Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.26 KB, 38 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ TÍN
DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
I. KHÁI NIỆM TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, xuất nhập khẩu trở thành vấn đề quan
trọng, thị trường thương mại thế giới mở rộng không ngừng, nhu cầu về thị trường
tiêu thụ hàng hoá, thị trường đầu tư trở thành nhu cầu cấp bách của các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà các doanh nghiệp không
phải lúc nào cũng đủ vốn thu mua chế biến hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh ra quan
hệ vay mượn và sự giúp đỡ tài trợ của các ngân hàng.
Quan hệ giao thương quốc tế đặt ra những vấn đề tế nhị, đôi khi phức tạp, nên
những nghiệp vụ thương mại đòi hỏi sự tham gia của ngân hàng đem lại cho các
nhà hoạt động ngoại thương sự hiểu biết kỹ thuật và chỗ dựa tài chính trong lĩnh
vực quan trọng này.
Có thể nói sự ra đời của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một yêu cầu tất yếu
khách quan, gắn liền với các quan hệ mua bán ngoại thương giữa các nước với
nhau. Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước. Cùng với
sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động hỗ trợ xuất nhập
khẩu của ngân hàng phát triển ngày càng đa dạng và phong phú. Vậy ta thử tìm
hiểu xem tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là gì? Để hiểu rõ về tín dụng tài trợ xuất
nhập khẩu trước hết ta cần biết thế nào là tín dụng?
1.Khái niệm về tín dụng:
Danh từ tín dụng dùng để chỉ một số hành vi kinh tế rất phức tạp như: Bán
chịu hàng hoá, cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, ký thác, phát hành giấy bạc.
Trong mỗi hành vi tín dụng vừa nói, chúng ta thấy hai bên cam kết như sau:
Một bên thì trao ngay một số tài hoá hay tiền bạc còn bên kia cam kết sẽ hoàn
lại những đối khoản của số tài hoá đó trong một thời gian nhất định và theo một số
điều kiện nhất định.
Như vậy chúng ta có thể hiểu tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên


tắc hoàn trả lẫn nhau.
Theo các nhà kinh tế: tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử
dụng vốn lẫn nhau giữa các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hoá.
Một định nghĩa khác về tín dụng: Đó là một giao dịch giữa hai bên, trong đó
một bên (trái chủ hay người cho vay) chu cấp tiền hoặc hàng hoá hoặc dịch vụ dựa
vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai ở phía bên kia.
Từ các định nghĩa trên ta thấy có yếu tố thời gian vì vậy sẽ có rủi ro, bất trắc
và cần có sự tín nhiệm của hai bên đương sự đối với nhau. Hai bên dựa vào sự tín
nhiệm, sử dụng tín nhiệm của nhau nên có danh từ tín dụng.
2.Tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là một khái niệm kinh tế hơn là pháp lý, các hành vi tín
dụng ngân hàng có cùng một logic kinh tế: hứng chịu rủi ro cho một người mà
ngân hàng đã tin tưởng ứng vốn cho vay, nhưng nó không chỉ gồm một giao dịch
về pháp lý mà nhiều loại (cho vay, bảo lãnh, bảo chứng…). Luật ngân hàng các
nước định nghĩa tín dụng như sau: “Cấu thành một nghệp vụ tín dụng bất cứ tác
động nào mà qua đó, một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng
hoặc cam kết bằng chữ ký cho một người này như bảo đảm, bảo chứng hay bảo
lãnh mà có thu tiền”. Định nghĩa này nêu ra 3 trường hợp:
- Cho vay tiền.
- Tín dụng dựa trên việc nhượng trái quyền.
- Tín dụng chữ ký.
Có thể hiểu tổng quát: tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng có sự tham
gia của các ngân hàng trung gian, đóng vai trò là người trung gian trong hoạt động
tín dụng này các ngân hàng sẽ thực hiện hoạt động huy động vốn (vốn này là vốn
tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế) sau đó sử dụng vốn huy động đó cho
vay.
Những hành vi tín dụng có thể do bất cứ ai thực hiện, chẳng hạn 2 người
thường có thể cho nhau vay tiền. Tuy nhiên, với thời gian chúng ta thấy một sự
chuyên nghiệp đã xảy ra, và ngày nay khi nói đến tín dụng người ta nghĩ ngay tới
các ngân hàng. Vì đơn giản đây là một tổ chức có những nghiệp vụ cụ thể, được

