Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Day hoc cong nghe 8 theo huong tang cuong to chuc hoat dong cho hoc sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-----    -----

PHẠM THỊ THU HƯỜNG

DẠY HỌC MÔN CÔNG NGHỆ 8 THEO ĐỊNH HƯỚNG
TĂNG CƯỜNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC CHO HỌC SINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI – 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
-----    -----

PHẠM THỊ THU HƯỜNG

DẠY HỌC MÔN CÔNG NGHỆ 8 THEO ĐỊNH HƯỚNG
TĂNG CƯỜNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC CHO HỌC SINH

Chuyên ngành: LL và PPDH bộ môn Kỹ thuật công nghiệp
Mã số: 8 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS NGUYỄN TRỌNG KHANH


HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học này là kết quả nghiên
cứu của cá nhân tôi. Các số liệu và tài liệu trích dẫn trong công trình này là
trung thực. Kết quả nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã
được công bố trước đó. Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Tác giả

Phạm Thị Thu Hường


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới:
Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Trung tâm thư viện, các Thầy/ Cô ở
khoa Sư phạm kỹ thuật - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và các nhà khoa học
đã quan tâm, tạo điều kiện, giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu,
và hoàn thành luận văn của mình. Đặc biệt, tác giả xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc
PGS.TS Nguyễn Trọng Khanh – Khoa Sư phạm kỹ thuật, Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình
học tập, nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn này.
Xin cảm ơn toàn thể gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm giúp
đỡ, động viên tác giả!
Hà Nội, ngày tháng 6 năm 2020
Tác giả

Phạm Thị Thu Hường



MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Từ năm học 2020 - 2021, Chương trình GDPT Việt Nam bắt đầu triển
khai thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông mới - Chương trình giáo dục
phổ thông 2018. Một trong những điểm nổi bật của Chương trình giáo dục phổ
thông 2018 là đổi mới dạy học từ theo chuẩn kiến thức, kĩ năng sang dạy học
theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh. Năng lực chỉ hình
thành và phát triển thông qua hoạt động và bằng chính hoạt động của chủ thể.
Do vậy, để phát triển năng lực cho học sinh, một việc không thể thiếu là cần tổ
chức, tạo điều kiện, hướng dẫn các em hoạt động học tập một cách tích cực, tự
giác, chủ động.
Thực tiễn giáo dục phổ thông của nước ta hiện nay đã và đang có những
cải cách chú trọng đổi mới về mục tiêu, chương trình, sách giáo khoa và phương
pháp dạy học trong đó coi đổi mới về phương pháp là vấn đề trọng tâm. Đổi
mới phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học
tập cho học sinh. Qua đó, học sinh không chỉ được cung cấp những kiến thức
cơ bản ở nhà trường mà còn được trang bị phương pháp, cách thức, tự học ngay
từ bậc phổ thông để học sinh có thể chủ động trong việc học, khám phá, tìm tòi
cập nhật những kiến thức mới của nhân loại để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong Hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã nghị quyết về đổi mới căn bản,
toàn diện về giáo dục và đào tạo đã xác định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền



thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ
năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình
thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa
học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và
học”.
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 – 2020 ban hành kèm theo
Quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ: "Tiếp tục
đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người
học".
Là môn học khoa học ứng dụng, môn Công nghệ là chiếc cầu nối giữa kiến
thức khoa học với sản xuất, là môn học kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn giữa
các học sinh vừa học tập vừa trải nghiệm kĩ năng sống và định hướng cho HS
nghề nghiệp trong tương lai.
Việc vận dụng hình thức dạy học theo hướng tổ chức các hoạt động học
vào dạy một cách phù hợp sẽ phát huy tính tích cực, tự lực, phát triển năng lực
hành động, năng lực cộng tác chia sẻ của học sinh, đồng thời khơi dậy hứng
học tập, khả năng tìm tòi sáng tạo cho học sinh. Chính vì vậy tôi lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “Dạy học môn Công nghệ 8 theo định hướng tăng cường tổ
chức hoạt động học cho học sinh” với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào
việc nâng cao chất lượng dạy học môn học.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu lí luận về dạy học theo hướng phát triển năng lực người học,
đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động học cho HS trong dạy học môn Công
nghệ 8 nhằm phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động học tập của HS, qua đó
góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn học.



III. KHÁCH THỂ, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Công nghệ 8 ở trường trung học cơ sở.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung, chương trình môn Công nghệ 8 ở trung học cơ sở.
- Phương pháp dạy học tích cực
- Hoạt động học của học sinh và biện pháp tổ chức hoạt động học cho
học sinh trong dạy học môn Công nghệ 8.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Công nghệ 8 ở một số trường trung học cơ sở
thuộc thành phố Yên Bái.
IV. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC

Nếu đổi mới phương pháp dạy học môn Công nghệ 8 theo hướng tăng
cường tổ chức hoạt động học cho học sinh sẽ phát huy được tính tích cực, tự
lực, chủ động trong học tập của học sinh. Từ đó nâng cao hiệu quả và chất
lượng dạy học môn học.
V. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU

Đề tài có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu lí luận về dạy học tích cực hóa hoạt động học tập của học
sinh, nghiên cứu quá trình dạy học môn Công nghệ 8 ở trường trung học cơ sở,
từ đó xây dựng biện pháp tổ chức hoạt động học cho học sinh trong quá trình
dạy học môn Công nghệ 8.
- Đề xuất và xây dựng biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn
Công nghệ 8 theo hướng tổ chức hoạt động học cho học sinh.
- Kiểm nghiệm để đánh giá tính khả thi và hiệu quả của biện pháp đã đề
xuất, đánh giá những giáo án minh họa biện pháp mà đề tài đã biên soạn.



VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Một số phương pháp nghiên cứu lí luận như: phương pháp phân tích,
tổng hợp,... khi nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài để xây dựng cơ
sở lí luận của đề tài và trình bày các kết quả nghiên cứu của đề tài.
- Một số phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: sử dụng phương pháp
điều tra, phỏng vấn,... nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng tình hình dạy học
môn Công nghệ 8 hiện nay ở trường trung học cơ sở; sử dụng phương pháp
chuyên gia để kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của biện pháp tổ chức hoạt
động học cho học sinh trong dạy học môn Công nghệ 8 ở trường trung học cơ
sở.
Đề tài cũng sử dụng phương pháp thống kê toán học để xử lí số liệu điều
tra khảo sát và kiểm nghiệm.
VII. CẤU TRÚC LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo. Cấu trúc luận văn
được chia 3 chương với nội dung chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc tổ chức hoạt động học cho
học sinh.
Chương 2: Dạy học môn Công nghệ 8 theo hướng tổ chức hoạt động học
cho học sinh.
Chương 3: Kiểm nghiệm và đánh giá.


Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC CHO HỌC SINH
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC
HOẠT ĐỘNG HỌC CHO HỌC SINH

1.1.1. Các nghiên cứu ở nước ngoài
Ngày nay, hầu như quốc gia nào cũng có trường học. Có thể đó là các
trường học danh tiếng, được trang bị cơ sở vật chất, phương tiện dạy học hiện
đại, nhưng cũng có thể chỉ là một căn nhà tuềnh toàng, tranh tre nứa lá. Vì thế,
hầu hết trẻ em đến tuổi đi học đều được học tập ở trường lớp, có thầy cô dạy
dỗ, giáo dục. Còn ngày xưa, hầu hết những người được coi là tri thức, nhà hiền
triết, nhà khoa học,... đều ít nhiều phải tự học hoặc chủ yếu là tự học. Bởi ngày
đó hầu như chưa có trường, lớp và tất nhiên cũng hầu như chưa có thầy giáo.
Có thể nói hầu hết những triết gia, những nhà khoa học nổi tiếng thế giới
đều trưởng thành, phát triển nhơ tự học.
Nhà giáo dục học nổi tiếng J.Jrutxo(1712 - 1778) đã xác định: “Phải
hướng học sinh tích cực giành kiến thức bằng cách tìm hiểu, khám phá và sáng
tạo” còn J.A.Komenski- một nhà sư phạm danh tiếng của Thế kỉ XVII cũng đã
cho rằng: “Học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ để nắm được bản chất của sự vật,
hiện tượng”. Trong sách “Tự học như thế nào ?” của N.A.Rubakin (1862 1946) cũng nói đến ý nghĩa của sự tự học một cách tích cực của học sinh,
Rubakin cho rằng: “Hãy mạnh dạn tự mình đặt ra câu hỏi rồi tự mình tìm lấy
câu trả lời, đó chính là phương pháp tự học. Tuy nhiên chỉ có động cơ thôi là
chưa đủ, mà người học phải có kỹ năng tự học”. Trong cuốn sách “Nghiên cứu
học tập như thế nào” của Hebơc Smitman (CHDC Đức) cũng đã nói tới vấn đề
về cần có cách nghiên cứu như thế nào, tự học như thế nào để đạt được hiệu
quả và kết quả tốt nhất [13].


Nổi bật hơn cả có lẽ là Raja Roy Singh, ông cho rằng người thầy giáo
đóng vai trò rất quan trọng trong việc chỉ ra cách tự học cho học sinh. Ông cho
rằng người học sẽ phải học thường xuyên, học suốt đời để đáp ứng được những
phát triển, thay đổi, đổi mới của xã hội. Vì thế, người thầy giáo không chỉ dạy
chữ mà còn phải giúp cho học trò có được năng lực nhận thức, năng lực tự học
để có thể học tập suốt đời [2].
Ngay ở nửa cuối của thế kỉ XX, khi khoa học, kĩ thuật, công nghệ phát

triển mạnh đòi hỏi người lao động phải không ngừng học tập và đòi hỏi nhà
trường cũng thường xuyên phải đổi mới chương trình, nội dung dạy học. Đi
kèm với điều đó, người giáo viên trong mấy chục năm công tác của mình cũng
không thể chỉ sử dụng vốn kiến thức được trang bị khi còn ngồi trên ghế nhà
trường. Chính vì thế nhiều nhà sư phạm trên thế giới cũng bắt đầu chú trọng đè
cập tới việc tự học, mà đầu tiên chính là ở các giáo viên.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh - một tấm gương sáng về tự học - cũng
rất đề cao việc tự học. Bác nói: “Về cách học phải lấy tự học làm cốt; Về cách
dạy thì phải tránh lối dạy nhồi sọ; Về học tập tránh lối học vẹt” [3].
Viện sĩ Nguyễn Cảnh Toàn, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
(GD&ĐT), cũng một tấm gương về tự học. Sau này, ông cũng đã nghiên cứu
về tự học và cũng là chủ biên cuốn “Quá trình dạy - Tự học”. Đây có thể được
coi là một trong những tài liệu đi tiên phong trong vấn đề nghiên cứu về vai trò,
ý nghĩa và phương pháp của tự học [24].
Trong suốt thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta cũng đã có nhiều chỉ đạo
về đổi mới giáo dục và đào tạo, trong đó có giáo dục phổ thông. Ngày
26/12/2018, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã kí Thông tư 32 ban hành Chương trình
giáo dục phổ mới - có thể gọi là Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Chương
trình này đã đảm bảo thực hiện tinh thần của Nghị quyết 29 là đổi mới căn bản


