Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN VỐN GIỮA CÁC NGÂN HÀNG VÀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.26 KB, 23 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN VỐN GIỮA CÁC NGÂN
HÀNG VÀ PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHUYỂN TIỀN
ĐIỆN TỬ
I. THANH TOÁN VỐN GIỮA CÁC NGÂN HÀNG
1. Sự cần thiết khách quan của thanh toán vốn giữa các ngân hàng
- Sự cần thiết của thanh toán không dùng tiền mặt
Tiền giấy có lợi là nhẹ hơn so với các loại tiền kim loại khác, nhưng nó có
điểm bất lợi là ở chỗ chúng dễ bị đánh cắp, làm giả và tốn kém khi chuyên chở,
thanh toán mất nhiều thời gian, quá trình cất giữ và bảo quản phức tạp. Tất cả
những nhược điểm này sẽ làm kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Để khắc phục
những khó khăn này trong thanh toán, một bước tiến nữa của hệ thống thanh toán
đã xuất hiện cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng hiện đại
người ta đã phát minh ra phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, không có
sự xuất hiện tiền mặt trong quá trình thanh toán mà chỉ là tiền ghi sổ, nghĩa là khi
hai khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh ngân hàng khác nhau gửi tại ngân
hàng việc thanh toán được tiến hành bằng cách trích chuyển từ tài khoản này sang
tài khoản khác bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của ngân
hàng.
Từ những ưu điểm trên mà phương thức thanh toán không dùng tiền mặt
đang chiếm ưu thế trong thanh toán và ngày càng được sử dụng rộng rãi trên phạm
vi toàn thế giới.
Như vậy phương thức thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần cho việc
thanh toán trở lên an toàn và nhanh chóng hơn. Nó đã trở thành một bộ phận không
thể thiếu trong hệ thống thanh toán và lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân.
Quá trình vận động và lưu thông tiền tệ diễn ra nhanh hay chậm, tổng giá trị giao
dịch của nền KTQD cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống thanh toán của
ngân hàng, trong đó chủ yếu là dựa vào phương thức thanh toán không dùng tiền
mặt
Từ đấy thanh toán vốn giữa các ngân hàng là nhu cầu không thể thiếu được
trong hoạt động ngân hàng. Vốn từ ngân hàng này chuyển sang ngân hàng khác là
nghiệp vụ xảy ra hàng ngày giữa các ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng. Hình


thức chuyển vốn giữa các ngân hàng rất đa dạng nhưng phổ biến nhất là không
dùng tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần cho việc thanh toán trở
nên an toàn và nhanh chóng hơn. Nó đã trở thành một bộ phận không thể thiếu
trong quan hệ thanh toán và lưu thông tiền tệ của nền kinh tế quốc dân.
2. Ý nghĩa của thanh toán vốn giữa các ngân hàng
Với vai trò làm trung gian thanh toán, ngân hàng đã giúp cho khách hàng
giải quyết nhanh chóng vòng vay vốn, tạo điều kiện thúc đẩy quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hoá. Các dịch vụ ngày càng được mở rộng với quy mô ngày càng
lớn đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của xã hội. Cùng với sự phát triển của khoa học
kỹ thuật và cuộc cách mạng công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, đã có những phương pháp tốt hơn để tổ chức hệ thống thanh toán. Đó
là hệ thống vốn, thanh toán vốn thúc đảy quá trình luân chuyển vốn từ đó tạo điều
kiện sử dụng vốn có hiệu quả hơn đồng thời tác động tích cực vào lưu thông sản
xuất hàng hoá.
+ Mở rộng nguồn huy động vốn
Như ta đã biết, nguồn tiền gửi là một nguồn vốn chủ yếu trong cơ cấu vốn
kinh doanh của một ngan hàng và đây cùng là nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Vì
vậy, ngân hàng muốn hoạt đông kinh doanh của mình được ổn định và có lãi thì
phải tìm mọi cách để khai thác tối đa nguồn vốn này.
