Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.71 KB, 32 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ BẰNG PHƯƠNG THỨC
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
I- VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
XUẤT NHẬP KHẨU
1- Hoạt động xuất nhập khẩu (XNK):
Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế, nó
không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là một hệ thống các quan hệ mua bán
trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm mục đích
đẩy mạnh sản xuất hàng hóa phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng
bước nâng cao mức sống của nhân dân. Do đó, xuất nhập khẩu là hoạt động đối
ngoại dễ đem lại những hiệu quả đột biến về kinh tế.
Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần định hướng theo sự phát triển
của thị trường tự do (thị trường mở ) hoạt động XNK là nhân tố chính, quan trọng
và đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt đối với sự phát triển chung của đất nước. Cụ thể,
những mặt lợi do XNK đem lại như :
- Phát huy được nội lực nền kinh tế, sự sáng tạo của các thành phần kinh tế ,
phát huy và phát triển được các ngành nghề truyền thống
- Việc XNK dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể trong và ngoài
nước làm cho chất lượng hàng hóa, dịch vụ ngày càng được nâng cao, từ đó
có thể nhanh chóng xoá bỏ các chủ thể kinh doanh sản xuất lạc hậu,…
Nhưng những đóng góp to lớn cũng như vai trò của thương mại quốc tế đối
với nền kinh tế quốc dân lại được thể hiện rõ nhất ở vai trò xuất khẩu. Xuất khẩu
có ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh quốc tế , mà
thể hiện ở chỗ : xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ sẽ tạo ra nguồn vốn quan trọng để
nhằm thoả mãn các nhu cầu về nhập khẩu và tích luỹ sản xuất. Xuất khẩu sẽ tác
động tốt đến cán cân thanh toán quốc tế, khi thu được xuất khẩu ròng, luồng ngoại
tệ thu được sẽ đảm bảo cho sự cân bằng và thặng dư của cán cân thanh toán quốc
tế. Và đây chính là một trong những công cụ đánh giá hiệu quả kinh doanh quốc tế
của mỗi quốc gia. Hoạt động kinh doanh XNK kích thích sự tăng trưởng thể hiện ở
việc đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, cho phép mở rộng quy mô sản xuất, cải
tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao tổng sản phẩm xã hội, đồng


thời nâng cao đời sống vật chất – tinh thần của nhân dân. Đặc biệt, xuất khẩu tác
động mạnh tới cơ cấu ngành nghề, xuất khẩu làm đa dạng hoá các ngành nghề
theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất các lợi thế so sánh của đất nước. Xuất khẩu
tạo ra được công việc làm, thu hút nguồn lực lao động dồi dào của đất nước.
Có thể nói rằng, XNK là việc mua bán hàng hóa với nước ngoài nhằm phát
triển sản xuất kinh doanh và đời sống. Song mua bán, giao dịch ở đây có những nét
riêng, phức tạp hơn nhiều so với mua bán trong nước như : giao dịch với những
dòng văn hoá, phong tục, tập quán khác nhau với thị trường rộng lớn, nghiệp vụ
mua bán được thực hiện với nhiều khâu : nghiên cứu thị trường, lựa chọn, đàm
phán, ký kết hợp đồng, vận chuyển hàng hóa và thanh toán …..
Trong các nghiệp vụ về hoạt động kinh doanh XNK thì thanh toán là khâu
quan trọng nhất trong kinh doanh XNK hàng hóa. Hiệu quả kinh tế trong lĩnh vực
kinh doanh này phần lớn nhờ vào chất lượng của việc thanh toán. Thanh toán là
bước đảm bảo cho nhà kinh doanh XNK thu được tiền về và nhận được hàng hóa.
Thanh toán quốc tế có thể được hiểu là việc chi trả những khoản ngoại tệ ,tín dụng
có liên quan đến việc XNK đã được thoả thuận, quy định trong hợp đồng thương
mại quốc tế.
