Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

BÀI THU HOẠCH CUỐI KHÓA LỚP BỒI DƯỠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC CHUẨN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166 KB, 22 trang )

BÀI THU HOẠCH CUỐI KHOÁ
LỚP BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ CÁN BỘ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Đề bài: Anh Chị hãy vận dụng kiến thức về khoa học Quản lý giáo dục đã
có để phân tích câu nhận định của Peter Drucker trong thực tiễn quản lý, lãnh
đạo cơ sở giáo dục đang công tác:
“Management is doing things right; leadership is doing the right things”.
Từ đó, rút ra bài học quản lý giáo dục.
Bài làm
Nguồn gốc phát triển loài người là lao động của cá nhân và lao động
chung. C. Mác đã khẳng định: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng cần đến
một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức
năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất... Một người
độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng”. Lao động chung cần có tổ chức và thống nhất nhằm tạo ra sức
mạnh để đạt được mục đích chung. Trong lịch sử phát triển loài người xuất hiện
một dạng lao động mang tính đặc thù là tổ chức - điều khiển con người với các
hoạt động theo những yêu cầu nhất định; dạng lao động đó được gọi là quản lý.
Quản lý là một chức năng lao động bắt nguồn từ tính chất lao động của xã hội.
Từ khi con người bắt đầu hình thành các nhóm để thực hiện những mục tiêu mà
họ không thể đạt được với tư cách là những cá nhân riêng lẻ, thì nhu cầu quản lý
cũng hình thành như một yếu tố cần thiết để phối hợp những nỗ lực cá nhân
hướng tới những mục tiêu chung. Xã hội phát triển qua các phương thức sản
xuất từ cộng sản nguyên thủy đến nền văn minh hiện đại, trong đó quản lý luôn
là một thuộc tính tất yếu lịch sử khách quan gắn liền với xã hội ở mọi giai đoạn
phát triển của nó. Thuộc tính đó bắt nguồn từ bản chất của hệ thống xã hội đó là
hoạt động lao động tập thể - lao động xã hội của con người. Trong quá trình lao
động con người buộc phải liên kết lại với nhau, kết hợp lại thành tập thể. Điều
đó đòi hỏi phải có sự tổ chức, phải có sự phân công và hợp tác trong lao động,
phải có sự quản lý. Như vậy, quản lý là một hoạt động xã hội bắt nguồn từ tính
chất cộng đồng dựa trên sự phân công và hợp tác để làm một công việc nhằm


đạt được mục tiêu chung đề ra. Mặc dù quản lý là một thuộc tính tất yếu gắn liền
với xã hội nhưng chỉ khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định thì quản lý
mới được tách ra thành một 2 chức năng riêng của lao động xã hội; dần dần hình
1


thành những tập thể, những tổ chức và cơ quan chuyên hoạt động quản lý - hệ
thống quản lý (chủ thể quản lý). Xã hội càng phát triển về trình độ và quy mô
sản xuất, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật công nghệ, thì trình độ quản lý, tổ chức,
điều hành và công nghệ quản lý cũng càng được nâng lên và phát triển không
ngừng. Quản lý là một trong những hoạt động vừa khó khăn, phức tạp; vừa là
một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển xã hội, suy
thoái hay thịnh vượng của một tổ chức, một quốc gia, thậm chí là toàn cầu. Sự
phát triển xã hội dựa vào nhiều yếu tố: sức lao động, tri thức, nguồn vốn, tài
nguyên, năng lực quản lý. Trong đó năng lực quản lý được xếp hàng đầu. Năng
lực quản lý là sự tổ chức, điều hành, kết hợp tri thức với việc sử dụng sức lao
động, nguồn vốn và tài nguyên để phát triển xã hội. Quản lý tốt thì xã hội phát
triển, ngược lại nếu buông lỏng hay quản lý tồi thì sẽ mở đường cho sự rối loạn,
kìm hãm sự phát triển xã hội. Vậy quản lý là gì?
Có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, ví dụ:
- Mary Parker Follet: "Quản lý là nghệ thuật khiến cho công việc được
thực hiện thông qua người khác".
- Robert Albanese: "Quản lý là một quá trình kỹ thuật và xã hội nhằm sử
dụng các nguồn, tác động tới hoạt động của con người và tạo điều kiện thay đổi
để đạt được mục tiêu của tổ chức".
- Harolk Kootz & Cyryl O'Donell: "Quản lý là việc thiết lập và duy trì
môi trường nơi mà cá nhân làm việc với nhau trong từng nhóm có thể hoạt động
hữu hiệu và có kết quả, nhằm đạt được các mục tiêu của nhóm"
- Robert Kreitner: "Quản lý là tiến trình làm việc với và thông qua người
khác để đạt các mục tiêu của tổ chức trong một môi trường thay đổi. Trong tâm

