Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.7 KB, 35 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XUẤT NHẬP KHẨU
TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN VIỆT NAM.
2.1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM & CỦA SỞ GIAO DỊCH I
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Việt Nam
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, gọi tắt là ngân
hàng Nông nghiệp , có tên giao dịch quốc tế là Vietnam Bank for Agriculture and
Rural Development (VBARD), có trụ sở chính đặt tại số 2 Láng Hạ, Ba Đình, Hà
Nội.
Tổ chức tiền thân của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam (NHN
o
&PTNTVN) là ngân hàng Phát triển nông nghiệp Việt Nam, được
thành lập theo quyết định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 nhằm đáp ứng nhu cầu cấp
bách của nền kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, ổn định tiền tệ
với thị trường hoạt động chủ yếu là khu vực nông thôn, lĩnh vực nông nghiệp và
đối tượng là nông dân.
Từ khi thành lập tới nay, ngân hàng đã qua hai lần đổi tên. Lần thứ nhất, theo
quyết định 400/CT ngày 14/11/1990 của Thủ tướng Chính phủ, ngân hàng được
đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam. Sau đó, nhằm chuyển đổi mô
hình hoạt động của các ngân hàng thương mại theo dạng Tổng công ty, ngày
15/10/1996 theo quyết định số 280/QĐ - NH5 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền ký quyết định thành lập tại văn bản
số 3329/ĐMDN ngày 11/7/1996, ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam được đổi tên
thành ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHN
o
&PTNTVN). NHN
o
&PTNTVN là một trong bốn ngân hàng thương mại quốc


doanh lớn nhất Việt Nam hiện nay được thành lập theo mô hình Tổng công ty Nhà
nước với thời gian hoạt động là 99 năm.
Qua 14 năm hoạt động, NHN
o
&PTNTVN đang trên đà phát triển ổn định và
không ngừng lớn mạnh. Từ số vốn ban đầu do Nhà nước cấp là 2200 tỷ VND, đến
cuối năm 2001, ngân hàng có tổng nguồn vốn đạt 73635 tỷ VND, tăng 33,7% so
với năm 2000. Nguồn vốn hiện có của ngân hàng chủ yếu đầu tư cho các thành
phần kinh tế, đến nay đã giải ngân tới hơn 8 triệu hộ trong đó cho vay hơn 2,6
triệu hộ nghèo và gần 20.000 doanh nghiệp. Tổng dư nợ của ngân hàng đạt 66.230
tỷ VND trong đó dư nợ cho vay hộ nghèo là 6200 tỷ VND. Ngân hàng có tỷ lệ nợ
quá hạn thấp : 0,7% (giảm 0,4 % so với năm 2000). Hiện nay NHN
o
&PTNTVN có
hơn 24000 cán bộ công nhân viên với mạng lưới rộng khắp gồm gần 1600 chi
nhánh trên toàn quốc.
Cùng với việc mở rộng hoạt động kinh doanh đối nội, NHN
o
&PTNT vẫn tiếp
tục quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại. Ngân hàng hiện có quan hệ với 740
tổ chức tài chính tín dụng, ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam và ở 89 quốc gia trên
thế giới. Đến cuối 2001, đã có 55 chi nhánh NHN
o
&PTNTVN trực tiếp tham gia
thanh toán quốc tế. Trong năm 2001, doanh số thanh toán quốc tế là 1754 triệu
USD, doanh số mua bán ngoại tệ đạt 4038 triệu USD. Bên cạnh đó, hoạt động đối
ngoại và thanh toán biên giới đã được mở rộng tới nhiều chi nhánh trong toàn hệ
thống, góp phần đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, thu hút thêm nhiều khách hàng và
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chu trình khép kín từ khâu cho vay để
thu mua nguyên liệu, chế biến hàng hoá đến khâu xuất khẩu. Nghiệp vụ bảo lãnh

