Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG ( Một số tác giả...Đà Nẵng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.9 KB, 21 trang )

CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC ĐỊA PHƯƠNG
Phan Tứ, Nhà văn
(1930 - 1995)
* Tên khai sinh: Lê Khâm. Cả hai tên đều là bút danh của ông. Ông sinh
ngày 20 tháng 12 năm 1930 tại thị xã Quy Nhơn. Quê gốc: xã Quế
Phong, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam. Tốt nghiệp khoa Văn Đại học
Tổng hợp Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông mất ngày
17 tháng 4 năm 1995, tại thành phố Đà Nẵng. Hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam (1970).
* Phan Tứ gia nhập quân đội năm 1950 tại Hà Tĩnh, tốt nghiệp trường
Lục quân (Thanh Hóa) rồi sang Lào chiến đấu trong quân tình nguyện
Việt Nam. Tập kết ra Bắc năm 1954, năm 1958 ông theo học Đại học
Tổng hợp. Năm 1961 vào chiến trường B làm cán bộ văn nghệ thuộc
Ban Tuyên huấn khu ủy khu 5. Năm 1966 ra Bắc chữa bệnh, sau đó giữ
chức quyền Tổng biên tập Nhà xuất bản Giải phóng. Ông đã từng là ủy
viên đảng đoàn Văn nghệ khu 5, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn, ủy
viên Ban Thư ký (Ban thường vụ) Ban chấp hành Hội Nhà văn (khóa III),
Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, Đại biểu
Quốc hội khóa 8. Ông đã được Nhà nước tặng thưởng huân chương
Độc lập hạng 3.
* Tác phẩm đã xuất bản: Bên kia biên giới (tiểu thuyết, 1958, 1978); Trở
về Hà Nội (truyện ngắn, 1960); Trên đất Lào (bút ký, 1961); Gia đình má
Bảy (tiểu thuyết, 1968, 1971, 1972, 1975); Trong đám nứa (truyện ngắn,
1968); Măng mọc trong lửa (bút ký, 1972, 1977); Mẫn và tôi (tiểu thuyết,
1972, 1975, 1978, 1987, 1995); Trại ST 18 (tiểu thuyết, 1974); Trong
mưa núi (hồi ký, 1984, 1985); Người cùng quê (tiểu thuyết 3 tập, 1985,
1995, 1997); Sông Hằng mẹ tôi (dịch, tiểu thuyết ấn Độ, 1984, 1985).
- Nhà văn đã được nhận các giải thưởng: Giải thưởng văn học Nguyễn
Đình Chiểu; Giải thưởng 30 năm (1945 - 1975) của tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng; - Giải thưởng văn học loại A mười năm (1985 - 1995) của tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng.


NHÀ THƠ PHẠM SỸ SÁU


Tiểu sử:
Tên thật: Phạm Sỹ Sáu
Sinh năm: 1956
Nơi sinh: Hoà Vang – Quảng Nam
Bút danh: Ngy Xuân Sơn
Thể loại: thơ
Các tác phẩm:
 Hãy mở lòng ra mùa thu tới (1973)
 Khúc ca vào chiến dịch (1982)
 Điểm danh đồng đội (1988)
 Ra đi từ thành phố (1994)
>>
Chi tiết
Giải thưởng văn chương:
Giới thiệu một tác phẩm:
Bài hành tráng sỹ mới (trích)

Tráng sỹ không bơi qua sông
Tráng sỹ đi bằng đường không
Tráng sỹ đi bằng xe khách
Tráng sỹ lên đường lòng hề mênh mông, mênh mông

Trận tiền chừ là nơi súng nổ
Cung kiếm chừ là khẩu AK
Chung rượu chừ tráng sỹ thề không say
Lòng say con mắt ai


Tráng sỹ lên đường hành trang trên lưng
Nặng ghánh giang sơn lòng cứ bâng khuâng
Tráng sỹ chừ thề áo xanh nón cối
Ống tên không còn, cái bình tông lủng lẳng thắt lưng

Sông Địch nào rộng bằng Mê Kông
Sóng Mê Kông nào rộng bằng sóng ở trong lòng
Tráng sỹ chừ lên rừng biên giới lá thư nhà thành nỗi nhớ mong.