của tiến trình này là kết quả và hiệu quả của việc của việc sử dụng các nguồn lực
giới hạn".
- Harol Koontz: "Quản lý là một nghệ thuật nhằm đạt được mục tiêu đã đề
ra thông qua việc điều khiển, chỉ huy, phối hợp, hướng dẫn hoạt động của những
người khác" (Những vấn đề cốt yếu của quản lý. NXB khoa học - Kỹ thuật,
1993).
- Nguyễn Minh Đạo: "Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển, hướng
dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt tới mục
tiêu đã đề ra" (Cơ sở khoa học quản lý, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997).
2


- "Quản lý là việc đạt tới mục đích của tổ chức một cách có kết quả và
hiệu quả thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra các
nguồn lực của tổ chức" (Khoa học quản lý, tập I, Trường ĐH KTQD, Hà Nội
2001).
Từ những quan niệm này cho thấy, quản lý là một hoạt động liên tục và
cần thiết khi con người kết hợp với nhau trong tổ chức. Đó là quá trình tạo nên
sức mạnh gắn liền các hoạt động của các cá nhân với nhau trong một tổ chức
nhằm đạt được mục tiêu chung.
1. Khái niệm lãnh đạo
a. Một số quan niệm khác nhau về lãnh đạo
- Có nhiều quan niệm khác nhau về lãnh đạo. Tùy theo góc độ tiếp cận
khác nhau mà các tác giả đưa ra những quan niệm của riêng mình:
+ Hemphill: lãnh đạo là hành vi chỉ đạo các hoạt động của nhóm để đạt
mục tiêu.
+ J. Tarda: Lãnh đạo là dạng hoạt động đặc biệt của quan hệ quyền lực, trong
đó một thành viên của nhóm có quyền yêu cầu, đòi hỏi các thành viên khác thực
hiện nhiệm vụ chung.
+ George Tery: Lãnh đạo là hoạt động gây ảnh hưởng đến con người để

họ phấn đấu tự nguyện cho các mục tiêu của tổ chức.
+ H. Koontz và các tác giả: Lãnh đạo là quá trình tác động đến con người
sao cho họ cố gắng một cách tự giác và hăng hái thực hiện mục tiêu chung của
tổ chức.
+ TheoTừ điển tiếng Việt: Lãnh đạo là chỉ ra đường lối, chủ trương và tổ
chức, động viên thực hiện
+ Tác giả Nguyễn Bá Dương: Lãnh đạo là sự định hướng bằng cách vạch
ra những đường lối, chủ trương, chính sách lớn.
Mỗi quan niệm đều có cơ sở và theo những góc độ nhất định nhưng chưa
đầy đủ. Chúng mới chỉ phản ánh được một mặt của khái niệm lãnh đạo.
- Thực chất mọi sự khác biệt trong khái niệm lãnh đạo chủ yếu là trong
quan hệ với khái niệm quản lý. Thực tế, việc phân định rạch ròi ranh giới giữa
lãnh đạo và quản lí là rất khó khăn. Hiện nay ở Việt Nam, khi giải đáp mối quan
hệ giữa quản lý và lãnh đạo đã hình thành 3 nhóm quan điểm:
+ Quan điểm 1: lãnh đạo và quản lý là đồng nhất, không phân biệt
+ Quan điểm 2: lãnh đạo và quản lý là khác nhau hoàn toàn
3