và mở tín dụng thư trả chậm vẫn tiếp tục phát triển và được quản lý chặt chẽ, các
khoản bảo lãnh đều được thanh toán đầy đủ, đúng hạn.
Chính vì những thành tựu trên mà tạp chí ASIA WEEK, một tạp chí kinh tế lớn
nổi tiếng ở châu Á số 15/09/2000 đã xếp NHN
o
&PTNTVN đứng thứ 335 trong số
500 ngân hàng lớn nhất châu Á và đứng thứ 46 trong số 50 ngân hàng lớn nhất
Đông Nam Á.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, NHN
o
&PTNTVN đang trên đà
phát triển và ngày càng vững mạnh. Trong thời gian tới, NHN
o
&PTNTVN phấn
đấu trở thành NHTM tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế,
mở rộng hoạt động kinh doanh vững chắc an toàn, có quy mô vốn tự có ngang tầm
các ngân hàng trong khu vực để góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.1.2 Giới thiệu về SGDI - NHN
o
&PTNT
Sở giao dịch I là một đơn vị trực thuộc Trung tâm điều hành NHN
o
&PTNT.
Được thành lập theo quyết định số 15/TCCB ngày 25/11/1990 của Tổng giám đốc
NHN
o
&PTNT, Sở bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 4/1991 theo luật các tổ chức
tín dụng và theo điều lệ của NHN
o
&PTNTVN và tiến hành hoạt động tài trợ xuất

nhập khẩu từ năm 1998.
SGDI có trụ sở đặt tại số 4 Phạm Ngọc Thạch, Đống Đa, Hà Nội.
2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức của SGDI
Cán bộ công nhân viên của sở gồm có 82 người trong đó có một giám đốc và
ba phó giám đốc. Giám đốc sở là người trực tiếp điều hành và chịu trách nhiêm
trực tiếp trước Tổng giám đốc NHN
o
&PTNTVN. Hiện nay Sở gồm có 6 phòng
ban:
- Phòng hành chính
- Phòng tổ chức
- Phòng kế hoạch kinh doanh
- Phòng kế toán
- Phòng kiểm tra, kiểm toán nội bộ
- Phòng ngân quỹ.
Ngoài ra, SGDI còn có 2 chi nhánh ở Tây Sơn, Trung Yên và 2 phòng giao
dịch.
SƠ ĐỒ 2.1 : Cơ cấu tổ chức của SGDI (trang bên)
2.1.2.2 Hoạt động kinh doanh của SGDI
Nhiệm vụ chính của SGDI là thực hiện các lệnh thanh toán, điều chuyển vốn
trong toàn hệ thống NHN
o
&PTNTVN và trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng,
cung cấp các dịch vụ ngân hàng trên địa bàn Hà Nội.
Nhằm thực hiện tốt hai nhiệm vụ trên, Sở có các hoạt động kinh doanh cụ thể
như sau:
- Hoạt động huy động vốn:
Sở huy động vốn thông qua nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ hạn
bằng cả nội tệ và ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế
trong và ngoài nước. Bên cạnh đó Sở còn phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu,

trái phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động khác theo quy định của
NHN
o
&PTNT.
Khi cần thiết, SGDI còn có thể vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng
trong nước theo quy định của NHN
o
&PTNT
Ngoài ra, Sở còn tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ và các
tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
- Hoạt động cho vay:
Sở thực hiện cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng nội tệ và ngoại tệ đối
với khách hàng của thành phần kinh tế khác nhau. Sở cho vay hộ gia đình nhằm
đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng... Sở tài trợ vốn cho các doanh nghiệp
quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân kinh doanh xuất nhập khẩu ...
Bên cạnh đó, Sở còn thẩm định, tái thẩm định các dự án tín dụng, trực tiếp cho
vay các dự án theo phân cấp uỷ quyền của Tổng giám đốc NHN
o
&PTNTVN.
- Hoạt động khác
Ngoài 2 hoạt động chính là huy động vốn và cho vay vốn, Sở còn có các hoạt
động khác như :
Kinh doanh ngoại hối: đây là hoạt động mua bán ngoại tệ mà chủ yếu nhằm
mục đích cho vay và phục vụ thanh toán quốc tế, những dịch vụ khác về ngoại hối
theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, NHN và NHN
o
&PTNTVN
Thanh toán quốc tế: đây là dịch vụ mang lại nguồn thu lớn cho Sở, nó góp phần
giúp cho hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh ngoại hối thêm phần sôi nổi.
Dich vụ khác như dịch vụ thẻ tín dụng, két sắt, dịch vụ chiết khấu các loại giấy

