Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN PTNT TÂY HỒ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.09 KB, 31 trang )

THỰC TRẠNG VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG NN PTNT TÂY HỒ.
2.1. TÌNH HÌNH KINH TẾ –XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI .
Năm 2002, nền kinh tế trên địa bàn Hà Nội có những bước chuyển biến tích cực về
cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá, mức tăng trưởng của nền kinh tế đạt tỷ
lệ khá cao, về cơ bản đạt 11/14 chỉ tiêu phát triển chung.Tổng sản phẩm trong nước
( GDP ) tăng 10,3%, kinh tế thủ đô phát triển ở tất cả các ngành, các lĩnh vực, giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 24,3%, đầu tư xã hội tăng 16,8%, sản phẩm công nghiệp ngày càng
đa dạng và phong phú, Hà Nội đang hình thành và mở rộng nhiều khu công nghiệp, chung
cư mới tạo điều kiện cho nền kinh tế thủ đô phát triển hiện đại.
Thương mại dịch vụ tăng trưởng 12% so với cùng kỳ năm ngoái, văn minh dịch vụ
thương mại ngày càng được chú trọng theo hướng phục vụ thị hiếu, nhu cầu của người tiêu
dùng. Dịch vụ và một số ngành du lịch phát triển cả về quy mô, chất lượng, từng bước trở
thành một ngành có vai trò vô cùng quan trọng trong cơ cấu kinh tế của thành phố.
Ngoại thương có sự thay đổi theo hướng tích cực, xuất khẩu tăng 8,4%, nhập khẩu
tăng 10,4%, hình thành những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao, có thị trường ổn
định: da giầy, điện tử, hàng nông sản, thuỷ sản, đồ thủ công mỹ nghệ…
Đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh và tương đối toàn diện trên các mặt, tốc độ
tăng trưởng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 67%, trên điạ bàn Hà Nội có rất nhiều dự
án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đạt trên 8 tỷ USD, tạo việc làm ổn định cho
trên 22 000 lao động, cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật ngày càng phát triển và hiện đại.
Nông nghiệp nông thôn ngoại thành có sự khởi sắc, sản xuất nông lâm thuỷ sản
tăng trưởng khá, đạt trên 5%/năm. Nhiều ngành nghề truyền thống được khôi phục và phát
triển, kinh tế trang trại hình thành và phát huy tác dụng, việc áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất ngày càng phổ biến, tăng năng suất lao động và giải phóng sức lao động của
con người.
Giá cả năm 2002 được đánh giá là khá ổn định, hoạt động tín dụng đảm bảo cung
ứng đầy đủ vốn cho thị trường, tín dụng tăng trưởng nhanh, tốc độ bình quân ở các ngân
hàng thương mại quốc doanh đạt 28%.
Tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn Hà Nội có sự tăng trưởng tương đối toàn diện
và vững chắc theo cơ chế quản lý của nhà nước với vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp


quốc doanh.
Là một chi nhánh ngân hàng hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội, đặc biệt là trên
địa bàn một quận mới được thành lập như quận Tây Hồ đã tạo ra cho ngân hàng nhiều
thuận lợi nhưng cũng có vô vàn khó khăn thách thức. Song với mục tiêu tồn tại, tăng
trưởng và phát triển, tạo ra nhiều lợi nhuận, chi nhánh ngân hàng Tây Hồ luôn nắm bắt tình
hình kinh tế –xã hội đua ra các chính sách, giải pháp phù hợp và thực tế hoạt động, ngân
hàng đã thu được những kết quả cao.
2.2. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NN&PTNT TÂY HỒ.
2.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT
Tây Hồ.
Ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ là một chi nhánh trực thuộc ngân hàng
NN&PTNT thành phố Hà Nội, có trụ sở làm việc tại số 14 phố Yên Phụ, Tây Hồ Hà Nội.
Ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ ra đời theo quyết định số 18/QĐ-NHNN ngày
01/04/1996 của Tổng giám đốc Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam, ngân hàng ra đời do
nhu cầu mở rộng mạng lưới, quy mô hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp Tp Hà Nội.