+ Quan điểm 3: lãnh đạo và quản lý vừa đồng nhất vừa khác biệt
Trong đó, quan niệm thứ 3 hợp lý hơn cả.
b. Sự giống và khác nhau giữa lãnh đạo và quản lý được thể hiện ở các
phương diện cụ thể như:
QUẢN LÝ
Yêu cầu những người khác phải hoàn
thành nhiệm vụ
Điều hành hoạt động của tổ chức theo
điều lệ, nội quy, quy định.v.v
Là vị trí cụ thể được đặt ra để điều
hành

Làm các việc cho đúng
Là người sáng tạo lần thứ 2
Quan tâm đến hiệu lực và kết quả
công việc
Quản lý và duy trì hoạt động bình thường

LÃNH ĐẠO
Truyền cảm hứng cho nhân viên thông
qua các ý tưởng mới
Hoạt động vựơt ra khỏi phạm vi các
quy định để tìm kiếm sự thay đổi phù
hợp
Là vị trí xuất phát từ y tưởng, sáng kiến
đòi hỏi phải có tình cảm, sẵn sàng phục
vụ cho mọi người
Làm cho đúng công việc
Là người sáng tạo thứ nhất
Quan tâm đến hiệu quả công việc
Sáng tạo các y tưởng mới để phát triển

của tổ chức
Tập trung chỉ đạo hệ thống và tổ chức Tập trung vào con người và nhân viên
thực hiện công việc
cụ thể
Tin cậy vào sự kiểm soát và kiểm tra Tin cậy vào tín nhiệm, niềm tin, và hy
vọng
Tập trung vào những công việc mang tính Tập trung vào công việc mang tính triết
chiến thuật
lý, giá trị cơ bản
Quan tâm đến kế hoạch ngắn hạn và

Tầm nhìn lâu dài cho tương lai
trước mắt
Thường làm các việc liên quan đến
Phải thường xuyên hỏi và tự trả lời câu
việc trả lời các câu hỏi: When? How? hỏi What? Why?
Chấp nhận và tuân theo các điều luật Tìm cách thay đổi điều luật, điều lệ,
chính sách
Tập trung vào các vấn đề hiện tại,
Tập trung cho các vấn đề của tương lai
ngắn hạn
Lập kế hoạch chi tiết và tiến độ thực
Phát triển tầm nhìn và xây dung chiến
hiện
lược
Dự báo kết quả và ra quyết định
Tìm kiếm sự thay đổi
Tránh rủi ro và mạo hiểm
Chấp nhận rủi ro và mạo hiểm
4


Động viên con người trên cơ sở tuân
thủ cácquy định mang tính chuẩn mực
(lương)
Sử dụng quyền lực và quan hệ cấp
trên cấp dưới

Khuyến khích nhân viên thay đổi và
sáng tạo
Sử dụng thuyết phục, quan hệ ảnh

hưởng giữa người với người.