và toàn diện chương trình giáo dục phổ thông theo hướng phát triển năng lực
và phẩm chất học sinh. Nhưng từ trước năm 2018, Bộ GD&ĐT cũng đã triển
khai các hoạt động nhằm dần dần đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
tích cực hóa hoạt động học tập của người học [5; 7; 9; 10; 11].
Có thể nói, học tập tích cực, tự lực, tự chủ, sáng tạo,... của người học nói
chung và của học sinh phổ thông nói riêng đang là mục tiêu của giáo dục và
đào tạo hiện nay.
1.2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.2.1. Khái niệm hoạt động
“Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ
nhằm một mục đích nhất định trong đời sống xã hội” [26].
Hoặc có thể hiểu “Hoạt động là quá trình tác động qua lại giữa con người
với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm về phía thế giới và sản phẩm về
phía con người” [23].
Hoạt động có thể là những tác động giữa con người với con người tạo
nên xã hội hoặc tác động giữa con người với thế giới xung quanh để tạo ra của
cải cho xã hội.
Trong dạy học, hoạt động cuat người học tác động vào đối tượng học tập
là nguồn tri thức sẽ tạo nên tri thức cho người học. Đồng thời, trong hoạt động
đó cũng có hoạt động của người học với nhau.
1.2.2. Khái niệm hoạt động dạy học
Dạy học là một hoạt động, bao gồm hai hoạt động: hoạt động giảng dạy
của thầy và hoạt động học tập của trò. Khi hai hoạt động này hòa cùng với nhau
sẽ tạo nên hoạt động giảng dạy - học tập, được gọi là hoạt động dạy học. Khi
nói đến dạy học là nói đến cả việc dạy và cả việc học. Vì thế, nhà tâm lý học
A.Mentriskaia cũng đã cho rằng: “Hai hoạt động của thầy và trò là hai mặt của
một hoạt động” [23].


Tuy nhiên, hai hoạt động này không đồng đẳng với nhau. Trước đây, hoạt
động dạy đóng vai trò chủ động, quyết định, chủ yếu, còn hoạt động học đóng
vai trò bị động, thứ yếu. Dần dần, vai trò, ý nghĩa của hoạt động học ngày càng
được nâng cao, coi trọng.
Tất nhiên, người thầy giáo là nhân tố quyết định đến chất lượng giáo dục.
Nói chú trọng hoạt động học của người học không có nghĩa là hạ thấp vai trò,
vị trí của người thầy. Nhiều nhà tâm lí học, giáo dục học và nhà sư phạm trên
thế giới vẫn đánh giá cao vai trò hoạt động của người thầy. Davydov cho rằng:
“Các hoạt động dạy- học là các hoạt động cùng nhau của thầy và trò”. Còn John

Dewey, nhà giáo dục người Mỹ, mặc dù có chủ trương coi học trò là trung tâm
nhưng vẫn có những đòi hỏi rất cao ở người thầy. Ông cho rằng: “Hãy tôn trọng
trẻ em, tôn trọng chúng đến cùng, song hãy tôn trọng cả bản thân chúng ta
(người lớn) nữa” [13].
Dạy học lấy học sinh làm trung tâm không có nghĩa hạ thấp vị thế của
người thầy mà nó chỉ là quan điểm đổi mới trong dạy học. Đó là hai hoạt động
dạy và học đều có chung mục đích nhưng quan trọng là mục đích của người
học. Trong hai hoạt động đó, quan trọng là người học học được cái gì chứ không
phải là người dạy dạy như thế nào. Hoạt động dạy của thầy vừa dạy cho trò,
vừa giúp trò có được phương pháp học tập. Cho người ta cá không bằng cho
người ta cái cần câu và dạy người ta cách câu cá. Triết lí đó đã chỉ ra cho người
thầy cải tiến cách dạy, điều chỉnh hoạt động dạy.
1.2.3. Khái niệm về tự học
Cho đến nay, có rất nhiều phát biểu khác nhau về khái niệm tự học. Có
thể nêu ra một số quan niệm sau:
- N.A.Rubakin coi: “Tự học là quá trình lĩnh hội những tri thức, kinh
nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập
các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban đầu, đối chiếu với các mô hình phản


ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài người thành vốn tri thức, kinh
nghiệm, kĩ năng, kĩ xảo của chủ thể” [13].
- Tác giả Thái Duy Tuyên lại cho rằng: “Tự học là hoạt động độc lập
chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) cùng các phẩm
chất động cơ, tình cảm để chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay
những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại, biến nó thành sở hữu của
chính bản thân người học” [10].
- Khái niệm tự học theo từ điển : “Tự học là quá trình tự mình hoạt động
lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành không có sự hướng