2- Vai trò của thanh toán trong thương mại quốc tế
2.1. Thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế là việc chi trả bằng tiền liên quan đến các hoạt động mua
bán hàng hóa-dịch vụ và thực hiện các nghĩa vụ tài chính giữa các tổ chức các đơn
vị kinh tế và các cá nhân giưã nước này với nước khác.
Thanh toán quốc tế là khâu rất quan trọng trong quá trình thực hiện buôn bán-
trao đổi hàng hóa-dịch vụ giữa các nước. Nó phản ánh sự vận động có tính quy
luật của giá trị trong quá trình chu chuyển hàng hóa-tiền tệ giữa các quốc gia và
được xem là khâu cuối cùng trong một thương vụ giao dịch.
Thanh toán quốc tế không chỉ đơn thuần như hoạt động thanh toán trong quan
hệ giao dịch mua bán trong nước, mà thanh toán quốc tế rất phức tạp, thông qua
các phương thức thanh toán khác nhau. Điều này là do thanh toán quốc tế có liên
quan đến nhiều quốc gia khác nhau, với nhiều đồng tiền thanh toán khác nhau. Và

hơn nữa là việc thanh toán giữa các nước đều phải tiến hành thông qua các tổ chức
tài chính trung gian mà chủ yếu là ngân hàng. Hoạt động thanh toán thường không
dùng tiền mặt, chủ yếu là thanh quyết toán giữa các ngân hàng. Vì vậy, thanh toán
quốc tế có những nét đặc thù riêng.
Thanh toán quốc tế là nghiệp vụ quyết định tới hiệu quả của một thương vụ
bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ của đôi bên. Vì vậy trong
hoạt động thanh toán quốc tế, các điều kiện về thanh toán được hình thành nhằm
đảm bảo cho việc thanh toán được hợp lý cho cả đôi bên. Các điều kiện về thanh
toán quốc tế thường bao gồm:
- Điều kiện về đồng tiền thanh toán (tỷ giá hối đoái)
- Điều kiện về thời hạn thanh toán
- Các phương thức, phương tiện và hình thức thanh toán
- Các điều kiện đảm bảo hối đoái
- Các điều kiện đảm bảo tín dụng
- Điều kiện đảm bảo giá trị thanh toán
2.2. Vai trò của thanh toán trong thương mại quốc tế
Thanh toán hiểu một cách đơn giản chính là việc người mua trả tiền cho người
bán để nhận được hàng hoá- dịch vụ mà mình cần. và mọi hoạt động buôn bán,
trao đổi đều phải thông qua thanh toán mới thực hiện được một cách đầy đủ,
trọn vẹn. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh thương mại mang tính quốc tế thì
thanh toán được xem là khá phức tạp, bởi nó được thực hiện dưới nhiều phương
thức khác nhau nhằm đảm bảo về lợi ích của các đối tác ở các nước khác nhau,
cũng như lợi ích của các quốc gia. Vai trò của thanh toán trong hoạt động kinh
doanh thương mại quốc tế ( hay hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ) được thể
hiện ở những điểm sau:
• Thanh toán quốc tế là đòi hỏi tất yếu khách quan trong sự phát triển
của thương mại quốc tế
Trong thời đại ngày nay, trước xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế. Các quốc
gia trên thế giới ngày càng mở rộng dần các mối quan hệ kinh tế đối ngoại,
nhiều tổ chức thương mại được ra đời, phát triển và tiến tới hội nhập tạo nên một

mối quan hệ liên kết chặt chẽ, đan xen, cạnh tranh trên một thị trường rộng lớn
để phát triển. Chính sự hội nhập , mở rộng các quan hệ kinh tế như vậy thế giới
đang tiến dần đến sự phân công hoá lao động rõ rệt. Sự phân công hoá lao động
mang tính quốc tế là nhân tố chính cho sự dịch chuyển mạnh mẽ giữa các quốc
gia về tư bản (vốn), kỹ thuật công nghệ, nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên …
Kéo theo sự dịch chuyển đó là sự tất yếu về dịch chuyển hàng hoá- dịch vụ giữa
các quốc gia. Sự dịch chuyển về hàng hoá và dịch vụ giữa các quốc gia được
tuân theo quy luật của nền kinh tế đó là quy luật về quan hệ Hàng-Tiền. Sự phát
triển của thương mại quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào sự chu chuyển và vận động
của quan hệ hàng hoá và tiền tệ. Biêủ hiện của mối quan hệ này chính là hoạt
động thanh toán. Thanh toán quốc tế ra đời như là một tất yếu khách quan để
đáp ứng cho chu chuyển hay cho sự trao đồi và buôn bán hàng hoá giữa các
quốc gia. Thanh toán quốc tế là một mắt xích, là cầu nối để các tổ chức thương
mại, tổ chức kinh tế. . ở các quốc gia khác nhau trên thế giới thực hiện được các
hoạt động kinh doanh thương mại ( hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu).