Như vậy, giữa lãnh đạo và quản lý là không tách rời nhau mà chúng có
quan hệ với nhau. Khái quát lại, sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý được thể
hiện ở 3 khía cạnh sau: 1) Chủ thể, 2) Mục tiêu, 3) Phương thức tác động
Những nghiên cứu dưới đây về lãnh đạo tập trung chủ yếu vào phân tích
nội hàm của khái niệm lãnh đạo với tư cách là hoạt động, chức năng của quản
lý.
2 Lãnh đạo là chức năng của quản lý
- Lãnh đạo là một trong những chức năng của quy trình quản lý (lập kế
hoạch (xác định mục tiêu), tổ chức (xác định bộ máy, phân công, giao quyền),
lãnh đạo (động viên, hướng dẫn), kiểm tra (phát hiện sai lệch và điều chỉnh)).
Lãnh đạo là một chức năng (một phần) quan trọng của quản lý, nhưng không
phải toàn bộ công việc của quản lý. Vì thế, chỉ có một số nhà lãnh đạo là nhà
quản lý trong cơ cấu tổ chức.
- Các hoạt động như lập kế hoạch, tổ chức và ra quyết định được ví như
những cái kén nằm im cho đến khi người lãnh đạo khơi dậy một động lực
trong con người và dẫn dắt họ đến các mục tiêu.
- Lãnh đạo là quá trình tác động đến nhân viên sao cho họ đóng góp nhiệt
tình và tích cực vào mục tiêu chung của tổ chức. Hay có thể nói, lãnh đạo chính
là quá trình gây cảm hứng cho người khác làm việc chăm chỉ và hiệu quả hơn.
Các hoạt động lãnh đạo tập trung vào:
- Bản chất của lãnh đạo là hướng dẫn, khích lệ, động viên con người để họ
nhiệt tình, tích cực phát huy cao nhất năng lực của mình.
+ Lãnh đạo là động viên, khích lệ và điều khiển, hướng dẫn, đôn đốc
những thành viên trong tổ chức làm việc với sự nỗ lực cao nhất, với nhiệt tình
của bản thân để hoàn thành mục tiêu của tổ chức.
+ Lãnh đạo là tạo ra những động lực thúc đẩy cấp dưới và khơi dậy hay
kìm hãm bớt những động lực thúc đẩy nhân viên để thực hiện mục tiêu của tổ
chức.

5


+ Lãnh đạo là sự nêu gương, chỉ dẫn, ra lệnh và đi trước. Các nhà lãnh
đạo không đứng đằng sau nhóm hoặc nhân viên để đẩy và thúc giục họ mà, phải
đặt mình trước nhóm hoặc nhân viên, phải thể hiện vai trò tiên phong để động
viên nhân viên hoàn thành các mục tiêu của tổ chức.
Theo Peter Drucker: “Management is doing things right; leadership is
doing the right things”. Nghĩa là: "quản lí là làm những điều đúng đắn, lãnh đạo
là làm những điều đúng đắn." Nhà lãnh đạo là những người quyết định những gì
cần làm, trong khi các nhà quản lý quyết định làm thế nào để làm mọi việc.
Lãnh đạo là người làm đúng việc – do the right things. Quản lý là người
làm việc đúng – do the things right. Sau khi nhà lãnh đạo đưa ra chiến lược thì
quản lý sẽ là người kiểm soát xem công việc có đúng với định hướng chiến lược
của người lãnh đạo không. Nếu lãnh đạo đưa ra chiến lược sai thì cho dù nhà
quản lý có làm đúng thì công việc cũng không thể thành công.
Lãnh đạo hay còn được biết đến với thuật ngữ Leader. Đây là những
người đứng đầu, kiểm soát một tổ chức, tập thể riêng biệt. Lãnh đạo là người
xác lập ra phương hướng, tạo ra những kế hoạch cụ thể và truyền cảm hứng cho
tập thể. Công việc của các nhà lãnh đạo là làm tư tưởng, tạo động cơ hoạt động
cho mọi người.
Quản lý hay còn được biết đến với thuật ngữ Manager. Đây là những
người chịu trách nhiệm về khía cạnh quan trọng của dự án, công việc, một đội.
Công việc của các nhà quản lý là làm kế hoạch, tổ chức và điều phối.
Hai khái niệm này có nhiều điểm tương đồng và dễ khiến mọi người
nhầm lẫn. Cả hai đều ảnh hưởng, hướng tới mục tiêu và làm việc với con người.
Lãnh đạo và quản lý thường đi cùng nhau nhưng lại có nhiều điểm khác biệt.
Phân biệt lãnh đạo và quản lý là công việc còn nhiều khó khăn.
“Có một sự khác biệt rất rõ nét giữa quản lý và lãnh đạo, và cả hai đều
quan trọng. Quản lý nghĩa là dẫn dắt, hoàn thành công việc, chịu trách nhiệm và