Nừu tỷ trọng tiền gửi thanh toán càng lớn thì ngan hàng càng có nhiều cơ
hội để sử dụng nguồn vốn với giá huy động rẻ nhất, đây là điều kiện thuận lợi để
ngân hàng có được ưu thế cạnh tranh trên thị trường về lãi suất cho vay. Để đạt
được điều này ngân hàng phải luôn tổ chức được mạng lưới phân phối thụân tiện,
đội ngũ cán bộ có phong cách tốt tạo nên sự gần gũi, tin tưởng đối với khách hàng,
thực hiện tốt công tác thanh toán đối với khách hàng, khuyến khích họ gửi tiền vào
tài khoản để hưởng không lợi ích do ngân hàng cung cấp.
+ Mở rộng đối tượng khách hàng và phạm vi giao dịch cho ngân hàng:
Khi nền kinh tế đang ngày càng phát triển thì việc sử dụng các hình thức
thanh toán vốn sẽ trở lên phỏ biến. Đối với từng loại hình thanh toán thì phạm vi
giao dịch cũng khác nhau và loại hình nào có nhiều ưu điểm, nhiều thuận lợi hơn,

đem lại nhiều lợi ích hơn cho cả ngân hàng và khách hàng thì sẽ được sử dụng
nhiều. Vậy cũng có nghĩa là mỗi một hình thức thanh toán vốn mới, được hiện đại
hoá sẽ ngày càng đáp ứng tối đa mong muốn của khách hàng. Lúc đó, mọi người,
mọi doanh nghiệp đều tham gia vào hệ thống thanh toán qua ngân hàng và các
quan hệ tiền hàng nảy sinh trong nền kinh tế được giải quyết nhanh gọn và chính
xác tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi người, mỗi doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả hơn.
+ Tiết kiệm chi phí lưu thông tiền mặt trong xã hội:
Song song với sự phát triển của công nghệ thông tin- kỹ thuật, công nghệ
hiện đại hoá ngân hàng cũng được chú trọng. Ngân hàng sẽ cung cấp cho khách
hàng những phương tiện thanh toán rẻ nhất, hiệu quả nhất và thuận lợi nhất với đầy
đủ các loại hình thang toán đáp ứng tối đa nhu cầu và khả năng của mọi khách
hàng trong mọi điều kiện. Do đó thanh toán qua ngân hàng nhằm để loại bỏ những
chi phí không cần thiết cũng như sự lãng phí về thời gian trong thanh toán tạo ra
những cơ hội kinh doanh thiết thực thuận lợi cho ngân hàng cũng như các cá nhân,
doanh nghiệp trong nền kinh tế.
+ Tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện chức năng kiểm soát bằng
đồng tiền đối với nền kinh tế.
Hạch toán kế toán ngân hàng không chỉ phản ánh tổng hợp hoạt động của
bản thân ngân hàng mà nó còn phản ánh tổng hợp tình hình hoạt động của nền kinh
tế thông qua các quan hệ giữa ngân hàng với các đơn vị tổ chức kinh tế, các doanh
nghiệp hạot động trong nền kinh tế quốc dân. Tất cả những điều này cho phép ngân
hàng thực hiện chức năng kiểm soát bằng đồng tiền đối với nền kinh tế.
Tiền tệ là một lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm và dễ gây tác động đến nền kinh
tế - xã hội nhất. Việc thực hiện tốt chính sách tiền tệ là một vấn đề khó khăn đối
với nghanh ngân hàng Việt Nam trong điều kiện phải thực hiện quản lý một nền
kinh tế hàng hoá- tiền tệ nhiều thành phần.
Hệ thống ngân hàng của mỗi quốc gia có nền kinh tế hàng hoá đã và đang
phát triển đều bao hàm 2 mặt hoạt động rất cơ bản đó là:
- Thực thi chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ- tín dụng- Ngân

hàng thông qua việc thực hiện các công cụ của chính sách tiền tệ.