Những năm đầu hoạt động, ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, kết quả kinh doanh
yếu kém, không có hiệu quả. Nguyên nhân là do hoạt động trên địa bàn mà các hoạt động
sản xuất, thương mại, dịch vụ chưa phát triển mạnh, nhu cầu của dân cư về vốn chưa cao
do hoạt động chính trên địa bàn là trồng trọt, chăn nuôi,sản xuất nhỏ…và thu nhập của
người dân chưa cao nên quá trình tích luỹ không lớn. Do hoạt động của ngân hàng còn nhỏ
hẹp, với biên chế ban đầu là 07 cán bộ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao, cơ sở vật
chất và các phương tiện phục vụ hoạt động kinh doanh kém hiện đại, các nghiệp vụ hoạt
động của ngân hàng chưa đa dạng và phong phú.
Đến năm 1999, chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ được nâng cấp lên thành
chi nhánh ngân hàng cấp 3 tại quyết định số 656/QĐ-NHNN- 02, ra ngày 28/08/1999, biên
chế lao động tăng dần và tính độc lập của chi nhánh ngân hàng trong hoạt động cũng được
nâng lên.
Nền kinh tế trên địa bàn có sự tăng trưởng, địa bàn hoạt động được mở rộng, thu
nhập của người dân tăng lên, việc thành lập quận Tây Hồ đã tạo điều kiện cho các dự án,
các khu vui chơi…được thực thi, sự chuyển hướng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã

tạo điều kiện cho số lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày một tăng.
Trong những năm gần đây (2000-2002), ngân hàng có sự phát triển mạnh, đặc biệt
là năm 2001, 2002, chi nhánh ngân hàng NN&PNNT Tây Hồ đã có sự bứt phá đáng kể
trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Tổng nguồn
vốn huy động năm 1997 là gần 10 tỷ, đến năm 1999 là 20 tỷ, thì đến năm 2001 là 283 tỷ
(tăng gấp 14 lần so với năm 1999), và đến năm 2002 tổng nguồn vốn huy động đạt 392 tỷ
(tăng 20 lần so với năm 1999), và doanh số cho vay cả năm của ngân hàng năm 2002 đạt
330 tỷ, tăng 91 tỷ so với năm 2001, với dư nợ tín dụng năm 2002 là 180 tỷ. Hoạt động
kinh doanh của ngân hàng sau 6 năm thành lập đã có sự tăng trưởng vượt bậc đóng góp
một phần quan trọng thực hiện mục tiêu phát triển của ngân hàng NN&PTNT Tp Hà Nội
và tạo điều kiện thuận lợi về vốn trong quá trình phát triển kinh tế –xã hội trên địa bàn quận
Tây Hồ, trực tiếp nâng cao đời sống người dân trong quận.
2.2.2. Mô hình tổ chức và mối quan hệ điều hành của chi nhánh ngân hàng
NN&PT Tây Hồ.
Ngân hàng NN&PNNT Tây Hồ là một trong nhiều chi nhánh của ngân hàng NN
Tp Hà Nội, có vai trò tạo lập vốn đáp ứng nhu cầu tín dụng, cung cấp các dịch vụ ngân
hàng góp phần thực thi các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế –xã hội của ngân hàng
Nông nghiệp. Là một chi nhánh ngân hàng trực thuộc, ngân hàng Tây Hồ đã có nhiều cải
cách, đổi mới về cơ cấu, tổ chức lại hoạt động ngân hàng sao cho phù hợp với định hướng,
mục tiêu thực hiện kế hoạch kinh doanh của ngân hàng NN Việt Nam, chỉ tiêu phát triển
kinh tế-xã hội trên địa bàn quận. Cho đến nay, ngân hàng đã có 1 trụ sở làm việc và 2
phòng giao dịch trên địa bàn, cán bộ công nhân viên tăng từ 07 người (1996) lên 28 người
(2002) và mục tiêu đến năm 2005 nâng số phòng giao dịch lên 07 phòng và số cán bộ nhân
viên tăng lên 55 người.