dẫn trực tiếp của người giáo viên và sự quản lí trực tiếp của cơ sở giáo dục”
[26; Tr.458].
Có thể hiểu một cách khái quát nhất là: “Tự học là tự mình tìm kiếm lấy
kiến thức, hình thành kĩ năng”.
Sở dĩ cần đề cập tới khái niệm này vì trong học tập của học sinh (HS), kể
cả ở trên lớp dưới sự tổ chức, hướng dẫn của GV thì vẫn có thể coi khi đó HS
thực hiện hoạt động tự học.
1.3. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC
1.3.1. Đặc điểm của hoạt động
- Có thể thấy đặc điểm đầu tiên là trong hoạt động học là: chủ thể của
hoạt động là người học nói chung hay HS nói riêng làm việc có kế hoạch, có
mục đích nhất định. Trong quá trình hoạt động, chủ thể luôn biết cách tổ chức,
lựa chọn, sắp xếp các hành động một cách hợp lí. Và trong điều kiện, bối cảnh
cụ thể nào đó, chủ thể cũng biết cách điều chỉnh các hành động cho phù hợp.
- Đặc điểm thứ hai của hoạt động học là đối tượng của nó chính là tri
thức, là các sự vật, hiện tượng mà người học cần hiểu rõ, chiếm lĩnh để thỏa
mãn nhu cầu hoặc để thực hiện một nhiệm vụ nào đó.


- Đặc điểm thứ ba của hoạt động học là đó là hoạt động có mục đích rõ
rệt. Thông qua hoạt động học, người học nhận thức được đối tượng, chiếm lĩnh
tri thức, kinh nghiệm, rèn luyện kĩ năng để tạo năng lực nhận thức và năng lực
hành động cho mình. Nhờ có đặc điểm này mà người học luôn biết định hướng
học tập cho mình.
Có thể thấy hoạt động bao giờ cũng có mối quan hệ mật thiết giữa ba
thành tố: chủ thể, đối tượng và mục đích của hoạt động.
1.3.2. Hoạt động tự học của học sinh
“ Hoạt động tự học của HS là hoạt động bao gồm tư duy tích cực trong
suy nghĩ cùng các hành động với tư liệu học tập, sự trao đổi, tranh luận với
nhau và sự trao đổi với GV. Hành động tự học của HS với tư liệu học tập, trao

đổi, tranh luận với nhau và sự trao đổi với GV là hành động nhằm chiếm lĩnh,
xây dựng tri thức cho riêng mình. Sự trao đổi, tranh luận giữa HS với nhau và
giữa HS với GV nhằm tăng cường sự hỗ trợ từ GV và tập thể HS trong quá
trình chiếm lĩnh tri thức khoa học” [9]
Thông thường, ban đầu HS chưa nắm được phương pháp tự học, các
không biết bắt đầu từ đâu và làm thế nào. Vì thế, sự hướng dẫn ban đầu của
người GV là rất quan trọng. Trong dạy học, người GV phải dần dần từng bước
hướng dẫn cho các em từ việc tìm kiếm thông tin, tìm tại liệu nào, ở đâu,... cho
đến việc thu thập thế nào, sử dụng ra làm sao v.v...
Để HS nắm được phương pháp tự học, ngay trong quá trình dạy học ở
trên lớp, người thầy đã phải hướng dẫn cho các em cách tư duy, phân tích, tổng
hợp, phán đoán, suy luận các vấn đề, cách tập hợp thông tin thông qua khái
quát hóa. Đồng thời, cũng chỉ cho các em có thể thu thập thông tin từ nhiều
nguồn, từ trong thư viện cho đến ngoài đời sống thực tiễn. Các bài tập không
chỉ là khai thác kiến thức tỏng sách vở mà còn trên nhiều phương tiện thông tin
đại chúng khác.


Tổ chức hoạt động tự học cho HS là người thầy tổ chức, hướng dẫn HS
cách tìm đọc tài liệu, làm thực nghiệm để tìm hiểu nhằm tự lĩnh hội kiến thức,
rèn luyện kĩ năng.
Dạy học với mục tiêu nhằm phát triển năng lực cho HS, trong quá trình
dạy học, người GV không thuyết trình, giảng giải đơn thuần như cách dạy thông
thường mà khéo léo tổ chức cho HS tích cực tự hoạt động, tự học. Thông qua
chuỗi các hoạt động, HS không chỉ lĩnh hội được kiến thức, hình thành được kĩ
năng mà còn nắm được phương pháp chiếm lĩnh kiến thức. Đồng thời, HS cũng
được làm quen với việc vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các tình
huống, vấn đề thực tiễn.
Theo định hướng như vậy, GV trở thành người tổ chức, hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát, đánh giá quá trình tự học của HS. Tiến trình thực hiện tổ chức,

hướng dẫn,... của GV thường bao gồm các bước sau:
- Bước 1: GV tạo ra tình huống, nêu lên vấn đề cần giải quyết và giao
nhiệm vụ cho HS. Nhiệm vụ được giao sao cho tạo sự hấp dẫn để HS có ham
muốn giải quyết. Nhiệm vụ được giao cũng phải đảm bảo đề HS nhận thức rõ
vấn đề cần giải quyết.
- Bước 2: HS tiến hành giải quyết vấn đề, thực hiện nhiệm vụ một cách
tự lực, chủ động. Hoạt động giải quyết của HS có thể có sự tham gia, hỗ trợ,
hợp tác của bạn học, có thể độc lập.
- Bước 3: HS báo cáo kết quả, GV tổ chức cho HS báo cáo, trao đổi, thảo
luận và cuối cùng GV tổng kết, nhận xét, đánh giá và chốt lại những nội dung
là tri thức mà HS cần lĩnh hội.
1 .3.3. Biện pháp tổ chức hoạt động học cho học sinh
1.3.3.1. Tổ chức hoạt động học
Tiến trình tổ chức hoạt động học cho HS cần được thiết kế thành các hoạt
động học theo tiến trình của những phương pháp dạy học (PPDH) và kĩ thuật


