Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở NƯỚC TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.12 KB, 26 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ
Ở NƯỚC TA
I. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ ĐƯA RA GIẢI PHÁP.
1. Xu hướng phát triển các công ty cổ phần hiện nay trên thế giới.
Xu hướng hiện nay là hội nhập và toàn cầu hoá do đó phát triển nền kinh tế
trong nước phải luôn gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế trên thế giới. Do đó
phát triển các CTCP nói riêng, nền kinh tế cổ phần nói chung cũng không thể
nằm ngoài xu hướng phát triển CTCP của các nước trong khu vực, nhất là các nước
có đặc điểm nền kinh tế tương đồng và các nước có trình độ phát triển cao trên thế
giới. Biểu hiện:
Thứ nhất, chế độ cổ phần trở thành phổ biến, đã phát triển mở rộng từ 3 lĩnh
vực ( giao thông vận tải, tín dụng tiền tệ và bảo hiểm ) đến các lĩnh vực, các ngành
kinh tế quốc dân và trở thành lực lượng chủ đạo của nền kinh tế.
Thứ hai là quy phạm hoá chế độ cổ phần. Để bảo đảm cho nền kinh tế xã hội
được vận hành thường xuyên thuận lợi, các nước phương Tây đã định ra hàng loạt
những luật tương đối hoàn chỉnh về chế độ cổ phần. Nội dung của các luật định
ngày càng chặt chẽ chi tiết , nghiêm ngặt…Những luật định đó bao gồm: Luật
Công ty, Luật chứng khoán, Luật giao dịch chứng khoán, Luật phá sản…Tất cả các
luật định đó quy định hết sức rõ ràng đối với việc thành lập Công ty , tổ chức quản
lý công ty , sát nhập, giải thể công ty , thanh toán, giao dịch cổ phiếu…Việc định
chế luật pháp trên có ý nghĩa rất tích cực đối với việc hoàn thiện chế độ cổ phần,
phát huy vai trò chức năng của chế độ cổ phần.
Thứ ba là phân tán và đa dạng hoá sở hữu cổ phần. Trong các công ty lớn
của các nước tư bản, hiện nay một số cổ đông có thể nắm 4% hoắc trên 5% cổ
phiếu của một công ty là chuyện bình thường. Xu hướng chung là quy mô càng lớn
thì quyền sở hữu sẽ càng phân tán và đa dạng hoá. Một biểu hiện khác của việc
phân tán và đa dạng hoá sở hữu cổ phần là số người giữ cổ phiếu tăng lên rất nhanh
và thể hiện ngày càng rõ tính chất xã hội hoá của tư bản doanh nghiệp .
Thư tư là pháp nhân hoá việc nắm cổ phần.Trong các CTCP hiện nay, tỷ lệ
pháp nhân nắm cổ phần tăng lên, tỷ lệ cá nhân nắm cổ phần giảm đi là hiện tượng
phổ biến. Vốn của các CTCP chủ yếu là cổ phần pháp nhân, phần lớn các CTCP


đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức pháp nhân tham gia và nắm giữ cổ phần của
các CTCP khác. Xu hướng các pháp nhân cùng tham gia vào cổ phần và tỷ lệ cổ
phần của pháp nhân tăng lên thể hiện sự phát triển của xã hội hoá tư bản gắn liền
với thu nhập và rủi ro, quyền lợi và trách nhiệm của các CTCP. Đồng thời xu
hướng này còn thuận lợi cho việc điều chỉnh cơ cấu nội bộ của CTCP, hoàn thiện
cơ chế kinh doanh và tăng cường động lực nội tại cho việc phát triển CTCP.
Thứ năm là quyền lực của cổ đông giảm sút, người kinh doanh chi phối DN.
Cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, tác dụng của các nhân tố
chuyển giao công nghệ, vấn đề quản lý trong cạnh tranh được tăng cường đã xảy
ra một hiện tượng mà người ta gọi là “ cá lớn nuốt cá bé ”. Do đó một vấn đề mà
thực tế khách quan đặt ra là đòi hỏi trình độ trí thức, trình độ chuyên môn kỹ thuật
cao của các nhà kinh doanh , các nhà quản lý của các CTCP phải được nâng lên
một cách nhanh chóng. Vì vậy trong cơ cấu tổ chức của CTCP, địa vị của Đại hội
cổ đông dần dần bị hạ thập, vai trò của Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc ngày
càng được đề cao. Vì vậy nhiều nhà kinh tế học cho rằng phải tách biệt giữa cổ
đông và kinh doanh để các chuyên gia kinh doanh chi phôí doanh nghiệp là xu thế
quan trọng để phát triển kinh tế cổ phần hiện đại. Quyền lãnh đạo DN hiện đại đã
rơi vào tay tầng lớp kết cấu kỹ thuật của công ty.
Thứ sáu là chế độ phân phối của CTCP đã chuyển từ hoa hồng tiền mặt của
cổ tức sang GTGT toàn diện của cổ phần. Cho nên trong thời đại ngày nay, ở nhiều
nước TBCN, động cơ đầu tư vào cổ phiếu là giá trị tăng thêm toàn diện của các cổ
phần chứ không phải là cổ tức và hoa hồng tiền mặt. Trong phân phối của CTCP
có xu hướng để tỷ lệ hoa hồng tiền mặt ở mức thấp, thậm chí có doanh nghiệp
không thực hiện hoa hồng tiền mặt mà chỉ xây dựng kiện toàn chế độ quỹ công
làm cho cổ phần tăng thêm giá trị toàn diện. Trong điều kiện mở rộng chế độ gia
tăng toàn diện của cổ phần, sự thay đổi chế độ phân phối trong các CTCP sẽ có ý
nghĩa tích cực đối với việc tích luỹ vốn và mở rộng sản xuất của CTCP.
Thứ bảy là có sự thay đổi về chế độ vốn và kết cấu vốn của CTCP:
- Về chế độ vốn pháp định: Tổng số vốn khi thành lập công ty theo quy định
của pháp luật phải được cổ đông thừa nhận toàn bộ.

- Về chế độ vốn pháp định: Tổng số vốn điều lệ khi thành lập công ty không
nhất thiết phải do các cổ đông nhận mua đủ mà chỉ nhận mua một tỷ lệ theo quy
định của pháp luật là được. Ở một số nước đã bỏ chế độ vốn pháp định, thực hiện
chế độ vốn sở hữu.
- Về kết cấu của CTCP thay đổi chủ yếu ở hai mặt sau:
+ Tỷ lệ vốn của người ngoài chiếm trong tổng số vốn của công ty cổ phần ở
nhiều nước cao hơn vốn của công ty tức là kinh doanh nợ với tỷ lệ cao.
+ Tỷ trọng tích luỹ của CTCP chiếm trong vốn của bản thân DN cao hơn rất
nhiều vốn cổ phần của doanh nghiệp là tư 2-3 lần, có khi lên tới 10 lần.
Thứ tám là tư bản ngân hàng xâm nhập vào kinh tế cổ phần. Sau chiến tranh
thế giới lần thứ hai, trên cơ sở của chế độ cổ phần, tư bản ngân hàng đã thông qua
hình thức đầu tư vào cổ phần để khống chế quyền sở hữu công ty , nhà tư bản thôn
qua tổ chức tín dụng của mình, áp dụng phương thức mua bán , trao đổi cổ phiếu
của công ty để đạt được mức khống chế cổ phiếu. Đó là một thủ đoạn quan trọng
của tổ chực tín dụng khống chế công ty , biểu hiện ở hai cách:
- Tổ chức tín dụng trực tiếp thu nhận cổ phiếu đạt đến một tỷ lệ nhất định sẽ
khỗng chế được công ty .
- Tư bản lũng đoạn thông qua hoạt động bao tiêu chứng khoán của công ty
hoặc thông qua người môi giới buôn bán cổ phiếu để đạt mục đích khống chế công
ty . Như vậy sự đầu tư vào cổ phần, khống chế cổ phần của tư bản ngân hàng đối
với các công ty công nghiệp đã thúc đẩy nền kinh tế cổ phần phát triển.