tờ có giá, thẻ thanh toán uỷ thác cho vay người nghèo, uỷ thác cho thuê tài chính...
Đầu mối cân đối điều hoà nguồn vốn kinh doanh nội tệ đối với các chi nhánh
trong hệ thống NHN
o
&PTNTVN.
Thực hiện các nhiệm vụ khác được Tổng giám đốc NHN
o
&PTNTVN giao cho.
2.2 TÌNH HÌNH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN
QUA VÀ TRIỂN VỌNG TRONG TƯƠNG LAI
2.2.1 Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, nền kinh tế nước ta đang
từng bước phát triển và hội nhập cùng nền kinh tế thế giới. Với sự phát triển không
ngừng của kinh tế quốc tê, trong thời gian qua, hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt
Nam đã góp phần đáng kể vào công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước
và góp phần hoàn thành những nhiệm vụ đề ra trong Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000.
Kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 cho lĩnh vực xuất nhập khẩu tuy gặp khó khăn
trong quá trình thực hiện do tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính
nhưng đã hoàn thành về cơ bản. Hoạt động xuất nhập khẩu tiếp tục phát triển khá
với tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm từ 1996 - 2000 đạt trên 5,6 tỷ USD, tăng bình
quân hàng năm trên 21% và cao gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tổng kim
ngạch nhập khẩu trong 5 năm khoảng 61 tỷ USD với tốc độ tăng bình quân hàng
năm khoảng 13,3%.
Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu nước ta đạt trên 180 USD/người/năm tuy còn ở
mức thấp nhưng đã thuộc nhóm các nước có nền ngoại thương phát triển.
BẢNG 2.1 : Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam giai đoạn 1996 - 2000
Chỉ
tiêu
Kim ngạch xuất
khẩu ( triệu USD)

Tổng kim ngạch
XNK so GDP(%)
Kim ngạch xuất
khẩu so GDP (%)
Kim ngạch xuất khẩu
XK (USD/người/năm)
1996 7 255,9 80,0 31,5 96
1997 9 185,0 80,6 35,6 116
1998 9 360,3 77,7 35,1 116
1999 11 540,0 81,1 40,3 150
2000 14 308,0 95,7 46,4 180
Nguồn: Tổng cục thống kê
BẢNG 2.2 : Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000
Chỉ tiêu Năm 1996 Năm 2000
Cơ cấu hàng xuất khẩu
- Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
- Nhóm hàng công nghiệp nhẹ & tiểu thủ công nghiệp
- Nhóm hàng công nghiệp nặng - khoáng sản
100%
42,3%
29%
28,7%
100%
30%
34,3%
35,7%
Cơ cấu hàng nhập khẩu
- Nhóm hàng tư liệu sản xuất
- Nhóm hàng tiêu dùng
100%