Tóm lại, thanh toán quốc tế ra đời và tồn tại là yếu tố khách quan, và ngày
càng có vị trí quan trọng trong việc phát triển ngoại thương và chúng ta cũng
đều hiểu rằng ngoại thương là một công cụ thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế ở
trong nước và giữa trong nước và nước ngoài. Nhận thức được vị trí to lớn của
thanh toán quốc tế đối với nền kinh tế đất nước nói chung, hoạt động kinh tế đối
ngoại và ngoại thương nói riêng, chính phủ ngày càng quan tâm đến vấn đề này,
tạo điều kiện cho thanh toán quốc tế ngày càng mở rộng, tiến hành thuận tiện,
nhanh chóng bằng việc cải cách hệ thống Ngân hàng, cho phép nhiều Ngân hàng
tham gia hoạt động đối ngoại, thực hiện thanh toán quốc tế cũng như đề ra
những quyết định kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong nghiệp vụ để thanh
toán quốc tế phát triển cả nội dung và hình thức từ đó trở thành công cụ đắc lực
thúc đẩy kinh tế đối ngoại của đất nước .
• Thanh toán quốc tế là một khâu quan trọng trong hoạt động kinh doanh
Xuất nhập khẩu
Hiệu qủa kinh tế trong lĩnh vực kinh doanh này phần lớn nhờ vào chất

lượng của hoạt động thanh toán.
Ngay từ khi bắt đầu đàm phán và ký kết hợp đồng kinh doanh Xuất nhập
khẩu thanh toán đã là một điều khoản không thể thiếu trong hợp đồng mà các
bên tham gia phải thoả thuận để đảm bảo lợi ích cho mình, điều khoản về thanh
toán khi đã được thoả thuận một cách thống nhất và chặt chẽ (điều khoản về
đồng tiền, tỷ giá, phương thức thanh toán , thời gian, dịa diểm thanh toán .. ) sẽ
tạo điều kiện cho các bên tham gia tiến hành tốt các điều khoản khác quy định
trong hợp đồng như : bên xuất khẩu dựa vào đó chuẩn bị hàng, lập chứng từ về
hàng hoá, tiến hành giao hàng.. ., bên nhập khẩu tiến hành các thủ tục nhận
hàng, chuẩn bị thanh toán tiền hàng .. .Dựa vào các điều khoản về thanh toán có
thể tránh cho các bên tham gia những rủi ro có thể xảy ra.
Hoạt động thanh toán có thể đảm bảo cho nhà kinh doanh Xuất nhập khẩu
thu được tiền về và nhận được hàng hoá vì khi tham gia vào hoạt động thanh
toán quốc tế không chỉ đơn thuần là người xuất khẩu và người nhập khẩu mà
còn có Ngân hàng tham gia với vai trò là trung gian đảm bảo quyền lợi cho các
bên. Người xuất khẩu và người nhập khẩu không thể tự thanh toán với nhau mà
không thông qua Ngân hàng bởi đó là sự thanh thanh toán giữa các quốc gia có
sự cách biệt về địa lý nên khả năng đảm bảo tránh được những rủi ro xảy ra là
rất khó, cũng như không có sự bảo lãnh cho các bên giao hàng và thanh toán tiền
hàng. Chính vì vậy Ngân hàng với vai trò là trung gian thanh toán, là người bảo
lãnh trong khâu thanh toán giữa các bên, đảm bảo chắc chắn cho các bên nhận
được tiền cũng như nhận được hàng. Trong điều kiện hiện nay Ngân hàng đóng
một vai trò quan trọng và là một mắt xích trong hoạt động thanh toán quốc tế,
cũng như là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu.