Thứ chín là chế độ cổ phần và CTCP đã trở thành hình thức tổ chức chủ yếu
và thủ đoạn lũng đoạn của công ty. Chế độ cổ phần đã có tác dụng tăng nhanh tốc
độ tập trung vốn, tăng cường thực lực kinh tế cho công ty. Thông qua các hình thức
xâm nhập, khống chế, đầu tư cổ phần để thôn tính hoặc chi phối các DN khác từ đó
hình thành các DN lớn có quy mô kinh tế mạnh, lực lượng kinh tế hùng hậu. Sự
lũng đoạn của các CTCP không những phản ánh trên quy mô mà còn phản ánh sự
biến động cơ cấu nền kinh tế, hình thành nhiều tập đoàn kinh tế lớn , đa dạng hoá
kinh doanh . Do tiến bộ của khoa học kỹ thuật và cạnh tranh thị trường gay gắt, xu
thế thị trường diễn biến phức tạp thì các CTCP chỉ có thể chọn chiến lược kinh

doanh đa dạng hoá. Bởi vì mặc dù chiến lược này làm phát sinh nhiều vấn đề phức
tạp mới như việc lựa chọn sản phẩm ,kỹ thuật, thị trường…nhưng nó lại có lợi cho
việc hạn chế những rủi ro trong kinh doanh , giúp cho công ty đứng vững không bị
thất bại. Lý do này đã khiến cho phần lớn các công ty đều phát triển thành các
công ty kinh doanh tổng hợp đa chức năng.
Cuối cùng là xu hướng quốc tế hoá vốn cổ phần. Sau đại chiến thế giới lần
thư hai, tư bản ngân hàng cực kỳ bành trướng đã thúc đẩy quá trình quốc tế hoá
sản xuất và quốc tế hoá vốn cổ phần. Cùng với sự phát triển của các CTCP, chế độ
cổ phần càng trở thành phương tiện để tập đoàn các nước xây dựng địa vị lũng
đoạn của mình. Từ đó thúc đẩy hình thức công ty phát triển mạnh mẽ ở các nước
trên thế giới.
Trên đây là những xu hướng phát triển chung của kinh tế cổ phần diễn ra
trên toàn thế giới. Vậy ở Việt Nam , trong những năm tới, xu hướng phát triển của
các CTCP sẽ diễn ra như thế nào , chúng ta cần phải dự báo để có những biện pháp
thích hợp nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình CPH ở nước ta.
2. Dự báo nhu cầu phát triển các công ty cổ phần ở nước ta.
Hiện nay, xu thế phát triển chung của các nước trên thế giới là đa phương
hoá và đa dạng hoá trong quan hệ kinh tế. Thời gian qua, nước ta cũng đã mở rộng
và thiết lập nhiều mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới. Do đó,
sự phát triển của nền kinh tế nước ta, đặc biệt là kinh tế cổ phần cũng không nằm
ngoài xu hướng phát triển chung trên toàn thế giới. Đồng thời dựa vào tình hình
thực tế của nước ta, chúng ta có thể đưa ra những căn cứ và dự báo cho sự phát
triển của các CTCP nói riêng và của kinh tế cổ phần nói chung.
Lúc đầu, khi chủ trương CPH các DNNN mới được đưa ra thì Nhà nước chỉ
chú trọng tới các doanh nghiệp thuộc các bộ, các ngành quan trọng ở một số tỉnh
và thành phố lớn. Nhưng hiện nay, việc CPH các DNNN đã có xu hướng mở rộng
ra ở nhiều lĩnh vực hơn và ở khắp các địa phương trong cả nước.
Chế độ cổ phần ngày càng được hoàn chỉnh, chặt chẽ, chi tiết và nghiêm
ngặt hơn. Điều đó thể hiện rất rõ ở việc ban hành Nghị định 44-1998 NĐ/CP của
Chính phủ ngày 29/6/1998. Nghị định này đã tạo cơ sở pháp lý và môi trường

thuận lợi cho việc thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và hoạt động có hiệu quả.