dạy học tích cực như: DH giải quyết vấn đề, DH tìm tòi nghiên cứu, kĩ thuật
khăn trải bàn, kĩ thuật bể cá,... và các PPDH đặc thù của môn học. Theo Công
văn 5555/BGDDT-GDTrH ngày 08 tháng 10 năm 2014 có nêu ra tiến trình dạy
học được tổ chức thành các hoạt động học của HS: “Hoạt động khởi động, Hoạt
động hình thành kiến thức; Hoạt động luyện tập, vận dụng, Hoạt động tìm tòi
mở rộng” và trong mỗi hoạt động lại chia ra 4 bước: “Chuyển giao nhiệm vụ
học tập, thực hiện nhiệm vụ học tập, báo cáo kết quả thảo luận, đánh giá kết
quả thực hiện nhiệm vụ học tập” [7].
Để hình thành và phát triển năng lực HS, trên quan điểm vận dụng linh
hoạt các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực, GV cần tăng cường tổ chức,
hướng dẫn HS chủ động, tích cực trong hoạt động nhận thức mà cụ thể là hoạt
động học (học trên lớp theo cá nhân, nhóm). Ở đây giới thiệu các hoạt động
học chủ yếu mà GV có thể vận dụng trong quá trình dạy học.

Tùy theo đặc điểm của môn học, điều kiện dạy học môn học và đặc điểm
của HS mà GV có thể sắp xếp tiến tiến trình dạy học cho phù hợp. Tuy nhiên,
theo nghiên cứu của các nhà sư phạm tích cực, có thể chia các hoạt động dạy
học trên lớp ra 5 hoạt động chủ yếu sau:
* Hoạt động khởi động:
- Mục đích của hoạt động: tạo tâm thế học tập cho HS, giúp học sinh ý
thức được nhiệm vụ học tập, hứng thú học bài mới.
- Phương thức hoạt động: GV sẽ đặt câu hỏi hoặc tạo tình huống học tập
dựa trên việc huy động kiến thức, kinh nghiệm của bản thân HS có liên quan
đến vấn đề xuất hiện trong sách giáo khoa và tài liệu học tập khác; làm bộc lộ
"cái" HS đã biết, bổ khuyết những gì cá nhân HS còn thiếu, giúp HS nhận ra
"cái" chưa biết và muốn biết thông qua hoạt động này.
Từ đó, giúp HS suy nghĩ và xuất hiện những quan niệm ban đầu của mình
về vấn đề sắp tìm hiểu, học tập.


Câu hỏi mà GV đưa ra cần cố gắng đảm bảo được các yếu tố vừa sức,
hấp dẫn, gắn với kiến thức đã học và thực tiễn cuộc sống.
Câu hỏi và tình huống GV đưa ra cũng phải đảm bảo yêu cầu là HS có
thể trả lời, làm được một phần mà không rơi vào một trong hai trạng thái: không
làm được tí gì hoặc làm được hoàn toàn. Chính cái mà HS không làm được,
không trả lời được sẽ được giải quyết trong bài học này.
Và như vậy, khi ở cuối tiết học, bài học, GV cần quay trở lại câu hỏi này,
tình huống này để giúp HS trả lời được trọn vẹn câu hỏi, giải quyết được trọn
vẹn vấn đề mà tình huống đặt ra ban đầu.
* Hoạt động hình thành kiến thức:
- Mục đích của hoạt động: giúp HS lĩnh hội được kiến thức, kĩ năng mới
và đưa các kiến thức, kĩ năng mới vào hệ thống kiến thức, kĩ năng của bản thân.
- Phương thức hoạt động: GV sẽ giúp HS xây dựng kiến thức mới của
bản thân trên cơ sở đối chiếu kiến thức, kinh nghiệm sẵn có với những hiểu biết

mới; kết nối/sắp xếp kiến thức cũ và kiến thức mới dựa trên việc phát biểu, viết
ra các kết luận/ khái niệm/ công thức mới…
Hoạt động hình thành kiến thức là hoạt động trọng tâm nhất của tiết học.
Thời lượng của hoạt động này cũng chiếm phần lớn thời lượng của tiết học.
Tùy theo dung lượng và ức độ khó, dễ của kiến thức mà GV có thể chia nhỏ
hoạt động này ra các hoạt động nhỏ riêng. Mỗi hoạt động nhỏ sẽ giải quyết một
phần nội dung kiến thức của bài.
Tùy theo đặc điểm nội dung kiến thức mới, điều kiện dạy học và đặc điểm
của HS mà GV có thể chia nhóm và vận dụng các PPDH, kĩ thuật dạy học tích
cực phù hợp.
Khi tổ chức HS học tập theo nhóm, GV cần lưu ý có những biện pháp để
đảm bảo tất cả HS cùng hoạt động, tránh tình trạng có HS dựa dẫm vào bạn mà
không cố gắng học tập.