Bùi Giáng (17 tháng 12 năm 1926-7 tháng 10 năm 1998) là một nhà thơ, dịch giả và nghiên cứu
văn học của Việt Nam, ông nổi tiếng từthập niên 1960 với tập Mưa nguồn. ông còn có các bút
danh khác: Bán Dùi, Bùi Giàng Dúi.
Ông sinh tại làng Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Bố của Bùi Giáng là ông Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ Bùi ở Quảng Nam. Do người
vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con thứ hai của
Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào Sài Gòn,
ông được gọi theo cách gọi miền Nam là Sáu Giáng.
Sau khi học xong bậc tiểu học ở Trường Bảo An tại huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, Bùi Giáng
được gia đình cho ra Huế tiếp tục học ở Trường Trung học Thuận Hóa, đang học thì thế chiến thứ
hai nổ ra, Nhật hất cẳng Pháp, rồi Cách mạng Tháng Tám thành công. Nhưng sau đó ông cũng kịp
đậu bằng Thành Chung.
Bùi Giáng cưới vợ năm 18 tuổi (1944), vợ ông là bà Phạm Thị Ninh nổi tiếng xinh đẹp, nhưng chỉ
vài năm sau, bà bị bệnh, sinh non và cả 2 mẹ con cùng chết. Nhiều người cho rằng đây là 1 trong
những lý do khiến Bùi Giáng bị điên từ lúc trẻ.
Rồi Bùi Giáng theo kháng chiến. Năm 1950, khi có kỳ thi tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức, Bùi
Giáng dự thi và đậu Tú tài 2 văn chương. Ông qua Liên khu IV, tới Hà Tĩnh, để tiếp tục vào học đại
học bằng cách đi bộ theo đường mòn trên núi hơn một tháng rưỡi trời. Nhưng khi đến nơi, không
hiểu sao ngay trong ngày khai giảng, Bùi Giáng đã quyết định bỏ học để quay ngược trở về Quảng
Nam rồi theo chân đàn bò rong ruổi khắp các vùng đồi núi 2 năm.
Tháng 5-1952, Bùi Giáng ra Huế thi lấy bằng tú tài để có thể vào Sài Gòn theo học ĐH. Nhưng một

lần nữa ông lại bỏ học khi đọc danh sách các giáo sư giảng dạy ở ĐH Văn khoa. Sau sự cố này,
Bùi Giáng không bao giờ đi học nữa.
Rồi Bùi Giáng chuyên tâm vào việc nghiên cứu, viết sách và sáng tác thơ văn. Những người thân
cận cho biết ông đã về quê bán tất cả ruộng vườn được thừa kế để lấy tiền in sách.Từ năm 1957,
ông lần lượt cho ra đời một loạt sách giới thiệu về văn học Việt Nam như Truyện Kiều, Lục Vân
Tiên, Chinh phụ ngâm...Ông nổi tiếng bởi tốc độ sáng tác nhanh: tập thơMười hai con mắt được
ông sáng tác chỉ trong một đêm Noel năm 1992.
Từ năm 1962, Bùi Giáng liên tục cho ra đời nhiều đầu sách. Mỗi năm đều đều vài ba cuốn. Ông là
một tác giả có tác phẩm in ra đứng vào hàng kỷ lục ở miền Nam Việt Nam trước1975. Sách của
ông có thể chất thành chồng cao cả mét, thơ thì phải kể bằng đơn vị nghìn bài
[1]
.
Năm 1969, tất cả sách vở cùng với nhà cửa bị một cháy hết trong một cơn hỏa hoạn. Ông bị sốc
nặng, từ đó trở đi ông là bệnh nhân quen thuộc của viện dưỡng trí Biên Hòa.
Sau năm 1975, ông không bị đi học tập cải tạo như nhiều văn sĩ miền Nam khác vì ông bị
mắc bệnh tâm thần.
Từ 1975 trở đi ông vẫn tiếp tục sáng tác rất nhiều thơ, nhưng thời gian này ông có biểu hiện bệnh
tâm thần nặng. Ông thường rong chơi nghịch ngợm ngoài đường với bộ đồ rách rưới, dơ dáy,
nhiều lần bị công an bắt vì gây rối trật tự, cản trở giao thông.
Tháng 10 năm 1998, trong một lần đi chơi ông bị té làm chấn thương sọ não. Sau khi hỏi ý kiến
của nghệ sĩ Kim Cương, bệnh viện chợ Rẫy quyết định mổ cho ông, song ông đã qua đời vào
ngày 7 tháng 10, 1998.
Chuyện tình cảm
Bùi Giáng chỉ có 1 vợ là bà Phạm Thị Ninh, một thiếu phụ hồng nhan bạc mệnh đã để lại cho ông
nhiều đau khổ. Đó là lý do để trong thơ của ông sau này thường xuyên nhắc đến sự mất mát, sự
chia ly, một hình bóng cũ: "Có hàng cây đứng ngóng thu/ Em đi mất hút như mù sa bay; hay những
dòng thơ trên bia mộ của Bùi Giáng:
Đùa với gió, rỡn với vân
Một mình nhớ mãi
gái trần gian xa