tiến hành. Lãnh đạo là tạo ảnh hưởng, là dẫn dắt định hướng về cách thức, tiến
trình, hành động và quan điểm. Sự khác biệt này rất quan trọng” – Theo Warren
Bennis.
Theo Peter Drucker, công việc của nhà quản lý có 5 hoạt động cơ bản. Đó
là thiết lập mục tiêu; tổ chức; thúc đẩy; đo lường; phát triển bản thân và nhân
viên. Quá trình để 5 bước này lặp đi lặp lại theo một chu trình khi mà nhà lãnh
đạo xác định rõ sứ mệnh, tầm nhìn của mình.
6


Với cùng một tình huống, một sự việc, một thời điểm và hoàn cảnh giống
nhau nhưng lại có hai nhóm người với góc nhìn trái ngược hoàn toàn. Nhóm đầu
tiên cho rằng tình hình rất sáng sủa, tương lai tươi sáng. Tình huống đó là cơ hội
phát triển tốt cho họ. Đó là nhà lãnh đạo. Nhóm còn lại cho rằng tình hình rất tối
tăm, khó khăn, cản trở. Tình huống đó có nguy cơ gây ra thất bại cho họ. Đó là
nhà quản lý. Vậy nên nếu bạn đang gặp khó khăn thì hãy gặp nhà lãnh đạo. Họ
sẽ tạo cho bạn một động lực, một niềm tin và truyền niềm cảm hứng bất tận cho
bạn. Còn nếu bạn đang muốn khởi nghiệp, đầu tư hay bắt đầu kinh doanh thì hãy
gặp nhà quản lý. Họ sẽ vạch ra các rủi ro có thể xảy ra để bạn có thể phòng tránh
chúng.
Khi phân biệt lãnh đạo và quản lý, bạn sẽ thấy lãnh đạo như linh hồn của
cơ thể. Họ xác định rõ tầm nhìn, sứ mệnh của doanh nghiệp. Tầm nhìn của họ
dài hạn, xa đến 3 – 5 – 10 năm. Lãnh đạo nhìn thấy triển vọng trong lúc khó
khăn nhất. Họ là người đốt lửa để thổi bùng nguồn năng lượng của nhân viên.
Dẫn dắt, tạo dựng, củng cố niềm tin cho cộng sự là công việc của Lãnh đạo. Họ
tạo từ “không” thành “có” để xây dựng, phát triển doanh nghiệp lớn mạnh hơn.
Quản lý lại là phần thể xác của cơ thể. Đây là những người dùng tư duy để kiểm
soát, giám sát. Công việc của họ gắn liền với con số, giải quyết vấn đề ở thực
tại. Đối với các nhà quản lý thì hiện tại là quan trọng nhất. Quản lý giữ những
thứ “đang có” – tài sản không bị biến thành “không”. Cộng sự của lãnh đạo và