- Hoạt động kinh doanh tín dụng, thanh toán, dịch vụ ngân hàng.
+ Thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn của hoạt động kinh tế.
Chính khả năng thanh toán nhanh, chính xác và an toàn với các hình thức
phong phú đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thanh toán vốn là những tiện ích
thực sự, những tiện ích này đã làm cho dòng tiền hàng của nền kinh tế không
ngừng vận động, mỗi đồng vốn đầu tư đều được tham gia vào sản xuất kinh doanh
với năng suất cao nhất và tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho các nhà đầu tư.
Mỗi chu kỳ luân chuyển vốn dược rút ngắn là một lượng chi phí về thời
gian nhân lực, tiền của được tiết kiệm cho nhà sản xuất kinh doanh, giúp cho họ
bắt đầu một chu kỳ trước sớm nhất. Hiệu quả này sẽ có tác động dây chuyền đến
trước tiên là bạn hàng, khách hàng của từng nhà kinh doanh sản xuất, sau đó sẽ có
tác động tích cực đến toàn bộ nền kinh tế làm cho quá trình luân chuyển vốn của
toàn xã hội đẩy mạnh.
Vậy thanh toán vốn giữa các ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng với nền
kinh tế. Nó không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các đơn vị kinh tế
mà còn tác động đến các chính sách tài chính, tiền tệ quốc gianhờ có thanh toán
không dùng tiền mặt. Do đó thanh toán vốn giữa các ngân hàng là một nhân tố
không thể thiếu được trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế của mỗi một
quốc gia trong quá trình thiết lập một môi trường kinh tế hữu hiệu.
3. Các phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng
3.1. Thanh toán bù trừ
a. Khái niệm : Thanh toán bù trừ là một hình thức thanh toán vốn qua đó các
ngân hàng thực hiện thu hộ, chi hộ nhau trong ngày. Cuối ngày ngân hàng chủ trì
xác định số chênh lệch phải thu, phải trả của từng ngân hàng thành viên và thanh
toán số chênh lệch đó qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng chủ trì.
b. Điều kiện áp dụng :
Thanh toán bù trừ là quan hệ thanh toán giữa các ngân hàng ở khác hệ thống
trong cùng một địa bàn do ngân hàng Nhà nước tổ chức theo cách giao nhận chứng
từ trực tiếp và bù trừ số phát sinh hàng ngày về nhu cầu chuyển vốn giữa các ngân

hàng.
- Phải có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước
- Phải thực hiện đúng các nguyên tắc thanh toán bù trừ.
- Phải có văn bản đề nghị cho tham gia thanh toán bù trừ gửi ngân hàng chủ
trì.
- Nếu sai sót hoặc tổn thất thì phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
ngân hàng thành viên khác và khách hàng.
3.2. Thanh toán liên hàng (Thanh toán chuyển tiền điện tử)
Thanh toán liên hàng là quan hệ thanh toán giữa các chi nhánh ngân hàng
trong nội bộ hệ thống phát sinh trên cơ sở nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền
mặt giữa các khách hàng có mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở các chi nhánh ngân
hàng khác nhau hoặc các nghiệp vụ chuyển tiền, điều hoà vốn trong nội bộ hệ
thống ngân hàng.
Tùy theo đặc điểm và điều kiện về ứng dụng công nghệ thông tin riêng mà
mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một hệ thống thanh toán một cách thích hợp.