Sương buổi sớm, nắng chiều tà
Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu
Song ngoài người vợ đầu, Bùi Giáng cũng có những đối tượng khác để
yêu, để làm thơ, ngoài mối tình đơn phương nổi tiếng giành cho nghệ
sĩ Kim Cương, còn phải kể đến những mối tình vượt không gian với
những mỹ nhân Tây Phương như Marilyn Monroe (mà ông gọi là Lyn-
rô), Brigitte Bardot, ngoài ra trong thơ ông còn có những hình bóng của
ca sĩ Hà Thanh, Thái Thanh, ni cô Trí Hải tức là Phùng Khánh (ông gọi
là Mẫu thân Phùng Khánh), hay cả những nhân vật tiểu
thuyết Marguerite, A Châu, A Tử.
Riêng mối tình đối với Kim Cương được cho là sâu đậm nhất, và đã để
lại khá nhiều giai thoại.
Tác phẩm
[Thơ
 Mưa nguồn (1962)
 Lá hoa cồn (1963)
 Màu hoa trên ngàn (1963)
 Mười hai con mắt (1964)
 Ngàn thu rớt hột(1967)
 Rong rêu (1972)
 Thơ vô tận vui (1987)
 Mùa màng tháng tư (1987)
 Mùi Hương Xuân Sắc (1987)
 Đêm ngắm trăng (1997)
Dịch thuật
 Trăng châu thổ
 Hoàng Tử Bé
 Khung cửa hẹp
 Hòa âm điền dã
 Ngộ nhận

 Cõi người ta
 Nhà sư vướng luỵ
Nghiên cứu
 Tư tưởng hiện đại (1962)
 Martin Heidgger và tư tưởng hiện đại (1963)
 Đi vào cõi thơ
 Thi ca tư tưởng
 Một vài nhận xét về bà huyện Thanh Quan
 Một vài nhận xét về Lục Vân Tiên, Chinh Phụ Ngâm, quan Âm Thị
Kính
 Vài nhận xét về truyện Kiều và truyện Phan Trần
 Sa mạc phát tiết (1965)
 Sa mạc trường ca (1965)
 Bài ca quần đảo (1969)
 Mùa thu trong thi ca
 Ngày tháng ngao du
Nguyễn Văn Xuân (1892–1989) là thủ tướng Nam phần Việt Nam từ ngày 8 tháng
10 năm 1947 đến ngày 27 tháng 5 năm 1948, sau đó giữ chức thủ tướng lâm thời của Quốc gia
Việt Nam từ ngày 27 tháng 5 năm 1948 đến 14 tháng 7 năm 1949. Ông còn là sĩ quan gốc
Việt đầu tiên mang quân hàm cấp tướng của quân đội Pháp (1947).
]Cuộc đời và sự nghiệp
Ông xuất thân trong một gia đình đại điền chủ ở Nam Kỳ. Vốn gia đình có quốc tịch Pháp, ông
sang Pháp học từ nhỏ. Học giỏi, ông đậu vào Trường Bách Khoa Paris năm 1912 và gia nhập
quân đội Pháp. Ông phục vụ trong binh chủng pháo binh, tham gia Thế chiến I và sau đó được từ
từ thăng chức. Mặc dầu vậy, trước năm 1945, ông là vị sĩ quan người gốc Việt mang quân hàm
cao nhất trong quân đội Pháp: Quan năm (Colonel).
Sau 1945, sau khi chiêu bài Nam kỳ quốc thất bại, người Pháp đã nghĩ đến giải pháp Bảo Đại để
chống lại phong trào kháng chiến giành độc lập của Việt Minh. Người trung gian của Pháp là Đại tá
Nguyễn Văn Xuân. Vào giữa năm 1947, Nguyễn Văn Xuân được nhà nước Pháp phong quân
hàm Thiếu tướng và ngày 8 tháng 10 năm 1947, ông được Hội đồng tư vấn Nam kỳ bầu vào chức