Mô hình tổ chức hiện nay của chi nhánh ngân hàng gồm có:
Ban giám đốc gồm có hai người:
* Giám đốc: Phụ trách tình hinh hoạt động kinh doanh của toàn bộ chi nhánh ngân hàng
NNPTNT Tây Hồ.
* Phó giám đốc: Tham mưu, giúp giám đốc trong quá trình quản lý, điều hành hoạt động
kinh doanh.

Bộ máy hoạt động kinh doanh của chi nhánh ngân hàng gồm có 03 phòng ban chính:
phòng giao dịch, phòng kinh doanh , phòng kế toán & kho quỹ.
• Phòng kinh doanh : Là phòng nghiệp vụ của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ có
chức năng tham mưu cho ban giám đốc trong các công tác chỉ đạo điều hành và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ kinh doanh đạt hiệu quả.
Quan hệ tín dụng nông thôn.
Nghiệp vụ tín dụng và kinh doanh dịch vụ tổng hợp.
Kinh doanh ngoại tệ và tham mưu cho ban giám đốc…
• Phòng kế toán & kho quỹ: Là phòng nghiệp vụ có chức năng tham mưu cho ban giám
đốc trong lĩnh vực tài chính, quản lý các quỹ và tài sản của ngân hàng, tổ chức công tác
hoạch toán, kế toán, thống kê và làm nghiêp vụ thu, chi tiền cho khách hàng.
Thực hiện nghiêp vụ hoạch toán kinh doanh.
Thông báo các khoản nợ.
Xét duyệt và mở mới các tài khoản.
Thanh toán bù trừ, điện tử.
Quản lý tiền và tài sản của ngân hàng…
• Phòng giao dịch: Là phòng nghiệp vụ có chức năng thu nhận các loại tiền gửi của khách
hàng, ngoài ra còn có thể tiến hành thanh toán những khoản tiền nhỏ (nằm trong giới hạn
cho phép).
*Sơ đồ tổ chức:

TD 1 TD 2 TD 3 Thủ quỹ KT 1 KT 2 KT 3
Mối quan hệ điều hành của chi nhánh ngân hàng là mối quan hệ trực tuyến, ban
giám đốc trực tiếp điều hành toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Việc tổ chức như vậy, giúp
Ban giám đốc
Phòng kế toán v khoà
quỹ
Phòng kinh doanh
(Tín dụng)
Phòng giao dịch

cho ban giám đốc có thể nắm rõ hoạt động kinh doanh của ngân hàng, các thông tin số liệu
tổng hợp, ra quyết định trong thời gian ngắn nhất, từ đó ngân hàng có thể tận dụng được
thời cơ trong hoạt động kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
2.2.3. Những hoạt động chủ yếu của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ.
2.2.3.1. Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn là một trong những hoạt động quan trọng nhất của hệ thống ngân
hàng thương maị nói chung và của chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ nói riêng.
Bởi nguồn vốn kinh doanh chủ yếu của ngân hàng là nguồn huy động dưới các hình thức:
tiền gửi, tiền vay,…do đó hoạt động kinh doanh của ngân hàng phụ thuộc phần lớn vào kết
quả của công tác huy động vốn: khả năng, quy mô vốn huy động, có nghĩa là kết quả huy
động vốn quyết định đến đầu tư, sử dụng vốn .
Trong những năm gần đây, công tác huy động vốn đã được ngân hàng rất chú trọng
quan tâm, trước đây vốn huy động chủ yếu dùng trong hoạt động tín dụng, thì nay, nguồn
vốn huy động có thể dùng để tiến hành kinh doanh trực tiếp, lợi nhuận của ngân hàng
không chỉ thu được từ hoạt động đầu tư, cấp tín dụng mà còn thu được từ hoạt động điều
chuyển vốn giữa các ngân hàng theo quyết định của tổng giám đốc ngân hàng NN Việt
Nam với mức phí quy định là 0,65%. Có thể nói, chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây
Hồ đã rất quan tâm đến công tác huy động vốn thông qua việc ngân hàng đã sử dụng rất
nhiều các hình thức huy động, đa dạng về kỳ hạn và lãi suất… nhằm chủ động thu hút
nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và tranh thủ nhiều nguồn vốn khác, nên qua các năm, tốc
độ tăng trưởng nguồn vốn huy động của ngân hàng là khá cao.