trang bị hiện đại với sự đáp ứng nhu cầu nhanh nhất.
3.Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu:
Tín dụng tài trợ xuất khẩu: là việc cung cấp cho vay để giúp doanh nghiệp
thực hiện việc sản xuất, kinh doanh, chế biến hàng xuất khẩu.
Mục đích của tín dụng tài trợ xuất khẩu là đẩy mạnh sản xuất trong nước,
khuyến khích xuất khẩu. Đây còn là một kênh tái tạo ngoại tệ để phục vụ hoạt
động nhập khẩu của ngân hàng.
Tín dụng tài trợ nhập khẩu: là việc cung cấp các khoản vay (ngắn, trung,
dài hạn) để giúp doanh nghiệp thực hiện việc nhập khẩu cần thiết phục vụ sản xuất
kinh doanh.
Mục đích của tín dụng tài trợ nhập khẩu là cho vay để giúp các doanh nghiệp
nhập nguyên liệu , vật tư, hàng hoá, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất…
II. VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU.
1.Sự cần thiết khách quan của hoạt động xuất nhập khẩu trong nền kinh
tế.
Bất cứ quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không chỉ dựa vào sản xuất
trong nước mà còn giao dịch quan hệ với các nước khác. Do khác nhau về điều
kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu… nếu chỉ dựa vào sản xuất trong nước
không thể cung cấp đủ hàng hoá, dịch vụ đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất, tiêu thụ của
nền kinh tế mà phải nhập những mặt hàng cần thiết như nguyên liệu, vật tư, máy
móc thiết bị, hàng tiêu dùng thiết yếu mà trong nước không sản xuất được hoặc sản
xuất với chi phí cao hơn. Ngược lại, trên cơ sở khai thác tiềm năng và những lợi
thế kinh tế vốn có, nền kinh tế ngoài việc phục vụ nhu cầu trong nước còn có thể
tạo nên thặng dư có thể xuất khẩu sang các nước khác, góp phần tăng ngoại tệ cho
đất nước để nhập khẩu các mặt hàng còn thiếu và để trả nợ.
Như vậy, do nhu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi, giao
dịch hàng hoá giữa các nước với nhau hay nói cách khác hoạt động xuất nhập khẩu
là yêu cầu khách quan của nền kinh tế.
2.VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU.

Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của ngoại thương cũng như sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.1. Đối với nền kinh tế đất nước
Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại tạo điều kiện cho hàng hoá
xuất nhập khẩu lưu thông trôi chảy. Thông qua tài trợ của ngân hàng, hàng hoá
XNK theo yêu cầu của thị trường được thực hiện thường xuyên, liên tục đảm bảo
sự ổn định của nền kinh tế.
Tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát
triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế. Doanh
nghiệp có sự giúp đỡ của ngân hàng có vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, hiện
đại hoá trang thiết bị làm tăng năng suất lao động. Doanh nghiệp phát triển chính là
kinh tế đất nước phát triển.
2.2. Đối với ngân hàng thương mại
Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại là hình thức tài
trợ thương mại, kỳ hạn gắn liền với thời gian thực hiện từng thương vụ, đối tượng
tài trợ là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc uỷ thác. Giá trị tài trợ
thường ở mức vừa và lớn. Tài trợ ngân hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu là hình
thức cho vay mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích
và thời gian thu hồi vốn nhanh, bởi vì:
Thời gian tài trợ ngắn hạn do gắn với thời gian thực hiện thương vụ. Kỳ hạn
tài trợ ngắn phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các ngân hàng thương mại
thường là dưới một năm. Điều này giúp ngân hàng tránh rủi ro về thanh khoản.
Tài trợ xuất nhập khẩu đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích. Trong nhiều
trường hợp, vốn tài trợ được thanh toán thẳng cho bên thứ ba mà không qua bên
xin tài trợ như thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh toán tiền nguyên vật liệu cho
các đại lý gom hàng cho người xuất khẩu… Rõ ràng việc làm này tránh được tình
trạng người xin tài trợ sử dụng vốn sai mục đích, hạn chế rủi ro tín dụng.
Tài trợ xuất nhập khẩu nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc
quản lý thu các nguồn thanh toán. Đối với người xuất khẩu, khi ngân hàng chuyển
bộ chứng từ giao hàng để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài đã chỉ định việc

