Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.83 KB, 33 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU
TƯ.
I-/ ĐẦU TƯ VÀ DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
A-/ ĐẦU TƯ.
1-/ Khái niệm đầu tư.
Trong thời đại hiện nay thuật ngữ “Đầu tư” đang được sử dụng rộng rãi trong
mọi lĩnh vực về lý luận cũng như thực tiễn, song thuật nhữ này cũng có nhiều cách
hiểu và cách diễn đạt khác nhau.
Đầu tư là đem lại một khoản tiền của đã được tích luỹ để sử dụng vào một
việc nhất định nhằm thu lại các lợi ích có gái trị lớn hơn hay vì một mục đích sinh
lợi trong tương lai.
Đầu tư là những biện pháp cường độ hoá quá trình tái sản xuất thông qua việc
tạo ra những tài sản cố định mới mở rộng hay hiện đại hóa những tài sản hiện có
nhằm thay thế đổi mới hoặc nâng cao chất lượng, trình độ của các tài sản cố định
đã được sử dụng trong tất cả các khu vực của nền kinh tế.
Như vậy, khái niệm vốn đầu tư sẽ được hiểu là quá trình sử dụng vốn đầu tư
nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế nói chung và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng.
Vốn đầu tư là khoản tiền tích luỹ của xã hội từ các cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và số tiền có thể huy động được từ các nguồn
khác nhau như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài... được sử dụng cho
hoạt động đầu tư.
Với quan niệm như đã trình bày ở trên, vốn đầu tư được hiểu như là phương
tiện và có khả năng sinh lợi tại mọi thời điểm và mọi nơi. Quan niệm này cần được
coi là chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình thẩm dịch, phân tích, đánh giá dự án.
2-/ Vai trò của hoạt động đầu tư.
Ngày nay đầu tư càng chứng tỏ được sức mạnh của nó trong nền kinh tế quốc
dân. Đầu tư giữ một vị trí quan trọng:
+ Đầu tư là một hoạt động cơ bản thúc đẩy phát triển nền kinh tế nhằm thoa
mãn nhu cầu vật chất tinh thần cua nhân dân.
+ Đầu tư sẽ tạo ra và đổi mới cơ cấu kinh tế, hình thành nên các ngành sản


xuất mới, làm tiền đề cho việc chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội.
+ Đầu tư tạo ra hoặc đưa vò áp dụng công nghệ mới tăng năng suất lao động
và chất lượng sản phẩm cho nền kinh tế quốc dân.
+ Đầu tư nhằm phát trển sản xuất và phát triển các cơ sở phục vụ cho các nhu
cầu văn hoá,tinh thần, nâng cao chất lượng sống và tiến bộ xã hội.
3-/ Các đặc điểm cơ bản của hoạt động đầu tư.
Để làm rõ hơn nội dung của khái niệm đầu tưchúng ta đi sâu phân tích các đặc
điểm cơ bản của hoạt động này, làm rõ sự khác biệt của hoạt động đầu tư với các
hoạt động khác, đồng thời cũng thấy rõ yêu cầu và nội dung đối với công tác thẩm
định dự án.
Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn:Để thực hiện đầu tư trước hết cần có
vốn. Số vốn chi phí cho một công cuộc đầu tư khá lớn và được hiểu như là các
nguồn sinh lợi. Vì vậy, các quyết định đầu tư thường được xem xét từ phương diện
tài chính (số vốn bỏ ra là bao nhiêu...). Trên thực tế hoat động đầu tư, các quyết
định chi tiêu thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách (Nhà nước, địa
phương, cá nhân) và luôn được xem xét từ những khía cạnh tài chính nêu trên.
Nhiều dự án có thể khả thi ở các phương diện khác (kinh tế, xã hội) nhưng không
khả thi về phương diện tài chính và vì thế cũng không thể thực hiện trên thực tế.
Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài: Thời gian kể từ khi bắt đầu
một hoạt động đầu tư, cho đến khi các thành quả của công cuộc đầu tư đó phát huy
tác dụng và đem lại lợi ích kinh tế xã hội phải kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc
điểm có ảnh hưởng rất cơ bản đến hoạt động đầu tư. Do tính lâu dài nên với mọi sự
túc liệu đều là dự tính chịu một xác suất biến đổi nhất đinịh do nhiều nhân tố.
Chính điều này là một trong những vấn đề cần phải tính đến trong nội dung phân
tích, đánh giá của quá trình thẩm định dự án.
Hoạt động đầu tư là hoạt động luôn có sự cân nhắc giữa lợi ích trước mắt và
lợi trong tương lai: đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy sinh lợi ích hiện tại
để đánh đổi lấy lợi ích tương lai. Nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận đầu tư trong
điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện nay họ tạm thời phải
hi sinh (không tiêu dùng hoặc không đầu tư vào nơi khác). Vì vậy luôn có sự so