Bảng 1: Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng. Đơn vị : Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu 2000 2001 2002
Tổng nguồn vốn 69 283 392
Tốc độ tăng trưởng định gốc 100% 310% 468%
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn 100% 310% 38%
( Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2000, 2001, 2002 )
Qua các số lỉệu trên bảng 1, ta thấy tổng nguồn vốn huy động của 2 năm 2001 và
2002 có sự tăng trưởng rất lớn về khối lượng.

Năm 2001 tăng 214 tỷ (310%) so với năm 2000.
Năm 2002 tăng 323 tỷ (468%) so với năm 2000.
Điều này lý giải cho sự quan tâm đặc biệt của chi nhánh ngân hàng đến công tác
huy động vốn, tổng nguồn vốn huy động của năm sau luôn tăng cao so với năm trước.
Năm 2001 tăng 310% so với năm 2000, năm 2002 tăng 38% so với năm 2001. Về quy mô
nguồn vốn, năm 2000 đạt 69 tỷ, năm 2001đạt 283 tỷ, năm 2002 đạt 392 tỷ.
Tuy nhiên, sự tăng trưởng về vốn huy động giữa các năm có sự cách biệt lớn là do
yếu tố khách quan tác động, cuối năm 1999, nền kinh tế chịu nhiều sức ép từ bên ngoài
khiến cho hoạt động sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, để tạo điều kiện cho hoạt động của
nền kinh tế, chính phủ đã sử dụng nhiều biện pháp “kích cầu” để khuyến khích tiêu dùng
trong dân cư và tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế tiến hành đầu tư vào hoạt động kinh
doanh, trong đó có biện pháp giảm lãi suất, do đó làm cho người gửi tiền không còn hứng
thú với các hình thức huy động vốn của ngân hàng vì mục tiêu chính của họ là lợi nhuận
thu được trên số tiền gửi, kết quả huy động vốn của năm 2000 có sự giảm sút. Tuy nhiên
đến năm 2001, tình hình kinh tế có sự thay đổi, mức tăng trưởng kinh tế cao, lãi suất tăng
lên kích thích người dân đến gửi tiền tại ngân hàng, do đó tổng nguồn vốn huy động của
ngân hàng 2 năm gần đây có sự tăng trưởng cao.
2.2.3.2. Hoạt động tín dụng của ngân hàng.
Bên cạnh nghiệp vụ huy động vốn, nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng đóng vai trò
quan trọng trong việc phân phối lại các nguồn vốn trong nền kinh tế một cách hợp lý giúp
ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian tài chính của mình, do đó hoạt động tín dụng
của ngân hàng được quan tâm, mở rộng và phát triển. Ngân hàng đã xây dựng chiến lược
sử dụng vốn hợp lý nhằm thu hút khách hàng trên cơ sở vận dụng linh hoạt cơ chế lãi suất,
đổi mới phong cách phục vụ, đưa các dịch vụ thu chi đến tận đơn vị (doanh nghiệp) và đến
tận nhà (dân cư).
Trong những năm gần đây, hoạt động tín dụng của ngân hàng đã có những bước
tiến quan trọng, doanh số cho vay ngày càng tăng, doanh số cho vay năm 2001 đạt 239 tỷ
thì đến năm 2002, doanh số cho vay đạt 330 tỷ tăng 38% so với năm 2001 với số tuyệt đối
tăng là 91 tỷ.
