chuẩn xác nhất cho căn cứ thu nhập. Ví dụ, dòng tiền tự do trên
mỗi cổ phần được sử dụng một thước đo được cân nhắc lựa chọn như căn cứ về
khả năng thu nhập.
Việc đo lường khả năng thu nhập cũng tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp.
Mỗi ngành khác nhau sẽ có những thước đo chuẩn cho riêng mình. Thông thường
với các công ty đã tương đối lớn mạnh so với các công ty khác trong ngành thì
thước đo lại là cổ tức trên mỗi cổ phần, tức là những gì mà các cổ đông thực sự
nhận được.
Hệ số nhân giá trị
Hệ số nhân giá trị nhấn mạnh kỳ vọng của nhà đầu tư vào tương lai của doanh
nghiệp. Như chúng ta đã nói từ trước, hệ số nhân giá trị được cơ bản dựa trên
nguyên tắc chiết khấu dòng thu nhập tương lai về hiện tại. Do vậy, ở đây có hai
yếu tố cần được xem xét, thứ nhất là tỷ lệ tăng trưởng kỳ vọng trong thu nhập và
thứ hai là lãi suất được dùng để tính giá trị hiện tại của dòng thu nhập tương lai gọi
là lãi suất chiết khấu. Một tỷ lệ tăng trưởng cao hơn sẽ cho một hệ số nhân giá trị
cao hơn nhưng một lãi suất chiết khấu cao hơn sẽ cho một hệ số nhân giá trị thấp
hơn.
Đến đây câu hỏi đặt ra là: cái gì quyết định lãi suất chiết khấu? Yếu tố đầu tiên là
rủi ro cổ phiếu. Thông thường với mỗi loại cổ phiếu, nhà đầu tư sẽ cảm nhận mức
độ rủi ro khác nhau. Một cổ phiếu được xem là rủi ro hơn sẽ có mức lãi suất chiết
khấu cao hơn, do vậy sẽ có hệ số nhân giá trị thấp hơn. Yếu tố thứ hai chính là lạm
phát. Lạm phát cao hơn thì sẽ có mức lãi suất chiết khấu cao hơn, hệ số nhân giá
trị cũng sẽ thấp hơn vì dòng thu nhập tương lai sẽ kém giá trị hơn trong môi

trường lạm phát cao hơn.
Nói tóm lại, các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến giá cổ phiếu bao gồm: Mức độ của
thu nhập( thường được đo lường bằng EPS, dòng tìên trên mỗi cổ phần, cổ tức mỗi
cổ phần…), tỷ lệ tăng trưởng thu nhập và lãi suất chiết khấu- yếu tố phụ thuộc vào
rủi ro cảm nhận của nhà đầu tư và lạm phát của quốc gia.
Các yếu tố kỹ thuật ảnh hưởng đến giá chứng khóan
Mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng hơn nếu chỉ có các yếu tố cơ bản mới khiến giá
chứng khóan lên xuống. Các yếu tố kỹ thuật bao gồm hỗn hợp nhiều điều kiện
ngoại tác có thể thay đổi mức cung, cầu của một loại cổ phiếu nào đó. Một vài yếu
tố thì ảnh hưởng một cách gián tiếp đến các yếu tố cơ bản (thí dụ như tăng trưởng
của nền kinh tế cũng có khả năng tác động đến tăng trưởng thu nhập của doanh
nghiệp, dĩ nhiên là mối quan hệ cũng không thật sự rõ ràng lắm).
Các yếu tố kỹ thuật bao gồm:
Lạm phát: Chúng ta đã nhắc đến lạm phát như một trong các yếu tố đầu vào của hệ
số nhân giá trị. Thế nhưng ngòai ra lạm phát còn có một sức điều khiển to lớn tòan
bộ bối cảnh kỹ thuật. Thực tế đã chứng minh, lạm phát thấp có tương quan nghịch
khá rõ ràng đối với việc giá trị cổ phiếu (lạm phát thấp, hệ số nhân giá trị cao và
ngược lại).
Thị trường, ngành và các đối thủ ngang tầm: Cổ phiếu các công ty có khuynh
hướng đi cùng với thị trường và cùng với các doanh nghiệp ngang sức với nó. Một
số công ty đầu tư thành công đã tranh luận rằng sự kết hợp của tòan thị trường và
sự dao động của ngành dù cho có tương phản với sự thể hiện đơn lẻ của một doanh
nghiệp thì chúng cũng sẽ quyết định phần lớn sự di chuyển của giá cổ phiếu. Thậm
chí có nghiên cứu đề nghị rằng yếu tố thị trường giải thích 90% sự di chuyển giá
cổ phiếu. Thế nhưng vẫn có trường hợp một viễn cảnh tệ hại đột ngột xảy ra đối
với một loại cổ phiếu đơn lẻ thì nó cũng thường “ làm bị thương” các cổ phiếu đơn
lẻ khác, kéo thấp mức cầu của tòan ngành. Dĩ nhiên đây vẫn là vấn đề đang gây
nhiều tranh luận.
Các cơ hội đầu tư thay thế: Các công ty phải cạnh tranh tìm kiếm sự đầu tư tiền
vào cổ phiếu công ty mình với các lớp tài sản khác trong bối cảnh đầu tư tòan cầu.