sánh, cân nhắc giữa lợi ích hiện tại và lợi ích tương lai. Hoạt động đầu tư là hoạt
động mang nặng rủi ro. Từ các đặc điểm trên đã cho thấy hoạt động đầu tư là hoạt
động chứa đựng nhiều rủi ro, bất trắc. Bản chất của sự đánh đổi lợi ích và thời gian
thực hiện dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những thay đổi có thể xảy ra
trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Nhận thức được điều này, nhà đầu
tư cũng có những cách thức, biện pháp ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng xảy ra
rủi là ít nhất.
Những đặc điểm này đặt ra cho người phân tích đánh giá đầu tư chẳng những
quan tâm về mặt nội dung xem xét mà còn tìm các phương pháp, cách thức đo
lường, đánh giá để có những kết luận giúp cho việc lựa chọn và ra quyết định đầu
tư một cách có căn cứ.
Như vậy để đảm bảo cho mọi hoạt động đầu tư là khả thi, đạt mục tiêu mong
và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội thì trước khi bỏ vốn cần phải có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng bằng việc nghiên cứu, soạn thảo dự án đầu tư.
B-/ DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
1-/ Khái niệm về dự án đầu tư.
Mỗi hoạt động đầu tư được tiến hành với rất nhiều công việc có những đặc
điểm kinh tế đa dạng. Nguồn lực cần huy động thường rất lớn. Thời gian thực hiện
và kết thúc đầu tư, nhất là việc thu hồi đầu tư vốn đã bỏ ra, hoặc đem lại những lợi
ích cho xã hội, là một quá trình có thời gian dài. Vì vậy cần phải đầu tư theo dự án.
Có thể xem xét dự án đầu tư dưới nhiều góc độ khác nhau:
Về mặt hình thức: Dự án đầu tư là một tập hồ sơ, tài liệu trình bày một cách
chi tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những
kết quả và thực hiện những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trên góc độ quản lý: Dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử vốn, vật
tư, lao động để tạo ra các kết quả kinh tế tài chính trong một thời gian dài.
Trên góc độ kế hoạch hóa: dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch
chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế xã hội, làm
tiền đề cho các quyết định đầu tư vào túi họ. Nó là một hoạt động kinh tế riêng
biệt, là khâu đầu tiên trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.

Về mặt nội dung: dự án đầu tư là một hợp các hoạt động có liện quan đến
nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt được các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các
kết quả cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực
xác định.
Như vậy dự án đầu tư là một tập hợp những đề xuất về việc bỏ vốn để tạo
mới, mở rộng hoặc cải tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt được sự tăng
trưởng về số lượng, cải tiến hoặc nâng cao chát lượng của sản phẩm hay dịch vụ
nào đó trong một khoảng thời gian xác định.
2-/ Nội dung dự án đầu tư:
* Mục tiêu của dự án: Đó là những lợi ích kinh tế - xã hội do thực hiện dự
án mang lại hoặc là các mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án.
Mục tiêu trực tiếp phải được lượng hóa bằng con số cụ thể và không được đối lập
với mục tiêu phát triển.
* Các kết quả của dự án: Đó là những kết quả cụ thể, có định hướng, dược
tạo ra từ những hoạt động khác nhau của dự án. Thực hiện được các kết quả sẽ
gopa phần thực hiện được các mục tiêu trực tiếp của dự án.
* Các hoạt động của dự án:
Mục tiêu phát triển Các nguồn lực Các hoạt động Các kết quả Mục tiêu trước mắt
Đó là những nhiệm vụ hoặc hành động (các giải pháp kinh tế, kỹ thuật cụ thể)
được thực hiện trong dự án để tạo ra những kết quả nhất định. Những nhiệm vụ
hoặc hành động này cùng với một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận
thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
* Các nguồn lực của dự án (biểu hiện cụ thể của vốn đầu tư): Đó là cac
nguồn về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của
dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cần thiết cho
dự án.
Mối quan hệ giữa các thành phần của dự án được thể hiện theo sơ đồ sau:

Trên thực tế, để đánh giá tính khả thi của dự án người ta thường xem xét trên
một số phương diện chủ yếu sau. Các điều kiện pháp lý, các yếu tố công nghệ, kỹ

thuật, các yếu tố kinh tế, tài chính, các yếu tố tổ chưc, thực hiện.
Nội dung của dự án đầu tư dược nêu trong thông tư số 09 BKH/VPTĐ ngày
21/9/1999 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin tóm tắt như sau:
- Chủ đầu tư:
+ Chức vụ.
+ Số điện thoại và địa chỉ liên lạc.
- Những căn cứ (xuất xứ và căn cứ pháp lý, nguồn gốc tài liệu sử dụng, phân
tích các kết quả điều tra cơ bản và tự nhiên, tài nguyên kinh tế - xã hội, quy hoạch
phát triển,...).
- Lựa chọn hình thức đầu tư, công suất (đầu tư sâu, mở tông, đầu tư mới,...).
- Chương trình sản xuất và các yêu cầu đáp ứng (nhu cầu đầu vào cho dự án
và các giải pháp đảm bảo).
- Các phương án về khu vực địa điểm cụ thể (hoặc tuyến công trình).
- Phần công nghệ kỹ thuật của dự án: cần xác định rõ công nghệ phù hợp với
dự án nguồn cung cấp công nghệ và giá thành toàn bộ công nghệ).
Đánh giá tác động của môi trường và giải pháp xử lý (phù hợp với yêu cầu
của Luật môi trường và Thông tư hướng dẫn của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường).
- Phần xây dựng và tổ chức thi công xây lắp.
- Tổ chức quản lý sản xuất và bố trí lao động.
- Phân tích tài chính, kinh tế- xã hội của sự án.
- Tài chính (xác định tổng vốn đầu tư, các biểu tính toán vốn đầu tư.
- Phân tích kinh tế- xã hội (giá trị sản phẩm và dịch vụ gia tăng, việc làm và
thu nhập cho người lao động gia tăng, đóng góp ngân sách, các lợi ích về mặt xã
hội...)
- Tổ chức thực hiện- kết luận- kiến nghị các chính sách và chế độ ưu đãi.
Quá trình nghiên cứu, soạn thảo một dự án đầu tư được thực hiện theo từng
giai đoạn rất cẩn thận nhưng vẫn không thể tránh khỏi những sai sót. Do đó, chúng
ta cần phải có một qui tính thẩm định các dự án nhằm phát hiện và sửa chữa những
sai sót, đồng thời bổ xung các biện pháp để đảm bảo tính khả thi cao cho việc thực