• Thanh toán quốc tế là thước đo, là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu
quả hoạt động kinh doanh Xuất nhập khẩu
• Thanh toán quốc tế là công cụ để dựa vào đó nhà nước hoạch định các
chính sách về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
- Hoạt động thanh toán quốc tế nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, đúng luật

sẽ thúc đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, lưu chuyển vốn của các bên tham
gia, mở rộng và củng cố quan hệ hợp tác buôn bán làm ăn giữa các nước .
- Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế , Ngân hàng với vai trò là trung gian
thanh toán, nhưng đồng thời lại còn là tổ chức tài chính trung gian cung cấp và
tạo điều kiện cho các bên tham gia hoạt động Xuất nhập khẩu được thuận tiện và
dễ dàng thông qua các hoạt động cấp vốn, cấp tín dụng dưới hình thức ứng
trước, trả chậm ,tài trợ ngoại thương. ..
3- Xu hướng phát triển của thương mại và thanh toán quốc tế :
Thương mại quốc tế là lĩnh vực thuộc bề nổi của nền kinh tế hết sức nhạy cảm
và năng động, là một phần phản ánh những biến đổi cơ cấu dài hạn trong nền kinh
tế thế giới, xuất phát từ những biến đổi cơ cấu của sản xuất và nhu cầu, chịu tác
động mạnh của những biến đổi của cuộc cách mạng khoa học – kĩ thuật và việc
ứng dụng những thành tựu mới của cách mạng ấy, càng tăng nhanh buôn bán và
đầu tư, làm càng phụ thuộc lẫn nhau trong khi vẫn tồn tại những mâu thuẫn. Do
những yếu tố trên, ngày nay thương mại quốc tế đã có những biến đổi và thay đổi
rõ rệt về cơ cấu mặt hàng và phân vùng lãnh thổ.
Về cơ cấu mặt hàng ngày càng có những ý nghĩa quan trọng đối với các
ngành công nghiệp chế biến theo những quy trình công nghệ mới, với chất lượng
cao, đặc biệt là những sản phẩm có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao. Những sản
phẩm cơ bản, dù giá cả có giảm do ứng dụng những tién bộ của khoa học và kỹ
thuật thì vẫn có tác động lớn tới thu nhập của các nước sản xuát, chúng vẫn luôn
luôn cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới và vẫn còn là nguồn thu
nhập chủ yếu của các nước đang phát triển.
Về cơ cấu lãnh thổ, các nước tư bản công nghiệp vẫn là thị trường chính của
thế giới. Tại đây, thị trường tập trung cao độ tiềm lực công nghiệp chế biến, đặc
biệt về kĩ nghệ chế tạo máy là ngành đống vai trò dẫn đầu trong sự phát triển sản
xuất công nghiệp và công nghiệp điện tính hoá là động lực của toàn bộ nền kinh tế.
Các nước đang phát triển vẫn là nơi chủ yếu sản xuất và xuất khẩu sản phẩm cơ
bản, dù mấy năm gần đây, vai trò của các nước công nghiệp mới đã tăng lên.
Trong thương mại quốc tế, ngày càng xuất hiện các hình thức thương mại

mới, như dịch vụ thương mại. Trong lĩnh vực này, ngoài những hình thức cũ như
vận tải và du lịch, ngày nay ngày càng tăng các loại hình dịch vụ kỹ thuật, bảo
hiểm, ngân hàng, tư vấn, xuất khẩu sofrware và khu vực này là chủ yếu vẫn thuộc
các nước tư bản công nghiệp phát triển.