Bảng 2: Dư nợ tín dụng của ngân hàng. Đơn vị : tỷ đồng

Năm
Chỉ tiêu 2000 2001 2002
Tổng dư nợ tín dụng 42 109 180
Tốc độ tăng trưởng định gốc 100% 160% 328%
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn 100% 160% 65%
( Báo cáo kết quả hoạt động tín dụng năm 2000, 2001, 2002 )
Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy hoạt động tín dụng của ngân hàng trong 2 năm gần
đây (2001, 2002) có mức tăng trưởng rất lớn so với năm 2000, năm 2001 dư nợ tín dụng là
109 tỷ, tăng 67 tỷ (160%); năm 2002 dư nợ là 180 tỷ, tăng 138 tỷ (328%) so với năm 2000
và tăng 71 tỷ (65%) so với năm 2001, đây là một thành công lớn trong hoạt động tín dụng
của ngân hàng Tây Hồ, dư nợ tín dụng của ngân hàng tăng trưởng rất nhanh cả về quy mô
lẫn tỷ trọng. Ngoài nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng (mở rộng hoạt động tín dụng,
có chính sách lãi suất hợp lý, đa dạng các hình thức cho vay, hiện đại hoá công nghệ…)
còn có sự tác động tích cực của nền kinh tế: hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn có
sự tăng trưởng mạnh, nhiều dự án đầu tư, chươnh trình kinh tế bắt đầu đi vào hoạt động
(dự án công viên nước Hồ tây, xây dựng quận uỷ Tây hồ, dự án xây dựng trung tâm y
tế…) và người dân có sự chuyển hướng trong trồng trọt, sản xuất kinh doanh, do đó nhu
cầu vay vốn trên địa bàn tăng lên, là một chi nhánh tiếp cận trực tiếp với người dân, hoạt
động tín dụng của ngân hàng được mở rộng. Năm 2002, ngân hàng đã có quan hệ tín dụng
với 4 doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn quận với dư nợ tín dụng lên tới 20 tỷ đồng
(chiếm 11% tổng dư nợ ), quan hệ với 57 doanh nghiệp ngoài quốc doanh, dư nợ tín dụng
là 97 tỷ và 299 hộ sản xuất, cá nhân với dư nợ đạt 58 tỷ (chiếm 29% ).
Ngoài các nghiệp vụ cho vay trên, ngân hàng còn tiến hành một số nghiệp vụ: bảo
lãnh, trong năm 2002, ngân hàng đã bảo lãnh 46 món với tổng giá trị đạt 4,6 tỷ; thực hiện
thanh toán L/C nhập và thanh toán T/T với tổng số tiền đạt được là 0,4 tỷ đồng.
2.2.3.3. Nghiệp vụ ngân quỹ.
Hiệu quả cuối cùng của ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ là phải luôn luôn đảm bảo
mục tiêu lợi nhuận, đảm bảo thu nhập cho cán bộ nhân viên và làm nghĩa vụ với ngân sách
nhà nước.
Có thể nói quá trình thu chi tiền mặt tại quỹ luôn được đảm bảo chấp hành nghiêm

túc các quy định nên không có sự cố xảy ra trong những năm qua, hoạt động ngân quỹ của
ngân hàng ngày càng mở rộng và đáp ứng kịp thời nhu cầu rút tiền của khách hàng.
Trong năm 2002, nghiệp vụ ngân qũy của ngân hàng được thực hiện khá tốt: Tổng
thu của ngân hàng đạt 19048 triệu đồng (tăng 120% so với năm 2001), quỹ lương năm
2002 đạt 470 triệu đồng trong đó thực chi lương cả năm là: 303 triệu.
Tổng chi phí:18749 triệu đồng, quỹ thu nhập của ngân hàng đạt: 299 triệu.
2.3. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA CHI NHÁNH
NGÂN HÀNG NN&PTNT TÂY HỒ.
Như đã đề cập ở phần trước, trong chiến lược hoạt động kinh doanh của ngân hàng
NN&PTNT Tây Hồ hiện nay, huy động vốn là công tác được quan tâm nhiều nhất.
Thứ nhất, do pháp lệnh của tổng giám đốc ngân hàng NN&PTNT Việt Nam về
việc các ngân hàng trong cùng hệ thống ngân hàng nông nghiệp được phép thực hiện điều
chuyển vốn dư thừa giữa các ngân hàng và được thu phí trên nguồn vốn đó (mức phí
0,65%) vì vậy, đã tạo ra nét đặc trưng riêng cũng như tạo thuận lợi cho các ngân hàng
thuộc hệ thống ngân hàng nông nghiệp kết hợp kinh doanh nguồn vốn và đầu tư tín dụng.