hiện dự án.
II-/ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
1-/ Quản lý đầu tư.
1.1-/ Tình hình quản lý đầu tư ở nước ta hiện nay.
Trải qua hơn 10 năm đổi mới, từ nền kinh tế tự cung tự cấp sang nền kinh tế
thị trường với sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
thời gian qua qui mô và tốc độ đầu tư đã tăng lên nhanh chóng, công tác quản lý
đầu tư trở thành một nhiệm vụ quan trọng của nhà nước. Để hoạt động đầu tư đạt
được hiệu quả cao thì nhà nước cần phải quản lý chặt chẽ tất cả các khâu trong
quá trình đầu tư.
Vì vậy kiên tục trong một thời gian ngắn (1993 - 1999) Chính phủ đã ban
hành nhiều văn bản quan trọng trong lĩnh vực quản lý hoạt động đầu tư và xây
dựng cũng như sửa đổi thay thế các văn bản này cho phù hợp với tình hình thực tế:
Nghị định 385- HĐBT ngày 7/11/1993 của HĐBT nay là Chính phủ. Nghị định
177/CP ngày 20/11/1997 của Chính phủ...
Văn bản gần đây nhất là nghị định số 42CP. Ngày 16/7/1999 về việc ban hành
Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng và Nghị định số 92/CP ngày 23/8/2000, qui
định về một số sửa đổi và bổ xung. Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành
theo Nghị định 42 CP.
Sự ra đời các văn bản pháp lý này đã xác định rõ những yêu cầu và nguyên
tắc quản lý đầu tư; thẩm quyền quyết định đầu tư, cho phép đầu tư và cấp giấy
phép đầu tư. Đồng thời tạo lập một môi trường pháp lý ổn định, đáp ứng được
những yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý đầu tư và thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Như vậy, quản lý đầu tư nhằm đáp ứng những yêu cầu cơ bản là đảm bảo cho
hoạt động đầu tư được thực hiện theo đúng mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế
xã hội trong từng thời kỳ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, theo hướng công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng
cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Mặt khác quản lý đầu tư cũng góp
phần to lớn vào việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư trong
nước cũng như của nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, khai thác tốt mọi tiềm năng

của đất nước (lao động, tài nguyên...) bảo vệ môi trường sinh thái và chống mọi
hành vi tham ô, lãng phí trong hoạt động đầu tư.
Hiện nay, nước ta đang thực hiện quản lý đầu tư theo nghuyên tắc nhà nước
thống nhất quản lý đầu tư đối với tất cả các thành phần kinh tế về mục tiêu chiến
lược kinh tế xã hội, qui hoạch và kế hoạch phát triển của ngành , vùng lãnh thổ, lựa
chọn công nghệ, bảo vệ môi trường sinh thái và các khía cạnh khác của dự án. Đối
với các dự án đầu tư có sử dụng vốn ngân sách nhà nước còn quản lý về các mặt
thương mại, tài chính và hiệu quả kinh tế xã hội của dự án.
Những cơ quan có trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư ở nước ta hiện nay
gồm có: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nươc Việt Nam
cùng các Bộ quản lý ngành khác có liên quanvà Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung Ương. Theo qui định nêu tại nghị định số 42/CP . Thẩm quyền
quyết định đầu tư và cấp giấy phép đầu tư cũng được tuân theo nghị định này và
phân loại theo nguồn vốn và nhóm dự án.
1.2-/ Quản lý giai đoạn chuẩn bị đầu tư.
Quản lý giai đoạn chuẩn bị đầu tư được coi là khâu then chốt trong việc quản
lý đầu tư, trong đó có việc lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư. Thẩm định dự
án được tiến hành trong các giai đoạn hình thành dự án, nó được xem như một yêu
cầu không thể thiếu và là cơ sở để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết
định đầu tư.
- Công tác lập và trình duyệt dự án: được qui dịnh theo nghị định 42/CP, ngày
16 tháng 7 năm 1999 của chính phủ. Nghị định này qui định:
+Chủ đầu tư có trách nhiệm lập nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi
để trình trực tiếp người có thẩm quyền quyết định đầu tư xét duyệt.
+ Trong nghiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi, chủ đầu tư có quyền
yêu cầu các cơ quan hữu quan của nhà nước chỉ dẫn các vấn đề liên quan đến dự
án.
- Công tác thẩm định dự án.
Tuỳ theo mục tiêu của từng dự án mà có phương pháp thẩm định cụ thể:
+ Đối các dự án nhằm thu lợi nhuận, công tác thẩm định kiểm tra sinh lời về