Đặc trưng của thế giới ngày nay là cuộc khủng hoảng cơ cấu, do sự phát triển
của kỹ thuật mới, cùng với nó là sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước, các công ty xuyên quốc gia và các tổ chức độc quyền quốc tế ra sức thực
hiện các chính sách và thủ đoạn thực dân mới, cạnh tranh gay gắt với nhau, nên
trên thế giới đã, đang và sẽ còn tiếp tục diễn ra các cuộc chiến tranh buôn bán có
quy mô toàn cầu, cùng một lúc xen kẽ với những biến động có khi đột biến và
mạnh mẽ của tỉ giá các đồng tiền, của lãi suất và giá cả trên thị trường thế giới, gây
nên những ”xung” biến đổi và cạnh tranh, trước hết và chủ yêú giữa ba trung tâm
của chủ nghĩa tư bản Mỹ –Tây Âu - Nhật Bản. Vì lẽ đó, thường thế giới luôn chứa
đựng những nhân tố không chắc chắn đối với cả hai giới kinh doanh và tiêu dùng.
Do xu hướng phát triển của thương mại và thị trường như vậy, các nước đều
ráo riết nghiên cứu và đổi mới để ngày càng hoàn thiện hơn hoạt động thanh toán
quốc tế. Việc chọn ra hình thức thanh toán quốc tế phụ thuộc nhiều vào quyết định
của các bên mua và bán, quyết định này lại phụ thuộc vào phạm vi giao dịch và
mối quan hệ giữa các đơn vị kinh tế. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán
không dùng tiền mặt luôn được đặt ra trong chiến lược hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng thương mại. Cung cấp những công cụ thanh toán hữu hiệu không
chỉ đẩy mạnh tính cạnh tranh của ngân hàng trong lĩnh vực này mà còn nâng cao
uy tín của ngân hàng, và trong thương mại quốc tế, đó còn là vấn đè quốc thể. Do
vậy, ngay cả các ngân hàng thương mại có bề dày kinh nghiệm trên thế giới trong
hoạt động thanh toán quốc tế cũng không dám chắc là có thể lường hết được những
phát sinh tiêu cực do hoạt động này mang lại trong tương lai. dù rằng những tiêu
cực đó có thể ngân hàng không phải gánh chịu một cách trực tiếp, nhưng dù xét ở
góc độ nào đi nữa thì ngân hàng cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Việt Nam mới bước
vào nền kinh tế thị trường từ cuối những năm 80 của thể kỷ này, việc hội nhập vào
nền mậu dịch thế giới cũng muộn mằn hơn so với rất nhiều quốc gia khác. Tuy

nhiên, trong những năm gần đây, thanh toán XNK với các nước tăng lên không
những vvề kim ngạch mà còn về cả quy mô và chất lượng. Tuy nhiên, tranh chấp
phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp. Đây cũng là điều đễ hiểu bởi các ngân hàng
thương mại của nước ta vẫn còn non kém về trình độ nghiệp vụ và ít kinh nghiệm.
II- CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ THÔNG DỤNG :
Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận-trả tiền
trong giao dịch, mua bán hàng hóa – dịch vụ giữa người nhập khẩu và người xuất
khẩu. Trong quan hệ XNK có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau. Các
phương thức thanh toán dựa trên sự thoả thuận giữa nngười xuất khẩu và người
nhập khẩu, mỗi phương thức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng thể hiện
mâu thuẫn về quyền lợi giữa các người nhập khẩu và người xuất khẩu. Vì vậy, việc
chọn lựa phương thức thanh toán trong giao dịch XNK được các bên thoả thuận và
thống nhất trong nội dung cuả hợp đồng mua bán ngoại thương. Hiện nay, các
phương thức thanh toán được sử dụng phổ biến và chủ yếu bao gồm các phương
thức sau :
- Phương thức ghi sổ
- Phương thức nhờ thu
- Phương thức chuyển tiền
- Phương thức tín dụng chứng từ
1 – Phương thức ghi sổ ( Oppen account ) :
Phương thức thanh toán này được thực hiện bằng cách, người xuất khẩu mở
một tài khoản trên đó ghi các khoản tiền mà người nhập khẩu nợ về tiền hàng hóa
hay những khoản chi phí khác có liên quan đến việc mua hàng. Người nhập khẩu
định kỳ ( hàng tháng, quý hay năm ) thanh toán khoản nợ của mình trên tài khoản
cho người xuất khẩu.