Thứ hai, tình hinh kinh tế –xã hội có nhiều biến động, tạo ra nhiều thuận lợi cũng
như đặt ngân hàng trước nhiều thử thách, khó khăn, sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân
hàng trên thị trường, hay giữa các ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác đã buộc các
ngân hàng thương mại nói chung và ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ nói riêng cần phải xây
dựng đường lối, chính sách, phương hướng hoạt động hợp lý từ đó mở rộng và nâng cao
hiệu quả của công tác huy động vốn.
2.3.1. Quy mô nguồn vốn huy động.
Trong 3 năm trở lại đây (2000-2002), tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng
NN&PTNT Tây Hồ đã không ngừng tăng trưởng với cơ cấu phong phú và hình thức huy
động ngày càng đa dạng. Đặc biệt là trong 2 năm (2001, 2002), tổng nguồn vốn huy động
của ngân hàng đã có sự tăng trưởng rất lớn. Nếu năm 2000, tổng nguồn vốn huy động là 69
tỷ thì đến năm 2001 là 283 tỷ, tăng 214 tỷ (310%) so với năm 2000; và đến năm 2002 là
392 tỷ tăng 323 tỷ (468%) so với năm 2000.
Nếu so sánh giữa các năm với nhau: năm 2001 tăng 310% so với năm 2000; năm
2002 tăng 38% so với năm 2001 (Số liệu bảng 1).

Đây có thể coi là sự tăng trưởng với tốc độ “thần kỳ” trong công tác huy động vốn
của ngân hàng, hiệu quả huy động vốn của ngân hàng luôn đạt ở mức cao nhất. Kết quả
này đã góp phần quan trọng vào việc mở rộng hoạt động kinh doanh, tăng lợi nhuận cũng
như thị phần hoạt động của ngân hàng, tăng khả năng cạnh tranh, uy tín, vị thế của ngân
hàng trên thị trường. Vì như ta đã biết, quy mô của nguồn vốn huy động quyết định đến
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng: với nguồn vốn huy động lớn, ngân hàng có thể mở
rộng quy mô hoạt động, mở rộng mạng lưới phân phối vốn, hiện đại hoá công nghệ ngân
hàng, đa dạng hình thức huy động, sản phẩm, dịch vụ… thoả mãn tốt nhất nhu cầu của
khách hàng.
Tuy nhiên, ta cũng phải khẳng định rằng tốc độ tăng vốn huy động năm 2002 giảm
rất nhiều so với năm 2001 (từ 310% xuống còn 38%) nhưng đây không phải là do chính
sách huy động vốn của ngân hàng mà là do sự tác động của môi trường bên ngoài, tác
động từ phía nhà nước, do chính sách lãi suất mà ngân hàng nhà nước đưa ra: cuối năm
1999 đầu năm 2000, do tác động của môi trường bên ngoài, nền kinh tế có sự giảm sút, để
khuyến khích đầu tư và tiêu dùng của dân cư, chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp để
“kích cầu” trong đó có chính sách hạ lãi suất ngân hàng; khách hàng của ngân hàng
NN&PTNT Tây Hồ chủ yếu là dân cư, người lao động, họ rất nhạy cảm với lãi suất của
ngân hàng, lãi suất hạ đã làm cho công tác huy động vốn của ngân hàng không đạt hiệu
quả cao. Tuy nhiên, đến năm 2001 nền kinh tế có sự tăng trưởng, chính sách lãi suất thay
đổi theo chiều hướng tích cực, lãi suất tăng đã tác động đến tâm lý của người dân, thu hút
dân cư đến với ngân hàng, hoạt động huy động vốn của ngân hàng tăng trưởng nhanh và
đạt hiệu quả cao, sang đến năm 2002 hoạt động huy động vốn của ngân hàng vẫn tăng cao
hơn so với năm 2001 về quy mô vốn huy động (38%). Ta xét bảng số liệu sau:
Bảng 3: Tổng vốn huy động của ngân hàng . Đơn vị : Tỷ đồng.