87%
13%
100%
94,8%
5,2%
Nguồn: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Cơ cấu xuất nhập khẩu chuyển dịch theo hướng tích cực:
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tuy vẫn
chiếm vị trí quan trọng nhưng có xu hướng giảm dần, từ 42,3% năm 1996 xuống
còn 30% năm 2000. Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công
nghiệp và thủ công nghiệp tăng tương ứng từ 29% năm 1996 lên 34,3% năm 2000.
Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng từ 28,7% năm 1996
lên 35,7% năm 2000. Tuy nhiên, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn bất
hợp lý. Đó là do ở nước ta, xuất khẩu nguyên liệu thô vẫn là chủ yếu, chiếm tỷ
trọng trên 70% kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, ở Trung Quốc xuất khẩu
nguyên liệu thô chỉ chiếm 16,3% năm 1994.
Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, từ 13%
năm 1996 giảm xuống còn 5,2% năm 2000. Trong khi đó, tỷ trọng nhập khẩu tư
liệu sản xuất tăng từ 87% năm 1996 lên tới 94,8% năm 2000.
Thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng không ngừng được củng cố và
mở rộng thêm. Thị trường châu Á chiếm gần 58% tổng kim ngạch xuất khẩu và
trên 80% tổng kim ngạch nhập khẩu cuả Việt Nam, trong đó riêng các nước
ASEAN tương ứng chiếm trên 18% và 29%. Trên một số thị trường khác như EU,
Mỹ, Trung Đông, hàng xuất khẩu của Việt Nam cũng có mặt và kim ngạch xuất
khẩu đang tăng dần. Trong thời gian qua, Mỹ là một thị trường lớn của Việt Nam
nhưng do Việt Nam chưa được hưởng Tối huệ quốc nên thuế đánh vào hàng xuất
khẩu cao nên hàng hoá của nước ta rất khó cạnh tranh, Tuy nhiên kim ngạch xuất
khẩu của Việt nam vào thị trường Mỹ cũng vẫn không ngừng tăng lên.
BẢNG 2.3 : Tổng kim ngạch XNK của Việt Nam sang Mỹ giai đoạn 1995- 2001
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng kim ngạch

Triệu USD % so với
năm trước
Triệu USD % so với
năm trước
Triệu USD % so với
năm trước
1995 170 - 130 - 400 -
1996 201 20 246 89,2 450 12,5
1997 273 34 46 69,1 689 51
1998 469 71,8 326 -21,6 795 15,4
1999 504 7,5 335 2,8 839 5,5
2000 732 45,2 352 5,1 1084 48,1
2001 1000 36,6 370 5,1 1370 26,5
Nguồn: Thời báo kinh tế số ra ngày 30/11/2001
Từ bảng trên ta nhận thấy kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt nam với Hoa Kỳ
không ngừng tăng lên trong các năm từ 1995 đến 2001. Năm 1995, tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu là 400 triệu USD, sang năm 1996, tổng kim ngạch tăng lên 450
triệu USD, tăng 12,5% so với năm 1995, năm 1997 tăng 51% so với năm 1996,
năm 1998 tổng kim ngạch tăng 15,4% so với năm 1997. Và tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu sang Mỹ năm 2001 tăng 26,5% so với năm 2000. Tính bình quân trong
7 năm từ 1995 đến 2001, hàng hoá của Việt Nam xuất vào thị trường Mỹ mỗi năm
đạt 480 triệu USD và nhập khẩu từ Mỹ đạt 310 triệu USD. Nếu so sánh với tỷ lệ
tăng nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ thì tốc độ hàng hoá xuất khẩu của Việt
Nam sang Hoa Kỳ nhanh hơn.
Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Mỹ là: cà phê, chè, hạt
tiêu, hải sản, hạt điều, rau quả chế biến...Rau quả chế biến của Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ chủ yếu là dứa hộp : trong năm 1998, xuất khẩu dứa hộp đạt 2 triệu USD,
đứng thứ 8 trong số các nước xuất khẩu dứa hộp vào thị trường Mỹ.
Hiện nay, Việt Nam đang đứng thứ 76 về tổng kim ngạch buôn bán với Mỹ và
đứng thứ 71/229 nước xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, tỷ trọng