Đặc điểm:
• Đây là một phương thức thanh toán chỉ có hai bên tham gia thanh toán là
người mua và người bán, ngân hàng chỉ tham gia với chức năng là người
mở tài khoản và thực thi thanh toán.
• Khi sử dụng phương thức này, chỉ mở tài khoản đơn biên, không sử dụng

tài khoản song biên. Nếu người mua mở tài khoản để ghi chếp thì tài
khoản ấy chỉ có giá trị theo dõi, knông có giá trị thanh quyết toán giữa hai
bên.
• Đây thực chất là một hình thức tín dụng mà người bán cấp cho người mua.
Phương thức này chỉ áp dụng trong trường hợp hai bên mua và bán thực sự
tin cậy lẫn nhau hay trong các trường hợp giao dịch nhỏ, thường xuyên. Đặc biệt,
phổ biến sử dụng trong các phương thức mua bán hàng đổi hàng thường xuyên
trong một thời kỳ nhất định, hoặc dùng cho thanh toán tiền hàng gửi bán ở nước
ngoài hay để trả tiền lệ phí sân bay, cầu cảng.
2 - Phương thức chuyển tiền ( Remittance )
L à phương thức thanh toán, trong đó khách hàng (người nhập khẩu) yêu cầu
ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người
xuất khẩu) ở một địa điểm nhất định bằng một phương tiện chuyển tiền do người
hưởng lợi (người xuất khẩu) yêu cầu. Khách hàng có thể yêu cầu ngân hàng của
mình chuyển tiền bằng điện ( Telegraphic Tranfer – T/T ) hoặc bằng thư chuyển
tiền (Mail Tranfer – M/T ) hoặc sử dụng qua hệ thống Mạng SWIFT liên ngân
hàng.
Đây thực chất là thanh toán trực tiếp giữa người chuyển tiền và người nhận
tiền, ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian thực hiện chuyển tiền và thu lệ phí.
Phương thức này đơn giản, dễ thực hiện và việc chuyển tiền nhanh chóng. tuy
nhiên, nó cũng mang nhiều nhược điểm, bởi rằng không có cơ sở pháp lý nào đảm
bảo chắc chắn là người nhập khẩu sẽ trả sớm và trả đầy đủ cho ngươì xuất khẩu.
Việc trả tiền cho người xuất khẩu hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của người mua
( người nhập khẩu ). Như vậy, việc thanh toán bằng phương thức này khó bảo đảm
quyền lợi cho người bán do dễ nảy sinh việc chiếm dụng vốn. Ngoài ra, việc
chuyển tiền này còn bị ảnh hưởng nhiều bởi sự quản lý của nhà nước về dòng lưu
chuyển ngoại tệ. Cũng chính vì những nhược điểm này, nên trong quan hệ buôn
bán thương mại quốc tế, hình thức chuyển tiền này chỉ thường được áp dụng trong
trường hợp hai bên là những bạn hàng lâu năm, có sự tin cậy lẫn nhau.
3 – Phương thức nhờ thu (Collection )

Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán
(người xuất khẩu) hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng hàng hóa – dịch
vụ cho người mua (người nhập khẩu) thông qua uỷ thác cho ngân hàng của mình
thu hộ ở người mua (người nhập khẩu) trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra.
Trong thanh toán quốc tế, khi sử dụng phương thức này thường vận dụng theo
quy tắc ICC 022 “Bản quy tắc thống nhất về nhờ thu chứng từ thương mại “. Theo
quy tắc này, nhờ thu được hiểu như sau :
“ Nhờ thu là nghiệp vụ xử lý của ngân hàng đối với các chứng từ, theo đúng
chỉ thị nhận được nhằm cho các chứng từ đó được thanh toán hoặc chấp nhận, hoặc
chuyển giao khi chứng từ đó theo đúng điều khoản và các điều kiện khác.”