Hơn nữa nó còn tạo ra sức hấp dẫn mới để thu hút người lao động trong và ngoài
doanh nghiệp tích cực hơn trong việc mua cổ phiếu của công ty và như vậy công ty
sẽ có thêm vốn để góp phần vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó thúc đẩy
kinh tế cổ phần phát triển, số lượng và chất lượng các CTCP ngày càng tăng.
Động lực nội tại cho sự phát triển CTCP là nhiều pháp nhân cùng tham gia
vào cổ phần trong một DNNN. Thực tế ở nước ta cũng diễn ra như vậy. Các pháp
nhân trong một DNNN ngày một tăng lên và điều tất yếu xảy ra là các CTCP sẽ
ngày càng phát triển.
Do trình độ hiểu biết tăng lên và việc tuyên truyền về chính sách CPH các
DNNN đã có tác dụng do việc ra đời của các cơ quan chuyên trách về CPH cho
nên đã xoá dần yếu tố tâm lý trước đây của giám đốc và người lao động trong
doanh nghiệp . Đồng thời những khó khăn vướng mắc cũng đang từng bước được
giải toả đã thúc đẩy tiến trình CPH nhanh hơn.
Sự phát triển của các CTCP sẽ dẫn đến yêu cầu phải phát triển TTCK.
Ngược lại việc xây dựng và đưa vào hoạt động các trung tâm giao dịch chứng
khoán có hiệu quả sẽ có tác động trở lại, là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của các
CTCP. Bởi vì hiện nay trong nền kinh tế đã xuất hiện nhu cầu mua bán chứng
khoán và nhu cầu đầu tư đổi mới các loại chứng khoán. Đảng và Nhà nước chủ
trương thực hiện phát triển kinh tế theo cơ chế “mở”, xu hướng quốc tế nền kinh tế
đang trở thành tất yếu để phát triển kinh tế của từng quốc gia, Đảng và Nhà nước
thấy rõ việc thành lập TTCK là vấn đề cấp bách và đang chuẩn bị các điều kiện để
thành lập TTCK. Thực tế ở nước ta, Chính phủ cũng đã có chủ trương xây dựng và
đưa vào hoạt động 2 trung tâm giao dịch chứng khoán ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh.
Như vậy, các CTCP ở nước ta được hình thành ngày càng nhiều. Đó là xu
hướng tất yếu trong quá trình phát triển nền kinh tế . Xu hướng đó phù hợp với sự
phát triển kinh tế quốc gia và quốc tế.
3. Chủ trương và chính sách của Nhà nước về vấn đề cổ phần hoá các Doanh
Nghiệp Nhà nước .

- Về quan điểm, không nên đồng nhất việc hình thành CTCP với việc thay
đổi về mặt quan hệ sản xuất, không nên đồng nhất việc chuyển DNNN sang CTCP
với vấn đề tư nhân hoá.
- Về mặt chính sách, việc ra đời Nghị định 44 của Chính phủ với nội dung
cụ thể: Chuyển một số DNNN thành CTCP đã có nhiều sửa đổi, bổ sung, điều
chỉnh phù hợp với hoạt động của các CTCP.
- Về phương diện pháp luật, Luật công ty đã đầy đủ và rõ ràng hơn do được
bổ sung và cụ thể hoá.
- Về mặt nhận thức :
+ CPH DNNN là quá trình chuyển DN từ hình thức một chủ sở hữu là Nhà
nước sang nhiều chủ sở hữu thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau.
+ Không phải chỉ có DNNN mới thuộc sở hữu Nhà nước. CPH DNNN vừa
là quá trình chuyển đổi DN từ một chủ sở hữu sang nhiều chủ sở hữu, vừa là quá
trình để Nhà nước thực hiện cơ cấu lại hệ thống DNNN.
+ CPH DNNN không phải là quá trình làm giảm sở hữu của Nhà nước mà
trái lại làm tăng sở hữu Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần.
4. Định hướng các giải pháp cổ phần hoá ở nước ta hiện nay .