* Hoạt động luyện tập, thực hành:
- Mục đích của hoạt động: giúp HS củng cố, hoàn thiện kiến thức, kĩ năng
vừa lĩnh hội được.
- Phương thức hoạt động: GV sẽ yêu cầu HS làm các “bài tập“ cụ thể
giống như “bài tập“ trong bước hình thành kiến thức để diễn đạt được đúng
kiến thức hoặc mô tả đúng kĩ năng đã học bằng ngôn ngữ theo cách của riêng
mình và áp dụng trực tiếp kiến thức, kĩ năng đã biết để giải quyết các tình
huống/vấn đề trong học tập.
Trong hoạt động này, GV cần chú ý có hai kiểu bài. Nếu là bài lí thuyết
thì hoạt động này giống khâu củng cố kiến thức. Vì thế cuối hoạt động thì HS
sẽ nắm chắc được kiến thức của bài học.
Còn nếu là bài thực hành thì hoạt động này có thể còn quan trọng hơn
hoạt động hình thành kiến thức vì kết quả của hoạt động này là HS hình thành
được kĩ năng thao tác kĩ thuật. Khi đó, dung lượng thời gian và tầm quan trọng
của hoạt động này lại là chính. Cuối hoạt động, GV có thể tổ chức kiểm tra để

đánh giá kết quả học tập của HS.
* Hoạt động vận dụng:
- Mục đích của hoạt động: giúp HS vận dụng được các kiến thức, kĩ năng
để giải quyết các tình huống/vấn đề mới, không giống với những tình
huống/vấn đề đã được hướng dẫn hay đưa ra những phản hồi hợp lí trước một
tình huống/vấn đề mới trong học tập hoặc trong cuộc sống.
- Phương thức hoạt động: GV sẽ hướng dẫn HS kết nối và sắp xếp lại
các kiến thức, kĩ năng đã học giải quyết thành công tình huống/vấn đề tương tự
tình huống/vấn đề đã học. Đây có thể là những hoạt động mang tính nghiên
cứu, sáng tạo, vì thế cần giúp HS gần gũi với gia đình, địa phương, tranh thủ
sự hướng dẫn của gia đình, địa phương để hoàn thành nhiệm vụ học tập. Trước
một vấn đề, HS có thể có nhiều cách giải quyết khác nhau.


Cần lưu ý, hoạt động vận dụng và hoạt động tìm tòi, mở rộng là HS làm
việc ở nhà. Vì vậy, GV cần chú ý sử dụng các kĩ thuật giao và kiểm tra nhiệm
vụ như là với bài tập về nhà vẫn làm.
Đặc biệt, đối với những hoạt động có liên quan đến vấn đề an toàn lao
động thì GV phải nhắc nhở HS hết sức chú ý đến điều này.
* Hoạt động tìm tòi, mở rộng:
- Mục đích của hoạt động: giúp HS không bao giờ dừng lại với những gì
đã học và hiểu rằng ngoài những kiến thức được học trong nhà trường còn rất
nhiều điều có thể và cần phải tiếp tục học, ham mê học tập suốt đời.
- Phương thức hoạt động: GV cần khuyến khích HS tiếp tục tìm tòi và
mở rộng kiến thức ngoài lớp học. HS tự đặt ra các tình huống có vấn đề nảy
sinh từ nội dung bài học, từ thực tiễn cuộc sống, vận dụng các kiến thức, kĩ
năng đã học để giải quyết bằng những cách khác nhau.
Lưu ý:
- Như trên đã nêu, hoạt động vận dụng và tìm tòi, mở rộng là những hoạt
động mà HS thực hiện độc lập (có thể theo nhóm nhỏ với những HS có nhà ở

gần nhau) ở ngoài lớp học, thậm chí thường ở ngoài cả nhà trường. Do vậy, nếu
cần thiết, GV có thể cần sự hỗ trợ, hợp tác của phụ huynh học sinh. Đặc biệt
với khâu an toàn và hỗ trợ phương tiện đi lại, nếu cần.
- Vì hoạt động vận dụng và tìm tòi, mở rộng là những hoạt động mà HS
thực hiện độc lập hoặc theo nhóm nhỏ nên có thể không yêu cầu sản phẩm của
tất cả các HS đều phải giống nhau. Kể cả phương thức và tiến trình thực hiện
có thể cũng không giống nhau. Khi đó, GV cần trao đổi để có những cách hướng
dẫn cụ thể cho mỗi loại nhiệm vụ.
- Hai hoạt động vận dụng và tìm tòi, mở rộng là những hoạt động dạy
học không thực hiện trên lớp nhưng lại có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng.
Đó chính là những hoạt động giúp HS rèn luyện tính tích cực, tự giác, chủ động


và hình thành năng lực giải quyết vấn đề. Tuy nhiên, theo kế hoạch dạy học
hiện nay, thời lượng dùng cho khâu kiểm tra miệng (kiểm tra bài cũ đầu giờ
học bài mới) lại không có nhiều nên GV phải lưu ý để xử lí tốt điều này.
Nếu không có kiểm tra đánh giá thì một mặt không kiểm soát được hoạt
động của HS, một mặt không tạo hứng thú, áp lực cho HS.
Vì thế, GV cần suy nghĩ tìm giải pháp để không tốn nhiều thời gian nhưng
vẫn có thể kiểm soát được kết quả làm việc của HS. Ví dụ có thể yêu cầu các
em viết báo cáo kết quả, báo cáo thu hoạch với một số trang nào đó để GV có
thể xem và đưa ra một vài ý kiến quan trọng, nổi bật.
Khi kết quả hoạt động của mình được thầy biết đến, được nhận xét, được
khen, được chê thì dù chỉ một chút thôi, HS cũng có hứng thú và áp lực để tiếp
túc làm tốt hơn cho các lần sau.
1.3.3.2. Kĩ thuật tổ chức hoạt động học của học sinh
Với mục đích và phương thức của các hoạt động dạy học nói trên, phương
pháp tổ chức, hướng dẫn của GV đóng vai trò đặc biệt quan trọng, quyết định
đến tự thành bại của mỗi hoạt động. Ngay từ năm 2014, Bộ GD&ĐT đã có
Công văn số: 5555/BGDĐT-GDTrH, ngày 8/10/2014 để “Hướng dẫn sinh hoạt

chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá; tổ chức và
quản lí các hoạt động chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo dục
thường xuyên qua mạng” [7].
Theo hướng dẫn của công văn này, khi lên lớp, GV phải làm tốt một số
công việc cụ thể như sau:
“- Chuyển giao nhiệm vụ học tập: nhiệm vụ học tập rõ ràng và phù hợp
với khả năng của HS, thể hiện ở yêu cầu về sản phẩm mà HS phải hoàn thành
khi thực hiện nhiệm vụ; hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích
được hứng thú nhận thức của HS; đảm bảo cho tất cả HS tiếp nhận và sẵn sàng
thực hiện nhiệm vụ.