thanh toán phải thông qua tài khoản của người xuất khẩu mở tại ngân hàng. Đối
với người nhập khẩu, trong trường hợp có tài trợ, ngân hàng sẽ buộc người nhập
khẩu tập trung tiền bán hàng vào tài khoản mở tại ngân hàng. Do vậy nguồn thu để
trả các khoản tài trợ được ngân hàng quản lý hết sức chặt chẽ, tránh được tình trạng
quay vòng vốn của doanh nghiệp trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy ra
rủi ro.
Hiệu quả của ngân hàng trong tài trợ xuất nhập khẩu thể hiện qua lãi suất. Có
nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ: lãi cho vay thanh toán, lãi chiết khấu
chứng từ, lãi vay bắt buộc (bằng mức lãi quá hạn)… Tiền thu lãi cao thường vì giá
trị tài trợ ở mức vừa và lớn. Ngoài ra, thông qua tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng
còn mở rộng được mối quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài,
nâng cao uy tín của ngân hàng trên thị trường quốc tế.
2.3. Đối với doanh nghiệp
Nhờ sự giúp đỡ của ngân hàng, đáp ứng nhu cầu vốn của doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp có thể tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường, mở rộng sản
xuất kinh doanh, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp
đồng thời hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Tài trợ xuất nhập khẩu làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp doanh
nghiệp mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm.
Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp mua được những
lô hàng lớn, giá hạ góp phần nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
Tín dụng ngân hàng làm giảm rủi ro của hoạt động xuất nhập khẩu. Hoạt động
xuất nhập khẩu thường diễn ra ở hai nước khác nhau. Do vậy, sự hiểu biết giữa
người mua và người bán không được đầy đủ, chính xác. Nhờ sử dụng tín dụng
ngân hàng, Nhà nhập khẩu và xuẩt khẩu sẽ yên tâm nhận đúng số tiền, hàng của
mình thông qua các ngân hàng trung gian đứng ra bảo đảm.
Đặc biệt, nhờ tín dụng ngân hàng, doanh nghiệp thực hiện được những thương
vụ lớn. Vốn tài trợ của ngân hàng kịp thời, đúng lúc giúp cho doanh nghiệp đảm

bảo thực hiện theo hợp đồng từ đó làm cho uy tín của doanh nghiệp được nâng cao
trên thị trường thế giới. Tín dụng xuất nhập khẩu tại các ngân hàng thương mại dựa
vào 3 nguyên tắc cơ bản:
- Sử dụng vốn vay đúng mục đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Phải hoàn trả nợ gốc và tiền lãi đúng hạn đã thoả thuận.
- Tiền vay phải có tài sản tương đương bảo đảm.
Cùng với sự phát triển của ngoại thương, nhu cầu tín dụng của các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế ngày càng gia tăng. Nó đòi hỏi ngân hàng ngày càng
phải hoàn thiện và phát triển các nghiệp vụ tín dụng đáp ứng nhu cầu của các nhà
xuất nhập khẩu và sự biến động của nền kinh tế. Ngân hàng cần nắm bắt được nhu
cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất nhập khẩu để có thể đáp ứng được nhu
cầu của doanh nghiệp và mở rộng hoạt động của mình. Chính từ nhu cầu của các
doanh nghiệp mà tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng có một vai trò
quan trọng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
3.MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VỚI HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH ĐỐI NGOẠI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
3.1. Khái quát về kinh doanh đối ngoại của ngân hàng thương mại:
Kinh doanh ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt. Chất liệu kinh
doanh chủ yếu của loại hình này là “quyền sử dụng các khoản tiền tệ”. Nền kinh tế
càng phát triển, kinh doanh ngân hàng càng phát triển với nội dung đa dạng và
phong phú hơn, mặc dù các hoạt động kinh doanh đó vẫn dựa trên cơ sở kinh
doanh quyền sử dụng tiền tệ.
Một trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có nguồn gốc xa xưa đó
là hoạt động thanh toán hộ khách hàng. Hoạt động thanh toán hộ cho khách là cơ
sở cho hoạt động tín dụng ngày nay. Khi khách hàng thiếu tiền, ngân hàng sẽ đứng
ra thanh toán hộ và khoản trả hộ đó sẽ là khoản vay của khách hàng.
Thanh toán và tín dụng là hai hoạt động chủ yếu của một ngân hàng thương
mại, nó là nền tảng của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Bên cạnh hoạt động cho
vay và thanh toán, kinh doanh ngân hàng còn phát triển nhiều dịch vụ khác để thoả
mãn nhu cầu của nền kinh tế như bảo lãnh, kinh doanh tiền tệ, tư vấn, chuyển tiền