Có những ngân hàng tổ chức hệ thống thanh toán liên hàng trong toàn hệ thống,
việc kiểm soát và đối chiếu được thực hiện tại trung tâm thanh toán (TTTT) của hệ
thống đó. Có những ngân hàng tổ chức thanh toán liên hàng thành hệ thống thanh
toán liên hàng nội tỉnh và hệ thống thanh toán liên hàng ngoại tỉnh, khi đó đối với
hệ thống thanh toán liên hàng nội tỉnh, việc kiểm soát và đối chiếu sẽ được thực
hiện tại Bộ phận xử lý (BPXL) trực thuộc phòng kế toán ngân hàng tỉnh còn đối
với hệ thống thanh toán liên hàng ngoại tỉnh việc kiểm soát và đối chiếu được thực
hiện tại TTTT của hệ thống.
Hiện nay, ở Việt Nam có các hệ thống thanh toán liên hàng sau:
- Hệ thống thanh toán liên hàng của NHNN.
- Các hệ thống thanh toán liên hàng của 4 NHTM quốc doanh.
- Các hệ thống thanh toán của NHTM cổ phần.
- Các hệ thống thanh toán của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Hệ thống thanh toán của Kho bạc Nhà nước.
Lịch sử phát triển của thanh toán liên hàng gắn liền với các phương thức

kiểm soát và đối chiếu, có ba phương thức kiểm soát và đối chiếu được áp dụng, đó
là: Phương thức kiểm soát phân tán đối chiếu phân tán, kiểm soát tập trung đối
chiếu phân tán và phương thức kiểm soát tập trung đối chiếu tập trung. Thời kỳ
thanh toán liên hàng sơ khai áp dụng phương thức kiểm soát phân tán đối chiếu
phân tán, lúc này các nghiệp vụ phát sinh còn rất ít, khi đó việc kiểm soát và đối
chiếu được thực hiện ở hai đầu mút: Ngân hàng A (NHA) thực hiện việc kiểm soát
các chuyển tiền đi, sau đó lập sổ đối chiếu gửi Ngân hàng B (NHB) để NHB thực
hiện đối chiếu. Áp dụng phương thức này khiến cho thời gian thực hiện thanh toán
rất chậm do việc kiểm soát đối chiếu được thực hiện một cách thủ công và phân tán
tại hai đầu mút nên không phát hiện và sửa chữa kịp thời các sai sót, hơn nữa khi
các nghiệp vụ phát sinh ngày càng nhiều dẫn đến khối lượng công việc mà các đầu
mút phải thực hiện quá lớn gây nên hiện tượng quá tải công việc. Chính vì vậy mà
các ngân hàng đã chuyển một bước ngoặt sang phương thức kiểm soát tập trung
đối chiếu phân tán. Phương thức này được áp dụng trong thanh toán liên hàng qua
mạng MODEM, theo phương thức này các chi nhánh trực tiếp gửi chuyển tiền cho
nhau, trung tâm thanh toán làm nhiệm vụ kiểm soát tất cả các chuyển tiền sau đó
lập sổ đối chiếu gửi các chi nhánh nhận chuyển tiền để ngân hàng này đối chiếu.
Áp dụng phương thức này khắc phục được những nhược điểm của phương thức
kiểm soát phân tán đối chiếu phân tán song việc kiểm soát và đối chiếu vẫn thực
hiện một cách thủ công, việc đối chiếu vẫn còn thực hiện phân tán tại các chi
nhánh, do đó thời gian để thực hiện một món thanh toán còn rất chậm, độ chính
xác không cao. Chính vì những nhược điểm trên, một phương thức mới được ra
đời cùng với hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử, đó là phương thức kiểm soát
tập trung đối chiếu tập trung. Theo phương thức này, các ngân hàng tham gia thanh
toán liên hàng gửi chuyển tiền cho nhau thông qua TTTT và tất cả dữ liệu được
truyền trên mạng máy tính. TTTT làm nhiệm vụ kiểm soát và đối chiếu tất cả các
chuyển tiền trong toàn hệ thống. Áp dụng phương thức này khiến cho việc kiểm
soát được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác và tập trung tại TTTT với sự
trợ giúp của công nghệ hiện đại, do đó giúp cho việc thực hiện thanh toán nhanh
chóng và đảm bảo an toàn.