- Thực hiện nhiệm vụ học tập: khuyến khích HS hợp tác với nhau khi
thực hiện nhiệm vụ học tập; phát hiện kịp thời những khó khăn của HS và có
biện pháp hỗ trợ phù hợp, hiệu quả; không có HS bị "bỏ quên".
- Báo cáo kết quả và thảo luận: hình thức báo cáo phù hợp với nội dung
học tập và kĩ thuật dạy học tích cực được sử dụng; khuyến khích cho HS trao
đổi, thảo luận với nhau về nội dung học tập; xử lí những tình huống sư phạm
nảy sinh một cách hợp lí.
- Đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: nhận xét về quá trình
thực hiện nhiệm vụ học tập của HS; phân tích, nhận xét, đánh giá kết quả thực
hiện nhiệm vụ và những ý kiến thảo luận của HS; chính xác hóa các kiến thức
mà HS đã học được thông qua hoạt động”.
Cũng cần lưu ý rằng, theo công văn này, việc dự giờ, nhận xét, đánh giá
giờ dạy của GV cũng cần có sự đổi mới tương ứng. Đó là chủ yếu đánh giá xem
HS học như thế nào, học được cái gì chứ không đánh giá giáo viên dạy cái gì
và dạy như thế nào.
1.3.3.3. Một số loại hình hoạt động học của học sinh
a) Hoạt động cá nhân:
Trước khi tham gia phối hợp với bạn học trong các nhóm nhỏ, cá nhân

luôn có một khoảng thời gian với các hoạt động để tự lĩnh hội kiến thức, chuẩn
bị cho các hoạt động đóng vai hay thảo luận trong nhóm. Phổ biến nhất có thể
kể đến các hoạt động như đọc mục tiêu bài học, đọc văn bản, giải bài toán để
tìm kết quả,…
Cá nhân làm việc độc lập nhưng vẫn có thể tranh thủ hỏi hay trả lời bạn
trong nhóm, vẫn thực hiện các yêu cầu của của nhóm trưởng (nếu có) để phục vụ
cho các hoạt động cá nhân.
Tần suất của các hoạt động cá nhân trong nhóm rất lớn và chiếm ưu thế
hơn so với các hoạt động khác. Làm việc cá nhân giúp HS có thời gian tập trung


tự nghiên cứu, tự khám phá kiến thức, tự chuẩn bị những gì cần thiết trước khi
sử dụng nó để có những hoạt động khác cùng cả nhóm. Trong quá trình làm
việc cá nhân, gặp những gì không hiểu, HS có thể hỏi bạn ngồi cạnh hoặc nêu
ra trong nhóm để các thành viên khác cùng trao đổi và nếu nhóm không giải
quyết được vấn đề thì nhóm trưởng có thể nhờ GV hỗ trợ.
b) Hoạt động theo cặp (2 học sinh):
Tuỳ theo hoạt động học tập, có lúc HS sẽ làm việc theo cặp trong nhóm.
GV lưu ý cách chia nhóm sao cho không HS nào bị lẻ khi hoạt động theo cặp.
Nếu không, GV phải cho đan chéo giữa các nhóm để đảm bảo tất cả HS đều
được làm việc. Làm việc theo cặp rất phù hợp với các công việc như: kiểm tra
dữ liệu, giải thích, chia sẻ thông tin; thực hành kĩ năng giao tiếp cơ bản (ví dụ
như nghe, đặt câu hỏi, làm rõ một vấn đề), đóng vai.
Làm việc theo cặp sẽ giúp HS tự tin và tập trung tốt vào công việc nhóm.
Quy mô nhỏ này cũng là nền tảng cho sự chia sẻ và hợp tác trong nhóm lớn
hơn sau này.
c) Hoạt động chung cả nhóm:
Trong các giờ học, nếu tổ chức dạy học theo nhóm thì luôn có các hoạt
động cả nhóm cùng hợp tác. Ví dụ, sau khi HS tự đọc một đoạn bài, trưởng
nhóm sẽ dẫn dắt các bạn trao đổi về một số vấn đề của nội dung đó; hoặc sau

khi một cá nhân trong nhóm đã đưa ra kết quả của một vấn đề, nhóm sẽ cùng
trao đổi nhận xét, bổ sung về cách giải quyết vấn đề đó; hoặc là HS trong nhóm
sẽ cùng thực hiện một dự án nhỏ với sự chuẩn bị và phân chia công việc rõ
ràng,... Nhóm là hình thức học tập phát huy rất tốt khả năng sáng tạo nên hình
thức này dễ phù hợp với các hoạt động cần thu thập ý kiến và phát huy sự sáng
tạo. Điều quan trọng là HS cần phải biết mình làm gì và làm như thế nào khi
tham gia làm việc nhóm.