mặt tài chính của dự án.
- Đối với các dự án nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thì công
tác thẩm định tiến hành đánh giá những tác động cụ thể của dự án đến chương
trình, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Theo qui định của nhà nước tất cả các dự án thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành
phần kinh tế đều phải thẩm định để có quyết định đầu tư đúng đắn.
- Phê duyệt quyết định đầu tư.
Sau khi có báo cáo quyết định thẩm định, các cấp có thẩm quyền qui định tại
văn bản nói trên xem xét ra quyết định đầu tư.
2-/ Công tác thẩm định dự án đầu tư.
2.1-/ Khái niệm thẩm định dự án:
Hoạt động đầu tư đã đóng một vai trò không nhỏ vào việc xây dựng và phát
triển ổn định kinh tế xã hội. Để phát huy được mặt tích cực của các dự án đầu tư và
hạn chế được những mặt tiêu cực của nó thì khi chấp thuận việc thực hiện một dự
án, người ta thường phân tích, đánh giá, xem xét dự án về các mặt tài chính, kinh tế
xã hội... Để có được một quyết định đúng đắn khi đưa dự án vào thực hiện. Những
hoạt động xem xét, đánh giá dự án nhằm những mục tiêu nói trên được gọi là
“thẩm định dự án”.
Vậy: thẩm định đầu tư là việc tổ chức xem xét một cách khách quan, có khoa
học toàn diện các nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp tới tính khả thi của một dự
án. Từ đó ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Đây là một quá trình kiểm tra, đánh giá các nội dung của dự án một cách độc
lập tách biệt với quá trình soạn thảo dự án. Thẩm định dự án đã tạo ra cơ sở vững
chắc cho hoạt động đầu tư có hiệu quả. Các kết luận rút ra từ quá trình thẩm định là
cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước ra quyết định đầu tư và cho
phép đầu tư.
2.2-/ Sự cần thiết phải thẩm định đầu tư.
Thẩm định dự án nhằm làm sáng tỏ và phân tích một loạt các vấn đề có liên
quan tới tính khả thi trong quá trình thực hiện dự án: thị trường, công nghệ, kỹ
thuật, khả năng tài chính của dự án để đứng vững trong suốt đời hoạt động về quản

lý thực hiện dự án, phần đóng góp kinh tế của dự án vào sự tăng trưởng của nền
kinh tế ...
Đồng thời thẩm định dự án đầu tư là cần thiết bắt nguồn từ vai trò quản lý vĩ
mô của nhà nước đối với các hoạt động đầu tư. Nhà nước với chức năng công
quyền của mình sẽ can thiệp vào quá trình lựa chọn các dự án đầu tư. Tất cả các dự
án đầu tư thuộc mọi nguồn vốn, mọi thành phần kinh tế đều phải đóng góp vào lợi
ích chung của đấtt nước. Bởi vậy, trươc khi ra quyết định đầu tư, các cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước cần biết xem dự án có góp phần đạt được mục tiêu của
quốc gia hay không?
Sở dĩ cần phải qua các khâu trong thẩm định dự án vì trên thực tế cho thấy
rằng: Một dự án đầu tư dù được tiến hành soạn thảo kỹ lưỡng đến đâu cũng vẫn
mang tính chủ quan của người soạn thảo. Người soạn thảo thường đứng trên góc
độ hẹp để hìn nhận các vấn đề của dự án. Còn các nhà thẩm định thường có cách
nhìn rộng hơn trong việc đánh giá dự án. Họ xuất phát từ lợi ích chung của toàn xã
hội, của cả cộng đồng để xem xét các lợi ích kinh tế xã hội mà dự án đem lại.
Mặt khác, khi soạn thảo dự án có thể có những sai sót, các ý kiến có thể mâu
thuẫn nhau, không lôgic, thậm chí có thể có nhữg câu văn, những chứ dùng sơ hở
gây ra tanh cãi hoặc tranh chấp giữa các đối tác tham gia đầu tư. Công tác thẩm
định dự án sẽ phát hện và sửa chữa được những sai sót đó.
Như vậy, thẩm định dự án là cần thiết, nó là một bộ phận không thể thiếu của
công tác quản lý nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư có hiệu quả.
2.3-/ Vai trò của công tác thẩm định dự án.
Công tác thẩm định dự án có một vai trò quan trọng trong quá trình đầu tư
theo dự án. Nó đem lại ý nghĩa to lớn đối với chủ đầu tư, đối với nhà nước và cả
đối với các nhà tài trợ.
Đối với chủ đầu tư thì việc thẩm định dự án như là một quá trình kiểm tra,
đánh giá lại toàn bộ các phương diện của dự án dưới một cái nhìn và quan điểm
khách quan hơn. Dưới cách nhìn này, một dự án đầu tư sẽ bị loại bỏ nếu nó không
thực sự đem lại lợi ích cho chủ đầu tư và giúp cho chủ đầu tư lựa chọn được
phương án đầu tư tốt nhất.