Năm
Chỉ tiêu
2000 2001 2002 Kế hoạch thực hiện
2003
Tổng nguồn vốn
huy động

69 283 392 500
( Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2000, 2001, 2002 ).
Từ bảng số liệu về tổng nguồn vốn huy động ở trên, ta thấy được quy mô và tỷ
trọng vốn huy động của ngân hàng ngày càng có xu hướng tăng trưởng nhanh, thể hiện
quyết tâm của ngân hàng trong việc không ngừng nâng cao hiệu quả công tác huy động
vốn nhằm đáp ứng cho sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế.
2.3.2. Cơ cấu nguồn vốn huy động .
Qua số liệu của các năm ta thấy vốn kinh doanh của chi nhánh ngân hàng
NN&PTNT Tây Hồ hoàn toàn bằng nguồn vốn huy động.
Bảng 4: Tổng nguồn vốn huy động phân theo nguồn gốc. Đơn vị: Tỷ đồng.
Năm
Chỉ tiêu
2000 2001 2002
Số
tuyệt
đối
Tỷ
trọng
(%)
Số
tuyệt
đối
Tỷ
trọng
(%)
Số
tuyệt
đối
Tỷ
trọng

(%)
Tổng nguồn vốn 69 100 283 100 392 100
Vốn HĐ từ dân cư 15,5 22,5 73,5 26 138,7 35,4
Vốn HĐ từ các
TCKT
11,4 16,5 51,8 18,3 88,5 22,6
Vốn HĐ từ kho
bạc
11,7 17 38,7 13,7 44,7 11,4
Vốn HĐ từ các
TCTD
30,4 44 119 42 120,1 30,6
( Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2000, 2001, 2002 ).
Từ các số liệu của bảng trên có thể khẳng định rằng tính ổn định của nguồn vốn huy
động của ngân hàng ngày một tăng. Tỷ trọng nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư
và từ các tổ chức kinh tế ngày càng tăng, với mức tăng nhanh và tương đối ổn định qua các
năm.
Xét nguồn vốn huy động từ các tầng lớp dân cư: nếu năm 2000 vốn huy động đạt
15,5 tỷ, chiếm tỷ trọng 22,5% tổng nguồn vốn huy động; năm 2001 vốn huy động từ tầng
lớp dân cư đạt 73,5 tỷ, tỷ trọng 26%; tăng 58 tỷ (37,4%) so với năm 2000.
Năm 2002 vốn huy động từ dân cư đạt:138,7 tỷ chiếm 35,4% tổng nguồn vốn; tăng
123,2 tỷ (790%) so với năm 2000; tăng 65,2 tỷ (90%) so với năm 2001.
Từ các số liệu trên cho thấy, tốc độ tăng trưởng về quy mô nguồn vốn huy động từ
các tầng lớp dân cư là rất cao và chiếm tỷ trọng trong tổng nguồn vốn ngày càng lớn; năm
2000 (22,5%) ,năm 2001 (26%), đến năm 2002(35,4%), tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu
tổng nguồn vốn huy động. Với kết quả trên đã chứng minh rằng trong chiến lược huy động
vốn của ngân hàng, việc tăng cường nguồn vốn huy động từ dân cư có vai trò quan trọng,
bởi trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, tính ổn định của nguồn vốn được đánh giá rất
cao. Môi trường kinh doanh luôn biến động, sự ổn định trong nguồn vốn kinh doanh giúp
ngân hàng có thể đề ra các chiến lược sử dụng vốn hợp lý, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn, tăng hiệu quả kinh doanh và tăng lợi nhuận.
Ngoài ra, sự gia tăng nguồn vốn huy động từ tầng lớp dân cư cũng đồng nghĩa với
việc thu nhập của người dân tăng lên và hoạt động ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ ngày
càng chiếm lòng tin của dân chúng vì nếu người dân không tin tưởng vào hoạt động của
ngân hàng thì cho dù lãi suất huy động có cao, công tác huy động vốn cũng không đạt hiệu
quả cao.