Để có những giải pháp hữu hiệu nhằm đẩy mạnh tiến trình CPH, chúng ta
không thể đưa ra một cách tuỳ tiện mà phải có sự xem xét, lựa chọn rõ ràng các
giải pháp dựa trên một số quan điểm mang tính định hướng sau:
4.1. Giải pháp phải mang tính kế thừa và phát triển.
Các giải pháp kinh tế luôn bộc lộ cả hai mặt tích cực và hạn chế. Các giải
pháp này sẽ phát huy tác dụng khi nó kế thừa được các mặt tích cực và khắc phục
được những hạn chế đang tồn tại. Đồng thời, để phát huy tác dụng, các giải pháp
phải phù hợp với mỗi giai đoạn kinh tế , chính trị, xã hội. Vì thế, các giải pháp kinh
tế phải dựa trên quan điểm phát triển mới đáp ứng được yêu cầu của các giai đoạn
tiếp theo.
4.2. Giải pháp phải mang tính đồng bộ và hệ thống.
Các giải pháp được đặt trong một bối cảnh luật pháp, cơ chế chính sách và

các vấn đề liên quan khác. Hơn nữa, hoạt động của doanh nghiệp mang tính hệ
thống mà sự tác động vĩ mô đối với doanh nghiệp sẽ gây phản ứng dây chuyền của
các hệ thống. Một giải pháp phù hợp sẽ có tác động tích cực không phải chỉ đối với
doanh nghiệp mà còn với cả hệ thống.
4.3. Giải pháp phải mang tính hiệu quả và khả thi.
Mục tiêu của quá trình CPH DNNN là hiệu quả kinh tế . Các giải pháp về
CPH phải nhằm giải quyết mối quan hệ về lợi ích kinh tế của doanh nghiệp , của
người lao động và cả nền kinh tế . Vì vậy, các giải pháp thực hiện phải đem lại hiệu
quả kinh tế và có khả năng thực hiện.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY TIẾN TRÌNH CỔ PHẦN HOÁ Ở
NƯỚC TA.
1. Giải pháp về quản lý vĩ mô.
1.1. Xây dựng kế hoạch và tạo tiền đề, điều kiện đẩy mạnh tiến trình CPH.
Muốn thực hiện thành công tiến trình CPH, Đảng và Nhà nước ta cần phải
đề ra kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn để làm căn cứ cho các Bộ, ngành, địa
phương triển khai thực hiện.
a) Giai đoạn 2001-2005: Đẩy mạnh CPH, đa dạng hoá sở hữu DNNN nhằm tạo
điều kiện cho thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển.
Trong 2 năm 2001-2002 đẩy nhanh tiến độ CPH, đa dạng hoá sở hữu doanh
nghiệp sao cho cuối năm 2003 đạt 855 doanh nghiệp trên tổng số 2280 DNNN
thuộc diện sắp xếp của thời kỳ này.
Trong 3 năm tiếp theo 2003-2005, tiền hành CPH, giao khoán, bán và cho
thuê hơn 900 DNNN sao cho các DNNN được sắp xếp đạt con số 3280 doanh
nghiệp , tạo ra nhiều hàng hoá cho thị trường chứng khoán.
Đến cuối năm 2005, Nhà nước sẽ duy trì 2000 DN 100% vốn cho Nhà nước,
tập trung vào các DN công ích, các DN thuộc lĩnh vực Nhà nước độc quyền, các
Tổng công ty lớn và các DN độc lập có ý nghĩa quan trọng đối với nền KTQD.
b) Giai đoạn 2006-2010: Hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh đủ điều kiện để hội
nhập AFTA, tiếp tục CPH một số DNNN là thành viên trong các Tổng công ty và
một số doanh nghiệp công ích.

Đối với các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty thì giữ nguyên phần vốn tại
doanh nghiệp đồng thời phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn hoặc là chỉ bán
một phần vốn Nhà nước tại DN chứ không bán 100% vốn Nhà nước tại DN.