hộ cho khách, cho thuê các phương tiện giữ tiền, kinh doanh chứng kkhoán…
Ngoài các hoạt động dựa trên đồng nội tệ, ngân hàng còn thực hiện các
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế liên quan đến đồng ngoại tệ.
Hoạt động ngân hàng quốc tế gồm rất nhiều hình thức như thanh toán quốc
tế, bảo lãnh vay, trả nợ nước ngoài, tài trợ xuất nhập khẩu, tham gia vào thị trường
ngoại hối, tín dụng quốc tế… Thực chất hoạt động ngân hàng quốc tế cũng là các
hoạt động kinh doanh tiền tệ đã nêu ở trên nhưng với phạm vi mở rộng khỏi biên
giới quốc gia và hoà nhập, giao dịch với các ngân hàng khác trên thế giới.
3.2. Mối quan hệ giữa hoạt động xuất nhập khẩu với hoạt động kinh doanh
đối ngoại của Ngân hàng Thương mại
Trong hoạt động xuất khẩu cũng diễn ra quá trình sản xuất, lưu thông hàng
hoá như các ngành kinh tế với mục đích cuối cùng là thực hiện giá trị hàng hoá. Nó
chỉ có điểm khác biệt là việc mua bán diễn ra giữa các đối tác có quốc tịch khác
nhau, hàng hoá được vận chuyển từ nước này sang nước khác, đồng tiền thanh toán
có thể là ngoại tệ. Chính vì vậy khâu cuối cùng của hoạt động xuất nhập khẩu là
khâu thanh toán cũng có những điểm khác với thanh toán trong nước thực hiện trên
cơ sở sau:
Người xuất khẩu và người nhập khẩu ký kết hợp đồng mua bán ngoại
thương trong đó quy định các điều kiện về thanh toán quốc tế:
- Điều kiện về thời gian.
- Điều kiện về địa điểm.
- Điều kiện về phương thức thanh toán.
Trên cơ sở đó, người xuất khẩu sẽ tiến hành giao hàng, sau đó sẽ ký phát hối
phiếu, séc của người nhập khẩu gửi đến ngân hàng nước mình nhờ thu hộ tiền ghi
trên các phương tiện thanh toán đó. Các ngân hàng này chuyển các phương tiện
thanh toán đến các ngân hàng nước nhập khẩu để thu hộ.
Như vậy, cơ sở để hình thành hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng
thương mại là hoạt động ngoại thương. Nói đến ngoại thương là nói đến thanh toán
quốc tế. Nếu thanh toán quốc tế được thực hiện tốt thì giá trị hàng hoá xuất nhập
khẩu mới được thực hiện tốt, thúc đẩy tài trợ ngoại thương góp phần không nhỏ