Trong thanh toán liên hàng, các đơn vị liên hàng tiến hành các nghiệp vụ
thanh toán liên hàng theo sự uỷ nhiệm của hệ thống thanh toán liên hàng mà họ
tham gia nên không phải trực tiếp thanh toán vốn với nhau. Việc thanh toán vốn
giữa các đơn vị liên hàng thông qua kiểm soát, đối chiếu liên hàng và theo dõi số
dư tài khoản liên hàng đi, liên hàng đến của các đơn vị liên hàng tại trung tâm
thanh toán (nếu là thanh toán liên hàng toàn hệ thống) và chi nhánh ngân hàng cấp
tỉnh (nếu là thanh toán liên hàng nội tỉnh). Như vậy, tuy đơn vị ngân hàng tham gia
thanh toán liên hàng không phải là đơn vị hạch toán kinh tế độc lập nhưng là đơn
vị hạch toán nội bộ nên phải có đầy đủ vốn để đảm bảo hoạt động nói chung và
hoạt động thanh toán liên hàng nói riêng. Trường hợp thiếu vốn thì phải nhận vốn
điều hoà của hệ thống và chịu chi phí trả lãi nhận điều hoà vốn.
3.3. Thanh toán qua TKTG tại Ngân hàng Nhà nước :
Các ngân hàng thương mại muốn tham gia phải mở tài khoản tại ngân hàng
Nhà nước theo đúng thể lệ và qui định trên tài khoản luôn đảm bảo số dư để thanh
toán, và phải sử dụng mẫu giấy tờ, chứng từ do ngân hàng Nhà nước qui định và
phải ký và đóng dấu đúng với mẫu đã đăng ký.
Hạch toán lệnh thanh toán đi
Khi giao dịch được chấp nhận phê duyệt, chương trình sẽ tự động hạch
toán :
* Tại chi nhánh :
Nợ : TK thích hợp (tiền mặt, CA, SA, GL)
Có : TK điều chuyển vốn với TW
Có : TK thu phí dịch vụ (nếu có)
Có : TK VAT (nếu có)
* Tại TW :
Nợ : TK điều chuyển vốn với chi nhánh
Có : TK tiền gửi tại NHNN
Lưu ý :
- Cuối ngày, khi nhận được kết quả đối chiếu từ ngân hàng Nhà nước, các
giao dịch chuyển đi thành công sẽ được hạch toán như trên.

- Các giao dịch đã lập tại BDS vì lý do nào đó không chuyển qua IBPS
được, hệ thống cũng đã hạch toán như trên, do vậy chi nhánh phải thực hiện đảo
bút toán tại GL :
Nợ : TK tiền gửi NHCT Việt Nam tại NHNN (999)
Có : TK trung gian của IBPS (5110.05007)
Ngày giao dịch kế tiếp, chi nhánh lập lại giao dịch chuyển tiền đi và ghi Nợ
tất toán tài khoản điều chuyển vốn chờ thanh toán tại chi nhánh.
Hạch toán lệnh thanh toán đến
* Tại chi nhánh :
- Trường hợp tài khoản khách hàng thụ hưởng hợp lệ
Nợ : TK điều chuyển vốn với TW
Có : TK thích hợp (CA/SA)
- Trường hợp tài khoản khách hàng thụ hưởng không hợp lệ
Nợ : TK Điều chuyển vốn với TW
Có : TK 511004008 tại Chi nhánh
Khi thanh toán viên xử lý tiếp :
Nợ : TK 511004008 tại Chi nhánh
Có : TK thích hợp (CASH/CA/SA/GL)
* Tại TW :
Nợ : TK tiền gửi NHCT Việt Nam tại ngân hàng Nhà nước
Có : TK điều chuyển vốn với chi nhánh.
3.4. Mở TK tiền gửi lẫn nhau giữa các ngân hàng :

×