Đối với nhà nước thì việc thẩm định dự án sẽ xác định được phần lợi ích mà
dự án đóng góp cho xã hội và phần chi phí mà xã hội phải bỏ ra để xem xét khả
năng sinh lợi của dự án trên phương diện toàn xã hội. Từ đó loại bỏ những dự án
không có hiệu quả về mặt kinh tế xã hội hay đạt hiệu quả thấp.
Còn đối với các nhà tài trợ thì việc thẩm định dự án mang lại cho họ những
thông tin về tính khả thi của dự án và các mặt của dự án mà họ quan tâm. Để từ đó
có quyết định chính xác có nên tài trợ hay không.
Như vậy thẩm định dự án nhằm tránh thực hiện đầu tư các dự án không có
hiệu quả, mặt khác cũng không bỏ mất các cơ hội đầu tư có lợi.
2.4-/ Nhiệm vụ và yêu cầu của công tác thẩm định dự án.
a. Nhiệm vụ:
+ Xem xét, phân tích, đánh giá dự án.
+ Lựa chọn kiến nghị phương án và điều kiện thực hiện.
b. Yêu cầu:
Thẩm định dự án được tiến hành đối với tất cả các dự án thuộc mọi nguồn
vốn, thuộc các thành phần kinh tế (bao gồm các dự án đầu tư thuộc nguồn vốn nhà
nước như: vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi... Và các dự án đầu tư không sử
dụng vốn nhà nước). Tuy nhiên, yêu cầu của công tác thẩm định với các dự án này
cũng khác nhau. Theo nghị định 42CP ngày 16-7-1999 của thủ tướng chính phủ,
tất cả cá dự án đầu tư có xây dựng thuộc mọi thành phần kinh tế đều phải thẩm
định về qui hoạch xây dựng, các phương án kiến trúc, công nghệ, sử dụng đất đai,
tài nguyên, bảo vệ mội trường sinh thái phòng chống cháy nổ và các khía cạnh
khác của dự án. Đối với các dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước còn được thẩm
định về phương diện tài chính và hiệu quả kinh tế của dự án. Đối với các dự án đầu
tư sử dụng vốn ODA phải phù hợp với qui định của nhà nước và thông lệ quốc tế.
2.5-/ Các bước thẩm định dự án đầu tư.
Giai đoạn thẩm định dự án bao gồm một loạt khâu thẩm định và quyết định,
đưa đến kết quả là chấp thuận hay bác bỏ dự án. Xét trên cơ sở lôgic, toàn bộ qui
trình này sẽ được chia làm các bước sau đây.
Các bước và yêu cầu cụ thể thẩm định trong quá trình ra quyết định đầu tư.