quản lý. Những nhân viên, cộng sự của các nhà lãnh đạo là những người tự
nguyện. Những người này luôn trung thành, sẵn sàng hi sinh, xả thân với công
việc. Do tính chất công việc nên xung quanh những nhà quản lý là những cộng
sự biết phục tùng. Họ lắng nghe và luôn tuân thủ theo đúng kỷ luật, hoàn thành
đúng chỉ tiêu được giao. Kỹ năng cần thiết Đối với các nhà lãnh đạo, họ cần: Uy
tín cá nhân cao. Chỉ khi nhân viên tin, phục thì họ mới có thể lãnh đạo được tập
thể Có trình độ cao, tầm nhìn xa trông rộng để đưa ra những chiến lược đúng
đắn Phối hợp hài hòa với bộ phận quản lý Đối với các nhà quản lý, họ cần: Hiểu
và tuân theo các quyết định của lãnh đạo Có tính kỷ luật cao Tỉ mỉ, cẩn thận,
luôn theo dõi sát sao các chi tiết Có trình độ chuyên môn tương ứng với công
việc Lãnh đạo cần có trình độ cao hơn người quản lý. Người quản lý thì cần tính
chuyên môn cao hơn.
Theo Michael Watkins thì người quản lý có thể trở thành người lãnh đạo.
Quá trình chuyển biến gồm bảy bước quan trọng. Bảy bước đó là:
7


Bước 1. Từ chuyên gia trở thành nhà quản trị tổng hợp.
Bước 2. Từ nhà phân tích trở thành người hợp nhất chuyên môn
Bước 3. Từ nhà chiến thuật trở thành chiến lược gia.
Bước 4. Từ thợ hồ trở thành kiến trúc sư.
Bước 5. Từ người giải quyết vấn đề trở thành người hoạch định
Bước 6. Từ chiến binh trở thành nhà ngoại giao.
Bước 7. Từ thành viên hỗ trợ trở thành vai trò lãnh đạo.
Để một tập thể phát triển nhanh chóng và bền vững thì cần có cả lãnh đạo
và quản lý. Lãnh đạo là nhân trị còn quản lý là pháp trị. Và một tổ chức, doanh
nghiệp thì cần cả hai điều đó. Quản lý gây tác động đến một nhóm người để đạt
được mục tiêu công việc thì họ đang làm một lãnh đạo. Và ngược lại, khi lãnh
đạo dấn thân để lập kế hoạch, kiểm soát đội ngũ nhân viên thì họ đang làm một
quản lý. Cả hai vị trí này đều cố gắng xử lý các tác động, ảnh hưởng của mình

đến một nhóm cá nhân để có thể đạt được mục tiêu đã đặt ra.
Lãnh đạo và quản lý là hai hệ thống hành động khác biệt, hỗ trợ nhau…
Việc phân biệt lãnh đạo và quản lý rõ ràng về nhiệm vụ, vai trò, công việc của
họ trong doanh nghiệp hay một đơn vị như trường học là vô cùng cần thiết. Nó
tạo ra sự thành công trong môi trường phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật
ngày nay.
Thực tiễn giáo dục phổ thông Việt Nam cho thấy, người Hiệu trưởng lãnh
đạo và quản lý nhà trường thực chất là lãnh đạo và quản lý toàn diện mọi hoạt
động giáo dục trong nhà trường. Đây là quá trình giáo dục tổng thể nhằm phát
triển giáo dục toàn diện học sinh phổ thông. Theo đó, hướng tới sự phát triển
nhân cách học sinh.
Như vậy, lãnh đạo và quản lý phát triển toàn diện học sinh là lãnh đạo và
quản lý các hoạt động dạy học - giáo dục trong trường phổ thông giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản,
phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống, tham gia xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Điều cần khẳng định trước tiên: Lãnh đạo và quản lý hoạt động dạy học là
lãnh đạo và quản lý hoạt động dạy của giáo viên và lãnh đạo và quản lý cả hoạt
động học của học sinh. Tuy nhiên, việc lãnh đạo và quản lý hoạt động học của
8


học sinh là quản lý gián tiếp thông qua giáo viên. Chính giáo viên mới là người
quản lý trực tiếp việc học của học sinh.
Trong một nhà trường, tất cả các chủ thể (học sinh, giáo viên, hiệu
trưởng ) đều có chức năng, vai trò riêng mang tính đặc thù. Việc thực hiện vai
trò của từng chủ thể sẽ tạo nên thành công chung của nhà trường. Vậy thì, là
người lãnh đạo nhà trường, vai trò của hiệu trưởng trong việc lãnh đạo và quản

lý hoạt động dạy học thể hiện như thế nào?
Để triển khai vấn đề này, ta hay theo mô hình 1 của Ichak Adizes dưới đây
Mô hình 1: Các vai trò quản lý