Các cơ hội đầu tư thay thế như trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu chính phủ, bất
động sản, cổ phiếu của doanh nghiệp nước ngòai… có thể là một nguyên nhân gây
nên sự thay đổi trong cung- cầu đối với cổ phiếu trong nước. Mối quan hệ của
mức cầu đối với cổ phiếu trong nước và các khỏan đầu tư khác thật sự cũng rất
khó xác định, nhưng rõ ràng là nó đóng một vai trò không hề nhỏ. Nếu không thì
với báo chí đã không tốn nhiều giấy mực đến thế khi viết về mối quan hệ giữa thị
trường chứng khóan và thị trường bất động sản.
Những giao dịch phát sinh : Những giao dịch phát sinh là những giao dịch mua
bán cổ phiếu với động lực là một lý do nào đó nằm ngòai yếu tố giá trị nội tại của
cổ phiếu. Những giao dịch này bao gồm cả các giao dịch bên trong nhằm mục tiêu
quản trị, tức là chúng được thực hiện nhằm đáp ứng một mục tiêu quản trị danh
mục đầu tư đã lên kế hoạch trước. Một ví dụ khác là các nhà đầu tư có tổ chức
mua hoặc bán chứng khoán nhằm phòng ngừa rủi ro (hedge) cho các khoản đầu tư
khác. Mặc dù những giao dịch này không chính thức nói lên việc” ủng hộ” hay “
chống lại” cổ phiếu, nhưng chúng cũng đã thật sự ảnh hưởng đến mức cung và cầu
và do đó có thể ảnh hưởng đến sự di chuyển giá của cổ phiếu.
Các yếu tố về nhân khẩu học: Một vài nghiên cứu quan trọng được thực hiện để
nghiên cứu yếu tố cơ bản về nhà đầu tư (các nghiên cứu nhân khẩu học) đã cho
thấy : Trong khi các nhà đầu tư từ trẻ đến trung niên là những nhà đầu tư rất háo
hức kiếm tiền, họ có khuynh hướng thích đầu tư vào cổ phiếu bởi vì đây được xem
là mảnh đất màu mỡ, thì các nhà đầu tư lớn tuổi hơn lại có khuynh hướng muốn
rút ra khỏi thị trường cổ phiếu, tìm kiếm những cơ hội đầu tư an tòan hơn nhằm
phục vụ cho kế hoạch hưu trí. Lý thuyết trên cũng cho biết khi tỷ lệ những nhà đầu
tư từ trẻ đến trung niên chiếm tỷ lệ lớn hơn trong dân chúng đầu tư thì mức cầu cổ
phiếu cũng gia tăng và hệ số nhân giá trị cũng cao hơn.
Đường xu hướng: Thông thường các cổ phiếu sẽ di chuyển theo đường xu hướng
ngắn hạn. Một mặt thì cổ phiếu sẽ thường di chuyển theo đường xu hướng, nếu xu
hướng đi lên tích cực thì ”thành công nối tiếp thành công”, mặt khác đôi khi cổ
phiếu cũng “cư xử” ngược với đường xu hướng. Thật không may, như vậy thì việc
nhận dạng cổ phiếu đang nằm trong xu hướng nào hình như cũng không giúp ích

gì nhiều trong việc tiên đoán tương lai.
Khả năng thanh khoản: Thanh khỏan là một yếu tố rất quan trọng và đôi khi được
xem là yếu tố quan trọng nhất. Thanh khoản cho thấy mức độ quan tâm và chú ý
của nhà đầu tư đối với một cổ phiếu nào đó. Cổ phiếu của Wal- Mart là cổ phiếu
có tính thanh khoản rất cao, các công ty nhỏ hơn, có mức vốn hóa thấp thì có tính
thanh khỏan thấp hơn. Mức độ giao dịch cũng là một thước đo thanh khoản. Thanh

×