a. Thẩm định kết quả nghiên cứu tiền khả thi (NCTKT).
Nghiên cứu khả thi là đi vào nghiên cứu một cách sâu hơn chi tiết hơn các
khía cạnh của cơ hội đầu tư đã lựa chọn nhằm khẳng định lại cơ hội đầu tư đã lựa
chọn có tính khả thi hay không. Việc thẩm định kết quả NCTKT là bước thẩm định
để phê duyệt NCTKT và ra quyết định triển khai NC khả thi. Tuỳ theo từng dự án
cụ thể mà có tổ chức công tác thẩm định thích hợp. Đối với dự án lớn phức tạp
(các dự án có vốn đầu tư lớn, có liên quan đến nhiều ngành, có vị trí quan trọng
trong nền kinh tế, bảo vệ an ninh, quốc phòng...) cần phải tiến hành thẩm định toàn
diện, kỹ lưỡng trước khi tiến hành triển khai tiếp bước NCKT.
Đối với các dự án thông thường, bước này đượ xem xét trên một số mặt cơ
bản về chủ trương và các thông số chính của dự án. Nếu theo các vấn đề này cho
thấy các dáu hiệu khả quan thì có thể thông qua để triển khai bước tiếp theo.
Yêu cầu đối với thẩm định báo cáo NCTKT.
Thẩm định báo cáo NCTKT là nỗ lực đầu tiên nhằm đánh giá triển vọng
chung của dự án. Để thực hiện giai đoạn này, điều quan trọng là phải nhận thức
được rằngmục đích của việc NCTKT này là để có được những ước tính phản ánh
giá trị của cá biến số mà chúng sẽ cho thấy trước dự án có đủ hấp dẫn hay đủ tin
cậy không, trên cơ sở đó, hoặc đình chỉ công việc hoặc tiến hành nghiên cứu chi
tiết hơn.
Trong quá trình thẩm định, đặc biệt trong giai đoạn NCTKT, các tính toán
được thực hiện trên cơ sở trị số trung bình của các biến số mà chúng chỉ được biết
với mức độ không chắc chắn lắm. Vì vậy, trong phân tích tiền khả thi, để tránh
việc chấp thuận những dự án dựa trên những ước tính lạc quan về chi phí và lợi
ích, chúng ta nên sử dụng những ước tính chênh lệch về hướng làm giảm bớt lợi
ích của dự án trong khi làm tăng cao mức ước tính về chi phí. Nếu dự án vẫn hấp
dẫn sau khi đã tiến hành thẩm định như vậy, thì có rất nhiều khả năng dự án sẽ
đứng vững khi được thẩm định kỹ hơn, chính xác hơn trong giai đoạn NCKT.
Trong khi tiến hành NCTKT, có thể phải sử dụng nghiên cứu chuyên đề nếu
thấy cần thiết. Nghiên cứu chuyên đề bao gồm việc phân tích các tài liệu nghiên
cứu đã có trước đây về các vấn đề đang nghiên cứu, thu nhập thêm các thông tin có

liên quan đến công việc thẩm định dự án. Phần lớn các vấn đề kỹ thuật và thị
trường đều xảy ra với các chủ đầu tư khác và đã được giải quyết do đó, chúng ta có
thể thu nhập được nhiều loại thông tin một cách nhanh chóng và ít tốn kém nếu
như các nguồn thông tin hiện có được sử dụng một cách hiệu quả nhất.
b. Đối với thẩm định báo cáo NCKT.
Sau khi đã hoàn tất xong các khâu phân tích trong giai đoạn nghiên cứu tiền
khả thi, chúng ta nghiên cứu dự án để xem xét xem liệu có triển vọng đáp ứng
được các tiêu chuẩn về tài chính, kinh tế xã hội cho các khoản đầu tư hay không.
Giai doạn NCKT của dự án là nhằm tăng cường mức độ chính xác của việc tính
toán các yếu tố chủ yếu. Nếu như dự án cho thấy nó có triển vọng thành công,
chúng ta càng cần phân tích độ nhậy của dự án đối với các biến số chủ yếu có vai
trò quyết định kết quả dự án để xác định mức độ chắc chắn của dự án.
Chính vào cuối giai đoạn này là lúc mà quyết định quan trọng nhất phải được
xác định, đó là có nên chấp thuận dự án không. Thẩm định cần phải chỉ ra rằng đó
là một dự án khả thi hay không khả thi.
2.6-/ Phương pháp thẩm định dự án đầu tư.

×