Ngoài sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động từ dân cư thì nguồn vốn huy động
của các tổ chức kinh tế cũng có sự tăng trưởng nhanh. Năm 2000 nguồn vốn huy động từ
các tổ chức kinh tế đạt 11,4 tỷ, tỷ trọng 16,5% trong tổng nguồn vốn huy động thì đến năm
2001 đạt 51,8 tỷ, tỷ trọng 18,3%; tăng 40,4 tỷ (35,4%) so với năm 2000. Năm 2002 huy
động từ các TCKT là 88,5 tỷ, tỷ trọng 22,6%; tăng 77,1 tỷ (676%) so với năm 2000; tăng
36,7 tỷ (70%) so với năm 2001. Tuy không chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn
nhưng với mức tăng trưởng nhanh, ta có thể khẳng định: các tổ chức kinh tế sẽ là nguồn
huy động vốn đầy triển vọng đối với ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ trong một vài năm
tới. Sự gia tăng nhanh chóng về quy mô vốn huy động từ các TCKT chứng tỏ hiệu quả
trong công tác huy động vốn của ngân hàng, ngân hàng đã chú trọng quan tâm đến các bạn
hàng lớn là các doanh nghiệp trên địa bàn, vận động thu hút nguồn vốn của các doanh
nghiệp, các TCKT (công ty công viên nước Hồ Tây, công ty kinh doanh nước sạch Hồ
Tây và một số công ty dịch vụ, du lịch Hồ Tây…), đây có thể coi là một thành công của
ngân hàng trong công tác huy động vốn.
Tuy có sự tăng trưởng về vốn huy động từ các tầng lớp dân cư và các TCKT nhưng
chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận lại sự tăng trưởng nguồn vốn của ngân hàng, xét
trong tổng nguồn vốn huy động, tuy có giảm về tỷ trọng qua các năm nhưng vốn huy động
từ các tổ chức tín dụng vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn (trung bình trên
30%). Chi nhánh ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ huy động vốn chủ yếu từ các chi nhánh,
ngân hàng thương mại khác, các quỹ tín dụng nhân dân trung ương, các định chế tài chính
khác (các tổ chức bảo hiểm, ..) dưới hình thức các hợp đồng tiền gửi, phát hành kỳ phiếu.
Năm 2000: vốn huy động từ các tổ chức tín dụng đạt 30,4 tỷ, chiếm tỷ trọng 44%
tổng nguồn vốn huy động.
Năm 2001, vốn huy động từ các TCTD là 119 tỷ, tỷ trọng 42%; năm 2002 là 120,1

tỷ, tỷ trọng 30,6%. Có thể nói, giảm tỷ trọng nguồn vốn huy động từ các TCTD từ 44%
(năm2000) xuống còn 30,6% (năm 2002) đã là một thành công trong công tác huy động
vốn của ngân hàng NN&PTNT Tây Hồ, vì vốn vay của các TCTD thường có kỳ hạn ngắn
và lãi suất huy động lại cao hơn so với các nguồn huy động khác do đó, tính ổn định không
cao, chi phí huy động lớn, và mức độ rủi ro về cân đối nguồn vốn là khá cao (các TCTD
khác mất cân đối nguồn vốn sẽ dẫn đến sự mất cân đối vốn của ngân hàng ).
Như vậy, giảm tỷ trọng nguồn vốn huy động từ các TCTD chính là nâng cao hiệu
quả huy động vốn: nâng cao tính ổn định của nguồn vốn, giảm rủi ro về cân đối vốn và
quan trọng hơn là giảm chi phí huy động vốn, đây chính là yếu tố quan trọng vì trong môi
trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, giảm được chi phí, ngân hàng sẽ có điều kiện
thuận lợi hơn trong cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Không chỉ có tỷ trọng nguồn vốn huy động từ các TCTD có xu hướng giảm mà vốn
huy động từ kho bạc nhà nước cũng giảm .
Năm 2000, vốn huy động từ kho bạc là 11,7 tỷ, chiếm 17% tổng nguồn vốn huy
động; năm 2001, đạt 38,7 tỷ, tỷ trọng 13,7%; đến năm 2002 quy mô vốn huy động từ kho
bạc nhà nước là 44,7 tỷ, chiếm tỷ trọng là 11,4%.

×