hàng hoá Việt Nam xuất sang Hoa Kỳ mới chiếm tỷ trọng khoảng 0,05% tổng giá
trị nhập khẩu của Hoa Kỳ.
Trong thời gian tới khi Hiệp định thương mại Việt Mỹ được thực thi thì Mỹ là
một thị trường tiềm năng của Việt Nam và cơ hội xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp Việt Nam sang Mỹ tăng đáng kể. Nếu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ chiếm tỷ trọng 2% tổng giá trị nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang Mỹ đạt gần 1,8 tỷ USD.
2.2.2 Triển vọng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tương lai
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực ngày 10/12/2001. Việc
HĐTM này được thực thi mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội xuất
nhập khẩu, nhất là xuất khẩu. Mỹ là nước có nền kinh tế mạnh nhất thế giới, quan
hệ thương mại phát triển mạnh mẽ. Mỹ còn là thị trường tiêu thụ hàng hoá khổng
lồ và tương đối dễ tính, không quá khắt khe khi thâm nhập như các thị trường Nhật
Bản và các nước châu Âu. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của Mỹ là
1500 tỷ USD trong đó kim nghạch nhập khẩu chiếm gần 920 tỷ USD, trong đó có
một số mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh là: dày dép, cao su, đồ gỗ, dệt may, hải
sản, rau quả, cà phê. Nếu hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chiếm tỷ
trọng 2% giá trị nhập khẩu của Mỹ thì kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ
đạt gần 1,8 tỷ USD.
Mức thuế của hàng hoá Việt Nam khi được hưởng Tối huệ quốc sẽ giảm bình
quân từ 35%-40% xuống còn trên dưới 5%, trong đó có một số mặt hàng mà mức
thuế giảm mạnh làm tăng lợi thế cạnh tranh của các mặt hàng đó. Những mặt hàng
này của Việt Nam nhờ giảm thuế mà có thể xuất khẩu được:
BẢNG 2. 4 : Mức thuế của hàng Việt Nam khi xuất khẩu vào Mỹ
Mức thuế (%)
TT Loại hàng hoá Không có tối huệ quốc Có tối huệ quốc
1. Gạo đã chế biến 23,6 5,8
2. Hạt có dầu 35,4 8,2
3. Hàng may mặc 68,9 3,4
4. Sản phẩm da 33 5,6

5. Sản phẩm hoá chất,cao su,nhựa 30,3 4,3
6. Sản phẩm khoáng chất 41,6 4,3
7. Thiết bị điện tử 34 2,8
8. Hàng dệt 55,1 10,3
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam số ra ngày 30/11/2001
Khi thâm nhập vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội là thuế
suất thấp và thị trường rộng lớn. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội thì tiềm ẩn
không ít những thách thức. Vì vậy, để có thể tiếp cận và không ngừng mở rộng thị
trường, để có thể xâm nhập vào thị trường Mỹ hoặc thị trường bất cứ quốc gia nào
thì điều cần thiết là Chính phủ có các giải pháp, định hướng kịp thời, đúng đắn và
bản thân các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải chủ động khai thác thị
trường và vận dụng khôn khéo các quy định ưu đãi cho các nước đang phát triển...
2.3 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TÀI TRỢ XNK TẠI SGDI - NHN
o
&PTNTVN
2.3.1 Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập
khẩu tại SGDI
2.3.1.1 Những thuận lợi
NHN
o
&PTNTVN đã có chương trình hành động trong những năm tới để thực
hiện Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX của Ban cán sự Đảng Ngân hàng Nhà
nước. Bên cạnh đó, thống đốc NHN
o
&PTNTVN cũng đã đề ra giải pháp để thực
hiện đúng nội dung, lộ trình của Đề án cơ cấu lại NHN
o
&PTNTVN 2001- 2010 đã
được Chính phủ phê duyệt. Thêm vào đó, hệ thống văn bản quy phạm về hoạt động
ngân hàng, hoạt động tín dụng và những văn bản liên quan của NHN