Các bên tham gia bao gồm:
- Người xuất khẩu (người bán, người hưởng lợi)
- Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu (ngân hàng thu hộ)
- Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (ngân hàng trả hộ)
- Người nhập khẩu (người mua, người trả tiền)
Đặc điểm :
• Phương thức nhờ thu không đảm bảo quyền lợi cho bên xuất khẩu, vì việc nhận
hàng của người nhập khẩu hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán. Do đó, người
mua có thể nhận hàng mà không trả tiền ngay hoặc chậm trễ khi trả tiền. Còn
người bán có thể khống chế được người mua trong việc giao nhận và khống chế
được quyền định đoạt về hàng hóa chứ, không khống chế được người mua trong
việc thanh toán. Việc thanh toán do người bán (người xuất khẩu ) ký phát hối phiếu
nhưng lại phải tuỳ thuộc vào việc ngươig mua ( người nhập khẩu ) có ký chấp nhập
hối phiếu hay không. Tuy nhiên, không vì thế mà người nhập khẩu ( người mua)
chiếm được ưu thế trong phương thức này. Bởi việc có chấp nhận hối phiếu hay
không lại phụ thuộc vào việc giao hàng của người bán (người xuất khẩu)
• Phương thức nhờ thu được thực hiện dưới một trong hai loại hình thức sau :
Phương thức nhờ thu phiếu trơn ( Clean collection ) :
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức thanh toán, trong đó người xuất khẩu sau
khi chuyển hàng hóa sang cho nhà nhập khẩu cùng với việc chuyển giao cho nhà

nhập khẩu bộ chứng rừ hàng hóa để nhà nhập khẩu đươch nhận hàng (mà không
thông qua ngân hàng ) và ký phát hối phiếu nhờ ngân hàng thu hộ số tiền bán hàng
ghi trên hối phiếu từ người nhập khẩu.
Hình thức nhờ thu này rất có lợi cho nhà nhập khẩu vì việc nhận hàng hóa
trên cơ sở bộ chứng từ hàng hóa được nhà xuất khẩu chuyển giao cho mình, được
lập với việc trả tiền. Tuy nhiên, nhà nhập khẩu cũng có thể gặp bất lợi trong trường
hợp hối phiếu đi quá nhanh, buộc họ phải trả tiền trong khi đó có thể hàng hóa đến
chậm và khi nhận hàng hóa có thể hàng hóa không đủ, không đảm bảo về chất
lượng – số lượng.
Do vậy, để sử dụng phương thức này, hai bên phải hoàn toàn tin cậy lẫn nhau,
hoặc có quan hệ bạn hàng lâu năm, liên doanh … hoặc được sử dụng với những
hợp đồng Xuất nhập khẩu hàng hóa nhỏ. Phương thức này ít khi được sử dụng
trong thanh toán quốc tế vì nó không đảm bảo được quyền lợi cho cả hai bên do
việc thanh toán và nhận hàng hoàn toàn tách rời nhau.
Phương thức nhờ thu kèm chứng từ ( Document against Acceptance D/A)
Nhờ thu kèm chứng từ là một phương thức thanh toán trong đó : Nhà xuất
khẩu sau khi chuyển hàng hóa sang nhà nhập khẩu thì không chỉ căn cứ vào hối
phiếu do mình lập ra để nhờ thu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hóa. Nhà
xuất khẩu ký phát hối phiếu và gửi kèm bộ chứng từ đến nhờ ngân hàng thu hộ tiền
từ nhà nhập khẩu. Nếu không thì chuyển trả bộ chứng từ hàng hóa cho nhà xuất
khẩu và dĩ nhiên hàng hóa còn thuộc quyền sở hữu của nhà xuất khẩu.
Trong phương thức này, người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc
thu hộ càn có nhiệm vụ khống chế chứng từ hàng hóa đối với ngươì nhập khẩu Sự
khống chế này đảm bảo được quyền lợi cho người xuất khẩu. Tuy nhiên, mặc dù

×