cho việc đưa ngoại thương phát triển và là yếu tố quan trọng để đánh giá quan hệ
kinh tế quốc tế đối với sự phát triển của một quốc gia.
III. CÁC HÌNH THỨC VÀ QUY TRÌNH TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU.
Để thu hút khách hàng mỗi ngân hàng bên cạnh việc thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật đều cố gắng tạo ra sự khác biệt cho ngân hàng của mình.
Đối với hoạt động tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu cũng vậy, dựa vào tiềm lực của
mình cùng với mục tiêu thu hút khách hàng, tối đa hoá lợi nhuận, phân tán rủi ro
các ngân hàng cũng lựa chọn các hình thức tín dụng khác nhau đáp ứng kịp thời
mọi nhu cầu tài chính. Ngân hàng đã trở thành một người bạn đồng hành không thể
thiếu của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế thế giới.
1. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất khẩu:
Ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho các cơ sở xuất khẩu dưới các
hình thức sau:
1.1. Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
Sau khi lập xong bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm… nhà xuất
khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng của nhà xuất khẩu
sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng giao dịch) với chỉ thị
giao chứng từ khi đã thanh toán (điều kiện D/P) hoặc chấp nhận một hối phiếu đòi
nợ kèm theo (điều kiện D/A). Tuy vậy, thời gian để có tiền thanh toán do nhà nhập
khẩu trả làm cho xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời. Nhà xuất khẩu lúc này có thể
yêu cầu ngân hàng đáp ứng một phần giá trị bộ chứng từ nhờ thu làm đảm bảo.
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu gần giống với chiết khấu
chứng từ nhưng có một số điểm cần phân biệt như sau:
Ngân hàng không cho vay toàn bộ giá trị hối phiếu mà chỉ đáp ứng trước một
phần.
Nhà xuất khẩu không phải chịu tỷ lệ chiết khấu 10% chi phí hối phiếu như
chiết khấu vì nhà xuất khẩu chỉ cần một phần giá trị hối phiếu.
Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu
từng phần, nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ ngắn

hạn phục vụ nhu cầu tiền mặt tạm thời.
1.2. Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ.
Trong hình thức thanh toán bằng thư tín dụng, nhà xuất khẩu là người được
hưởng lợi. Khi có toàn bộ chứng từ thanh toán trong tay, nhà xuất khẩu có thể sử
dụng L/C để thế chấp mở L/C khác cho người hưởng lợi khác (L/C giáp lưng) hoặc
nhà xuất khẩu có thể đến các ngân hàng thanh toán để chiết khấu các hối phiếu của
bộ chứng từ thư tín dụng, ngoài ra với một L/C cho phép bán lại chứng từ đòi tiền
nhà nhập khẩu hoặc dưới dạng chuyển nhượng toàn bộ quyền sở hữu một thư tín
dụng trả chậm thì nhà xuất khẩu có thể nhận được một khoản tín dụng từ ngân
hàng.
Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ khi sử dụng L/C
điều khoản đỏ, nhà xuất khẩu sẽ có một khoản tiền ứng trước của nhà nhập khẩu
vào thời điểm xác định trước khi xuất trình toàn bộ chứng từ hàng hoá, các điều
khoản ứng trước thường được quy định trong một điều kiện thuận lợi cho các bên
thực hiện.
Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hay ngân hàng xác nhận cấp
cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu chịu chi
phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng trước, vật bảo
đảm của nhà xuất khẩu khi nhận tiền ứng trước.
Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi số tiền ứng trước
cùng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ chứng từ phù hợp).
Nếu nhà xuất khẩu vì một lý do nào đó không xuất trình được chứng từ phù hợp với
điều kiện của L/C, các ngân hàng cũng có quyền đòi số tiền này ở ngân hàng mở
L/C.
1.3. Tín dụng chiết khấu hối phiếu.
Ở hình thức này ngân hàng mua lại hối phiếu trước khi đến hạn thanh toán
tức là mua lại các khoản nợ phải đòi.
Lượng tín dụng mà ngân hàng cấp cho khách hàng là giá trị hối phiếu sau
khi trừ đi chi phí chiết khấu và các khoản lệ phí…Chi phí chiết khấu được xác định
theo công thức:

Tck = M *(1-
L
ck
*
t ) – P
36.000
T
ck
: Giá trị chiết khấu M: mệnh giá hối phiếu
P: Lệ phí t: thời gian chiết khấu
L
ck
: lãi chiết khấu
Trong các yếu tố trên, người ta quan tâm nhất đến lãi suất chiết khấu, tỷ lệ
này phụ thuộc vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu, thời hạn thanh toán,
hình thức và giá trị hối phiếu.
Với hình thức này, ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất khẩu
trong việc tái đầu tư đối với khoản tín dụng cung ứng.
Đối với nhà nhập khẩu thì có ưu điểm đó là khả năng truy đòi được khoản tiền
chiết khấu khi hối phiếu không được thanh toán vào ngày đến hạn.
Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước, đây là loại tín dụng thông
thường nhất trong hoạt động ngoại thương.
Quy trình chiết khấu hối phiếu:
1
2
10b
3 4 7 8 10
Nh xuà ất
khẩu
Nh nhà ập

khẩu
10a 10a
10a
5
6 9 10

Chú thích:
1. Nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, chuyển chứng từ vận chuyển và hối phiếu
đòi nợ tới nhà nhập khẩu.
2. Nhà nhập khẩu chấp nhận hối phiếu và chuyển hối phiếu đã chấp nhận cho
nhà xuất khẩu.
3. Nhà xuất khẩu đề nghị ngân hàng của mình cấp tín dụng trên cơ sở hối phiếu.
4. Ngân hàng xuất khẩu đồng ý cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu (ghi có vào tài
khoản của nhà xuất khẩu sau khi đã trừ đi chi phí chiết khấu và lệ phí nhờ thu).
5. Ngân hàng xuất khẩu đem hối phiếu đến Ngân hàng Trung ương để tái chiết
khấu và thu hồi khoản tín dụng đã cấp cho nhà xuất khẩu.
6. Khi tới hạn thanh toán, Ngân hàng Trung ương chuyển hối phiếu cho nhà
nhập khẩu và đề nghị thanh toán.
7. Ngân hàng nhà nhập khẩu chuyển hối phiếu cho nhà nhập khẩu và đề nghị
thanh toán.
8. Nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán và cho phép ngân hàng ghi nợ vào tài
khoản của mình.
9. Ngân hàng nhà nhập khẩu ghi Có vào tài khoản ở Ngân hàng Trung ương,
chi phí hối phiếu sau khi đã trừ đi lệ phí nhờ thu và thông báo khoản thu đã được
thực hiện.
Ngân h ngà
nh NKà
Ngân h ngà
nh XKà
Ngân h ng Trungà

ương ở nước nhà
xuất khẩu
10. Trường hợp nhà nhập khẩu không chấp nhận thanh toán, nhà nhập khẩu
chuyển hối phiếu cho ngân hàng của mình từ đó hối phiếu được chuyển đến Ngân
hàng Trung ương.
10a. Ngân hàng Trung ương truy đòi ngân hàng nhà nhà xuất khẩu hoặc có thể truy
đòi trực tiếp nhà xuất khẩu.
10b. Mọi vấn đề nhà xuất khẩu phải tự giải quyết với nhà nhập khẩu.
Đối với hình thức tín dụng này, vai trò của Ngân hàng Trung ương hết sức
quan trọng. Việc tái chiết khấu của Ngân hàng Trung ương tạo điều kiện thu hồi
vốn cho các tổ chức tín dụng đặc biệt vào thời điểm phải đảm bảo dự trữ bắt buộc.
Một điều lưu ý ở đây là các hỗi phiếu muốn được chiết khấu phải đáp ứng một số
điều kiện nhất định về thời hạn thanh toán, khả năng thanh toán…
1.4. Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá.
Ngân hàng cấp tín dụng cho nhà xuất khẩu trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ
hàng hoá trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân hàng tạo điều kiện
cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự chiết khấu hối phiếu.
Lãi suất chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết khấu.
Có 2 loại:
Chiết khấu có truy đòi: Ngân hàng sau khi thực hiện chiết khấu bộ chứng từ,
nếu không được bên nước ngoài thanh toán sẽ quay lại đòi nhà xuất khẩu --> lãi
suất thấp.
Chiết khấu miễn truy đòi: ngân hàng sẽ phải gánh chịu mọi rủi ro nếu bên
nước ngoài không thanh toán, ngân hàng sẽ không có quyền đòi lại tiền của khách
hàng.
1.5. Cho vay thông thường
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một khoản tiền
để họ sử dụng trong thời gian nhất định. Khi hết hạn người vay phải trả đủ cả gốc
và lãi.
Cho vay thông thường là hình thức tín dụng cơ sở cho các hình thức tín dụng