o
&PTNTVN
và của SGDI ngày càng đầy đủ, chặt chẽ hơn. Đây chính là hành lang pháp lý giúp
hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tạo tính chủ động cho Sở thực hiện cho vay khách
hàng có tín nhiệm và chưa tín nhiệm và cũng là định hướng cho hoạt động tín
dụng của SGDI.
Hoạt động trên dịa bàn thủ đô Hà Nội, Sở có khả năng lớn về huy động vốn và
tiếp xúc với các doanh nghiệp lớn kinh doanh xuất nhập khẩu. Đó là bởi vì 75%
các doanh nghiệp của Tổng công ty 90, Tổng công ty 91 đóng trụ sở tại Hà Nội,
nhiều doanh nghiệp ở Hà Nội có vị trí đầu mối, chi phối một vùng. Sở còn có thể
học hỏi thêm kinh nghiệm trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu từ các
ngân hàng thương mại lớn cùng địa bàn.
Hoạt động trên dịa bàn thủ đô Hà Nội, Sở còn nhận được sự chỉ đạo trực tiếp và
có tính tổng lực từ ngân hàng "mẹ" khi cần thiết.
SGDI còn có đội ngũ cán bộ điều hành và đội ngũ cán bộ chuyên môn có năng
lực, nhiệt tình, tâm huyết và còn trẻ. Đội ngũ cán bộ này thường xuyên được đào
tạo và trưởng thành dần trong kinh doanh sẽ là nền tảng cho sự phát triển hoạt
động kinh doanh của Sở.
Trong năm 2001, Sở tăng thêm nhiều nhân sự cho tổ thanh toán quốc tế và
phòng tín dụng, điều này giúp cho hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của Sở trong
thời gian tới phát triển mạnh mẽ hơn.
2.3.1.2 Những khó khăn
* Những khó khăn về môi trường pháp lý
Hầu hết các giao dịch thanh toán bằng phương pháp tín dụng chứng từ đều tuân
theo UCP nhưng UCP chỉ là thông lệ quốc tế và nếu UCP trái với luật quốc gia thì
phải tuân theo luật quốc gia. Hiện nay, do chưa có một văn bản pháp lý nào quy
định cụ thể các tranh chấp liên quan đến thanh toán bằng L/C hoặc phương pháp
thanh toán khác nên ngân hàng và các doanh nghiệp sẽ gặp rủi ro khi có tranh chấp
xảy ra.
Luật doanh nghiệp ra đời tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát

triển nhưng về góc độ nào đó thì doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay ngân hàng. Đó là bởi ngân hàng thường
không muốn đầu tư cho thành phần kinh tế ngoài quốc doanh khi không có tài sản
thế chấp.
* Những khó khăn về môi trường kinh doanh
Hà Nội là nơi hội tụ của nhiều tổ chức tín dụng. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có
26 SGD và chi nhánh thành viên của các NHTMQD. Hà Nội còn có mạng lưới của
NHTMCP với 5 SGD & 9 chi nhánh, ngân hàng nước ngoài với 3 chi nhánh & 2
chi nhánh phụ, ngân hàng liên doanh với SGD & 2 chi nhánh. Trong khi đó, SGDI
chỉ mới tham gia hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu từ năm 1998 nên các cán bộ còn
chưa có nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, hoạt động này của Sở gặp nhiều bất lợi so với
các ngân hàng thương mại khác như ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư,
các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Hà Nội... là những ngân hàng chuyên
doanh phục vụ xuất nhập khẩu lâu năm với bề dày kinh nghiệm và họ đã chiếm
lĩnh hầu hết khách hàng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Trên địa bàn Hà Nội hiện nay đang diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các
ngân hàng trong việc giành giật khách hàng là DNNN thành viên của các Tổng
công ty 90, Tổng công ty 91, các công ty cổ phần, các doanh nghiệp làm ăn có hiệu
quả và những khách hàng có nguồn USD. Trong cuộc cạnh tranh này, lợi thế thuộc
về ngân hàng nước ngoài, chi nhánh liên doanh và các NHTM trong nước có năng
lực tài chính cao, bình quân lãi suất đầu vào thấp, có công nghệ thanh toán hiện
đại.Thêm vào đó, trong lĩnh vực huy động tiền gửi và cho vay hiện nay đã có sự
cạnh tranh ngày càng gay gắt bằng công cụ lãi suất giữa các ngân hàng, thậm chí
giữa các chi nhánh theo xu hướng hạ thấp lãi suất, giải quyết nhanh gọn nhu cầu
của khách hàng lớn.
* Những khó khăn từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
Do thời gian mở cửa hội nhập chưa lâu nên các doanh nghiệp Việt Nam chưa có
nhiều kiến thức và kinh nghiệm trong làm ăn, kinh doanh với nước ngoài. Trong
khi đó, các đối tác nước ngoài lại là các chuyên gia có kinh nghiệm, đã kinh doanh
lâu trên thương trường quốc tế làm cho các doanh nghiệm Việt Nam không tránh