vụ thủ tướng và thành lập chính phủ Nam Kỳ quốc, với tên mới là chính phủ Nam phần Việt Nam.
Trong khi đó triều đình Huế cố thương lượng với Pháp về chủ quyền đất nước. Theo Thỏa ước
Vịnh Hạ Long ngày 6 Tháng Chạp giữa Cao ủy Bollaert và Bảo Đại thì Pháp thừa nhận nước Việt
Nam "độc lập" nhưng có điều kiện hạn chế về ngoại giao, quốc phòng và quy chế dân tộc thiểu số.
Để xúc tiến việc trao trả độc lập hoàn toàn và sử đổi những khoản trên, ngày 26 Tháng Ba, 1948
ở Hương Cảng Bảo Đại tuyên bố thành lập chính phủ trung ương của Quốc gia Việt Nam. Bốn
người được đề cử làm thủ tướng lúc bấy giờ là Ngô Đình Diệm,Lê Văn Hoạch, Trần Văn Hữu và
Nguyễn Văn Xuân nhưng Ngô Đình Diệm và Lê Văn Hoạch khước từ vì không tán thành nghị định
thư của Thỏa ước Vịnh Hạ Long. Cuối cùng Trần Văn Hữu nhường cho Nguyễn Văn Xuân làm thủ
tướng Chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam.
[1]
Ngày 27 tháng 5 năm 1948, tướng Nguyễn Văn Xuân trình danh sách chính phủ. Đến ngày 5
tháng 6 năm 1948 thì tuyên cáo Hạ Long được chính thức ký kết, theo đó nước Pháp thừa nhận
nền độc lập của Việt Nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu
hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp
Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại.
Ngày 1 tháng 4 năm 1949, tướng Nguyễn Văn Xuân được chính phủ Pháp thăng hàm Trung
tướng quân đội thuộc địa (General de division des troupes coloniales).
Ngày 24 tháng 4 năm 1949, cựu hoàng Bảo Đại về nước. Hai tháng sau, vào ngày 14 tháng 6, Bảo
Đại tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng tuyển cử và tạm giữ danh hiệu Hoàng
đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp. Ngày 1 tháng 7 năm 1949, chính phủ lâm thời của Quốc gia
Việt Nam tấn phong Bảo Đại là Quốc trưởng. Bảo Đại cũng tuyên bố tạm kiêm quyền Thủ
tướng
[cần dẫn nguồn]
, vì vậy cử tướng Xuân làm Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng.
Tướng Nguyễn Văn Xuân giữ chức vụ Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng trong chính
phủ lâm thời đến ngày 21 tháng 1 năm 1950. Sau khi chính phủ Nguyễn Phan Long được thành
lập, tướng Nguyễn Văn Xuân về Pháp và sống cuộc đời thầm lặng ở đó cho đến khi mất.
Nhà thơ Thu Bồn, tên thật là Hà Đức Trọng (sinh ngày 1 tháng 12 năm 1935 tại Quảng Nam, mất
ngày 17 tháng 6 năm 2003), là một nhà thơ, nhà văn Việt nam

Tiểu sử
Thu Bồn sinh tại xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, vào bộ đội năm mười một tuổi
và là thiếu sinh quân ở đơn vị biệt động chiến đấu. Trong thời gian chiến tranh Việt nam, ông làm
phóng viên chiến trường Liên khu V sau đó về làm việc tại Tạp chí Văn nghệ quân đội thuộc Tổng
cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thu Bồn là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ miền
Trung Trung Bộ và ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV. Ngoài bút danh đặt theo
tên dòng sông Thu Bồn quê hương, ông còn có các bút danh khác là Hà Ðức Trọng, Bờ Lốc.
Ngoài thơ, Thu Bồn còn viết tiểu thuyết, nhưng ông được biết đến nhiều với những bài trường ca,
trong đó Bài ca chim Chơ Rao vẫn được coi là thành công có tính định hướng cho phong cách
tiêu biểu của ông và “không những là tác phẩm từ miền Nam gửi ra khá sớm, mà còn là bản
trường ca đầu tiên của văn học giải phóng”
[1]
. Đây là khúc ca ca ngợi lòng yêu tự do, ý chí bất
khuất của những con người Tây Nguyên trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ được giảng dạy ở
chương trình giáo dục phổ thông của Việt nam.
[Các tác phẩm chính
 Bài ca chim Chơ Rao (trường ca, 1962),
 Tre xanh (thơ, 1965),
 Mặt đất không quên (thơ, 1970),
 Những đám mây mầu cánh vạc (tiểu thuyết 2 tập, 1975);
 Oran 76 ngọn (trường ca, 1979),
 Người vắt sữa bầu trời (trường ca, 1985)
 Thông điệp mùa xuân (trường ca, 1985)
 Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ, 1992)...
 Tôi nhớ mưa nguồn (thơ, 1999)
 Trường ca tuyển tập (1999)
 Gỡi lời con đến cùng cha
 Quê hương mặt trời vàng
[Các giải thưởng
 Giải văn học Nguyễn Đình Chiểu

 Giải thưởng văn học quốc tế Lotus của Hội Nhà văn Á Phi (1973)
 Giải thưởng báo Hà Nội Mới (1969)
 Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2001

NHÀ VĂN THÁI BÁ LỢI


Tiểu sử:
Tên thật: Thái Bá Lợi
Sinh năm: 1945
Nơi sinh: Quỳnh Lưu - Nghệ An
Bút danh: Thái Bá Lợi
Thể loại: Tiểu thuyết, truyện ngắn
Các tác phẩm:
• Vùng chân Hòn tàu (1978)
• Thung lũng thử thách (1978)
• Họ cùng thời với những ai (1981)
• Bán đảo (1982)
• Còn lại với thời gian (1989)
• Đội hành quyết (1994)
Giải thưởng văn chương:
• Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (tiểu thuyết Họ cùng thời với những
ai) (1981-1983)
Giới thiệu một tác phẩm:

×