khác ra đời và phát triển. Ngân hàng sử dụng dưới hai hình thức: cho vay ngắn
hạn(<12 tháng) và dài hạn. Cho vay ngắn hạn thường áp dụng đối với những yêu
cầu về vốn tạm thời để trang trải những nhu cầu sinh hoạt còn cho vay dài hạn để
cung cấp tiền đầu tư vào máy móc thiết bị, cơ sở hạ tầng… Thông thường, các nhà
xuất nhập khẩu vay ngắn hạn để chi trả tiền lương, chi phí vận chuyển, thu mua
hàng xuất khẩu, trả tiền hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp lại sử
dụng tín dụng dài hạn để mua sắm trang thiết bị hiện đại, nâng cấp cơ sở hạ tầng
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
Hình thức này có 2 ưu điểm chính sau:
Cho vay theo phương thức này được áp dụng trong mọi lĩnh vực, mọi đối
tượng, mọi cá nhân trong nền kinh tế khi có nhu cầu đều có thể đến ngân hàng để
xin được cấp vốn. Sau khi xem xét hồ sơ thấy khách hàng có đủ mọi yêu cầu trong
nguyên tắc tín dụng ngân hàng đều có thể tiến hành cho vay.
Cho vay theo phương thức này bao giờ cũng phải có tài sản để bảo đảm cho
món vay. Vì vậy nói chung khản vay khá an toàn.
Tuy nhiên, hình thức này còn có nhược điểm là:
Khó khăn trong việc định giá tài sản tài chính, đặc biệt là khi bán chúng vì
giá cả thị trường thường xuyên biến động, hàng hoá, tài sản có thể bị hỏng hóc,
mất mát.
Có hai hình thức mới phát triển trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất khẩu
là thanh toán “factoring” và thanh toán “forfaithing”:
Factoring là một hình thức tài chính trong hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt
động mua bán những khoản thanh toán chưa đến hạn và ngắn hạn từ các hoạt động
xuất khẩu, cung ứng hàng hoá, dịch vụ. Đặc điểm nổi bật của nghiệp vụ này là tính
miễn truy đòi tương đối đối với nhà nhập khẩu hoặc người sở hữu trước đó nếu các
chứng từ là bằng chứng cho các khoản nợ không được thanh toán khi đến hạn. Khác
với hoạt động mua lại chứng từ thanh toán, hoạt động factoring không sử dụng các
tín dụng thư cũng như hối phiếu. Để có thể chào khách hàng bằng cách tài trợ này,
gần như tất cả các ngân hàng tiến hành lập cơ sở đặc biệt, chuyên dụng vì factoring
không phải là nghiệp vụ ngân hàng. Hoạt động factoring chỉ sử dụng cho những hoạt

động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà
xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc nhiều nước trong cùng một thời
điểm.
Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng được những điều kiện sau mới được
phép mua bán:
Những khoản thanh toán phải tồn tại một cách hợp pháp.
Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những
khoản thanh toán này.
Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày.
Những khoản thanh toán phải đủ tư cách pháp lý độc lập với quyền của
người thứ ba.
Không có việc cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập
khẩu hoặc nước nhập khẩu.
Forfaithing: kỹ thuật factoring được chuyên môn hoá cao gọi là forfaithing.
Về cơ bản nghiệp vụ này giống nghiệp vụ factoring ở những đặc điểm sau:
Forfaithing chỉ bao gồm những khoản thanh toán cụ thể, riêng lẻ trong toàn bộ
quá trình xuất nhập dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu nói riêng.
Thời hạn thanh toán của forfaithing là trung và dài hạn, áp dụng với loại tiền
tệ có khả năng chuyển đổi mạnh USD, DEM…
Factoring phục vụ xuất nhập khẩu không sử dụng tới chứng từ còn forfaithing
dựa vào chúng và sự đảm bảo của ngân hàng.

×