khỏi thiệt thòi khi làm ăn với họ. Thêm vào đó, sự hiểu biết về thông lệ, luật pháp
quốc tế, luật pháp của nước đối tác của các doanh nghiệp Việt Nam rất hạn chế nên
khi xảy ra rủi ro, tranh chấp thì doanh nghiệp Việt Nam thường là người chịu thiệt
mà ngân hàng là người hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nên ngân hàng cũng bị
ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.
Ngân hàng là người tư vấn cho các doanh nghiệp nhưng nhiều khi do trình độ có
hạn nên các doanh nghiệp không thực hiện theo lời tư vấn của ngân hàng dẫn đến
việc doanh nghiệp bị lừa hoặc chịu thiệt trong kinh doanh. Doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả cũng làm ảnh hưởng đến lợi nhuận và hoạt động của ngân hàng.
Bên cạnh những bất lợi do trình độ và kinh nghiệm có hạn của doanh nghiệp
mang lại, doanh nghiệp và ngân hàng còn gặp khó khăn do thực lực tài chính của
các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam còn quá yếu. Có rất nhiều
doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay ngân hàng nên nếu buôn bán với
nước ngoài bị thua lỗ thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và hiệu
quả kinh doanh của ngân hàng.
* Những khó khăn từ phía SGDI
Như đã phân tích ở trên, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Sở chỉ
mới bắt đầu từ năm 1998 nên các cán bộ làm công tác này còn chưa có nhiều kinh
nghiệm, phải vừa làm vừa học hỏi. Năng lực cán bộ tín dụng không đồng đều. Cán
bộ làm nghiệp vụ này phần lớn là mới, chưa qua lớp tập huấn chính thức nhưng do
số lượng công việc ngày một nhiều nên phải bắt tay ngay vào công việc. Mặt khác,
thời gian để truyền đạt kinh nghiệm và kiến thức của những cán bộ đi trước cho
những cán bộ mới là ít nên đôi khi còn sai sót trong nghiệp vụ.
Sở giao dịch I chưa tự cân đối được nguồn ngoại tệ giữa xuất và nhập. Thêm
vào đó, nguồn ngoại tệ Sở huy động được chủ yếu gửi Sở đầu mối để hưởng phí
nên Sở phải phụ thuộc vào cơ chế và phí điều hoà làm cho sự chủ động trong sử
dụng vốn chưa cao.
Khi thực hiện mở L/C nhập khẩu, việc quyết định mức ký quỹ là rất quan trọng
nhưng hiện nay, theo quyết định 447/NHN
o

ngày 7/6/2001 quy định về quy trình
và kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán quốc tế trong hệ thống NHN
o
chưa quy định cụ
thể mức ký quỹ tối đa và mức ký quỹ tối thiểu trong từng thời kỳ. Vì vậy, chưa có
mức ký quỹ thống nhất cho từng đối tượng khách hàng. Khi mức ký quỹ không
được đảm bảo chắc chắn thì nếu có rủi ro tỷ giá xảy ra, ngân hàng mở L/C (Sở I) sẽ
chịu thiệt thòi. Nếu Sở đã thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu (vì L/C phù hợp
bộ chứng từ) mà người nhập khẩu không thanh toán cho ngân hàng vì tỷ lệ ký quỹ
nhỏ hơn tỷ lệ trượt giá của nội tệ thì Sở I là người chịu rủi ro.
Bên cạnh đó, trang thiết bị của SGDI còn chưa hiện đại bằng một số ngân hàng
thương mại khác nên cũng làm giảm phần hấp dẫn khách hàng, đặc biệt là khách
hàng nước ngoài.
2.3.2 Nguồn vốn huy động tại SGDI
Nguồn vốn luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của một
ngân hàng. Để có nguồn vốn phục vụ tín dụng xuất nhập khẩu mà đặc biệt là
nguồn ngoại tệ, SGDI phải huy động vốn từ nhiều nguồn.
Tình hình huy động vốn của SGDI từ năm 1999 đến năm 2001 được thể hiện
qua bảng sau:
BẢNG 2.5 : Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch I năm 1999- 2001
Đơn vị: Triệu đồng, USD
Chỉ tiêu 1999 2000 2001
Doanh số Doanh số % so với
năm trước
Doanh số % so với
năm trước

×