Đối với các DN hoạt động công ích như cấp thoát nước, vệ sinh môi trường,
ánh sáng đường phố, sản xuất thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực
vật… cần xem xét để thực hiện CPH một số doanh nghiệp trên mục tiêu nâng cao
lợi ích xã hội.
CPH DNNN trong giai đoạn này nhằm mục tiêu tạo sự liên kết với nhau
giữa các doanh nghiệp mà quan trọng là điều kiện liên kết về vốn tạo tiền đề để
hội nhập AFTA vào năm 2006. Việc thâm nhập vào nhau giữa các doanh nghiệp sẽ
dẫn đến việc hình thành các tập đoàn kinh tế nhiều chủ và đó là xu thế tất yếu của
quá trình cải cách DNNN.
1.2. Nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế chính sách có liên quan .
Việc Nghị định 44/1998/NĐ-CP của Chính phủ ra đời đã khắc phục được
tình trạng chậm trễ trong việc triển khai thực hiện CPH các DNNN đồng thời làm
tăng thêm tính hấp dẫn của chính sách CPH. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho các
ngành, địa phương và doanh nghiệp triển khai mạnh mẽ CPH, cần sớm ban hành
một số quy chế sau:
- Quy chế về thành lập quỹ hỗ trợ CPH các DNNN, trước hết phục vụ cho
việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương CPH của Đảng và Nhà nước tới mọi người
dân trong cộng đồng, nhất là đối với người lao động trong doanh nghiệp CPH, hỗ
trợ về tài chính cho các doanh nghiệp trong diện CPH nhưng hiện còn thua lỗ để
tiến lên làm ăn có lãi, tổ chức đào tạo nâng cao tay nghề hoặc đào tạo nghề mới
cho người lao động trong doanh nghiệp CPH, trợ cấp một phần hoặc cho vay với
lãi suất ưu đãi để người lao động có điều kiện tìm nơi lao động mới.
- Quy chế về khoán kinh doanh, cho thuê và bán DNNN. Việc ban hành quy
chế này nhằm tiệp tục đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới một bộ phận DNNN cần
chuyển đổi cơ cấu sở hữu và quản lý.
- Quy chế về việc thí điểm thuê giám đốc nhằm từng bước thay đổi phương
thức quản lý doanh nghiệp, tạo điều kiện cho giám đốc phát huy hết khả năng trong

việc điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp.Đồng thời tạo tiền đề về pháp lý
cho việc hình thành nghề giám đốc, từng bước áp dụng chế độ thuê giám đốc thay
thế cho chế độ bổ nhiệm.
Về vấn đề sở hữu cần sớm ban hành quy định của Chính phủ về việc thực
hiện quyền sở hữu của Nhà nước đối với các DNNN, có sự phân cấp quyền của
chủ sở hữu Nhà nước cho các bộ, ngành trung ương, uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và HĐQT các Tổng công ty, công ty có HĐQT,
khắc phục tình trạng quy định không thống nhất và sự quản lý chồng chéo đối với
DNNN.
Cần xem xét soạn thảo sớm ban hành một văn bản pháp lý cao về CPH
(pháp lệnh hay pháp luật) để thể chế chủ trương CPH với các quy định rõ ràng cụ
thể về các vấn đề: cổ phần khống chế, tiến trình định giá, chế độ hỗ trợ DN được
CPH, chế độ chính sách đối với người lao động để DN yên tâm triển khai CPH.
Giải quyết thoả đáng đối với số lao động dư thừa trong quá trình CPH và
sắp xếp DNNN, có thể lập quỹ đền bù ( quỹ trợ cấp thất nghiệp ) từ các nguồn tài
chính như tiền bán cổ phần, ngân sách Nhà nước , viện trợ nước ngoài.
Sớm tổng kết, rút kinh nghiệm về hoạt động của thị trường chứng khoán để
hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường này như một công cụ thúc đẩy, khuyến
khích quá trình CPH.
Cần hiểu rõ điều mà các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu khi đưa ra phương
án sản xuất kinh doanh là làm sao mở rộng và đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng
hoá các phương thức tiếp cận thị trường và cung ứng hàng hoá, đa dạng hoá các

×