d) Hoạt động chung cả lớp:
Khi HS có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh một vấn đề hoặc có những
khó khăn mà nhiều HS không thể vượt qua, GV có thể dừng công việc của các
nhóm lại để tập trung cả lớp làm sáng tỏ các vấn đề còn băn khoăn. Lưu ý rằng
những tình huống như vậy không xuất hiện thường xuyên trong lớp học.
Như vậy, việc lựa chọn hình thức làm việc nào: cá nhân, cặp đôi, nhóm
hay cả lớp đều phụ thuộc vào yêu cầu của các loại hình hoạt động. GV cần lưu
ý là không phải luôn tuân theo một cách máy móc thiết kế có sẵn của giáo án.
Tùy vào tình hình chung của cả lớp và thiết kế của cá nhân, GV có sự thay đổi,
ứng dụng linh hoạt và phù hợp, đảm bảo tính hiệu quả cho bài học và sự hứng
thú cho HS.
1.4. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH DẠY HỌC MÔN CÔNG NGHỆ 8 Ở MỘT
SỐ TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ TẠI THÀNH PHỐ YÊN BÁI
1.4.1. Mục đích, đối tượng và phương pháp khảo sát
1.4.1.1. Mục đích điều tra, khảo sát
Để triển khai biện pháp tổ chức hoạt động học cho HS, cần phải biết được
tình hình dạy học ở cơ sở thế nào, PPDH thường được sử dụng của thầy, đặc
điểm nhận thức của HS, điều kiện dạy học của nhà trường v.v... Khảo sát cơ sở
biện pháp tổ chức các hoạt động học cho HS nhằm mục đính như vậy. Khi theo
dõi và đánh giá được thực trạng dạy và học môn Công nghệ 8 và là người trực
tiếp hướng dẫn, tổ chức hoạt động tự học cho HS sẽ tạo cơ sở thực tiễn để triển

khai lí thuyết của đề tài.
1.4.1.2. Đối tượng khảo sát
Qua quá trình tiến hành khảo sát thực trạng dạy học môn Công nghệ 8
và GV là người hướng dẫn, tổ chức hoạt động tự học cho học sinh .Khảo sát ở
9 trường THCS trên địa bàn thành phố Yên Bái (Bảng 1.1). Mỗi trường tác giả
chỉ hỏi một giáo viên.


“Bảng 1.1. Danh sách các trường THCS được hỏi ý kiến”
Tên trường

TT

Số lượng GV

1

Trường THCS Hợp Minh

1

2

Trường THCS Lê Hồng Phong

1

3

Trường THCS Nam Cường


1

4

Trường THCS Nguyễn Du

1

5

Trường THCS Quang Trung

1

6

Trường THCS Tuy Lộc

1

7

Trường THCS Văn Phú

1

8

Trường THCS Yên Ninh


1

9

Trường THCS Yên Thịnh

1

Về phía học sinh, tác giả chỉ hỏi học sinh ở 4 trường THCS (Bảng 1.2).
Bảng1.2. Số lượng học sinh được hỏi ý kiến”
Tên trường

TT

Lớp

Số HS

1

Trường THCS Nguyễn Du

8B,8C,8A,8G

169

2

Trường THCS Lê Hồng Phong


8A,8B,8C,8H

176

3

Trường THCS Quang Trung

8E,8D,8A,8B

168

4

Trường THCS Yên Ninh

8 E,8C, 8D,8B

140

Tổng số

16 lớp

653

1.4.1.3. Phương pháp khảo sát
- Thông qua dự giờ, quan sát : Một số tiết dạy của các thầy, cô giáo tại
các trường THCS nói trên để thu thập các thông tin chính xác nhất và thực trạng

hiện tại trong việc dạy học môn Công nghệ 8.


- Phương pháp chuyên gia: Xây dựng các phiếu hỏi để xin ý kiến của
các GV.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: Xây dựng hệ thống phiếu hỏi ý
kiến HS.
1.4.2. Tiến trình và kết quả khảo sát
1.4.2.1. Tiến trình khảo sát
Quá trình khảo sát thực trạng dạy và học Công nghệ lớp 8 tại một số
trường THCS thuộc thành phố Yên Bái được tiến hành như sau:
- Xây dựng phiếu điều tra, là bảng hỏi để xin ý kiến những GV đang trực
tiếp giảng dạy môn Công nghệ 8.
- Xây dựng phiếu điều tra, cũng là bảng hỏi lấy ý kiến của những học
sinh đang học lớp 8 về tình hình học tập môn Công nghệ 8.
- Tới trường, xin ý kiến lãnh đạo nhà trường (Ban Giám hiệu) để khảo
sát một số vấn đề do đề tài đặt ra.
- Trao đổi với GV dạy môn Công nghệ 8 để nắm bắt được thực trạng học
tập của HS và PPDH được sử dụng thường xuyên, chủ yếu. Xin phép dự giờ,
phát phiếu xin ý kiến.”Khi phát phiếu có trao đổi
- Trực tiếp hỏi và trao đổi với các em về nhu cầu học tập môn Công nghệ
8, tình hình học tập môn Công nghệ 8, phát phiếu xin ý kiến v.v...
Khi phát phiếu có trao đổi thêm, giải thích với GV và HS về mục đích,
nội dung của phiếu cũng như của công việc đang tiến hành. Giải đáp những vấn
đề, câu hỏi mà GV và HS nêu ra.
1.4.2.2. Kết quả khảo sát
a) Kết quả định lượng
Qua điều tra thực tế, khảo sát với 9 GV và 653 HS ở 4 trường THCS nói
trên. Kết quả thu được như sau (Bảng 1.3 và 1.4):



×