Ta có thể vận dụng mô hình trên để phân tích vào việc lãnh đạo và quản lý
hoạt động dạy học của hiệu trưởng.
* Vai trò tạo lập
Trước hết, trong vai trò tạo lập, người hiệu trưởng kỳ vọng đạt được kết
quả dự kiến bằng một loạt các hoạt động tạo thành nhóm công nghệ/ kinh tế.
Chẳng hạn, để thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường phổ
thông, hiệu trưởng phải đưa ra định hướng chỉ đạo, phải tổ chức cho giáo viên
soạn giảng theo yêu cầu mới, tổ chức giảng dạy trên lớp, đúc rút kinh nghiệm,
khái quát về mặt luận dạy học những kết quả đạt được (thể chế hoá kinh
nghiệm) và triển khai thực hiện. Hoặc tổ chức trao đổi nhữngchủ đề cần thiết
trong giảng dạy giúp giáoviên thực hiện có kết quả chương trìn, sách giáo khoa
mới,v.v... Đối với việc học của học sinh, có thể tổ chức trao đổi kinh nghiệm học
tập, hướng dẫn các em tổ chức các buổi hoạt động ngoại khoá,v..v... nhằm nâng
9


cao kết quả học tập của các em. Mặt khác, muốn cho việc chỉ đạo hoạt động dạy
học thành công, người hiệu trưởng ngoài việc trang bị cho mình những tri thức
quản lý còn phải trang bị tri thức khoa học giáo dục và cả những tri thức khác có
liên quan đến hoạt động quản lý như tri thức xã hội, tri thức kinh tế, v.v... Có
như vậy hoạt động quản lý mới thực sự là hoạt động mang tính khoa học và đem
lại hiệu quả cao.
* Vai trò triển khai
Trong vai trò triển khai, hoạt động của hiệu trưởng nhà trường được thể
hiện bằng một loạt các hoạt động tạo thành nhóm cơ cấu/ hành chính. Đây là
việc chỉ đạo giáo viên và học sinh thực hiện các quy định hành chính (quy chế

chuyên môn, nề nếp học tập...) Việc chỉ đạo thực hiện các chủ trương của cấp
trên, các kế hoạch, quyết định của tập thể nhà trường, v.v... cũng như việc tổ
chức sắp xếp nhân sự trong đội ngũ giáo viên, việc phân công giảng dạy trong
giáo viên,v.v... đều là những hoạt động nằm trong nhóm cơ cấu/ hành chính.
* Vai trò đổi mới
Trong nhà trường, người hiệu trưởng luôn luôn là người đại diện cho đổi
mới trong giáo dục. Cần lưu ý rằng môi trường bên trong và bên ngoài nhà
trường luôn luôn biến đổi. Bởi vậy, vai trò của người hiệu trưởng là luôn luôn
làm cho bản thân và tập thể sư phạm thích ứng với những biến đổi đó. Trong bối
cảnh đó, vai trò đổi mới của người hiệu trưởng trong nhóm thông tin / ra quyết
định là hết sức quan trọng. Vai trò này được thực hiện bằng một loạt các quyết
định làm cho đối tượng quản lý chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác,
nghĩa là tạo sự thay đổi về chất. Nhưng để có được những quyết định đúng đắn,
trước hết, người hiệu trưởng phải nắm chắc các loại thông tin cần thiết về dạy
và học của giáo viên và học sinh. Thông tin là huyết mạch của quản lý. Do đó,
tình hình giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, những khó khăn của
họ, nhu cầu của họ, tiến bộ của họ. Các điều kiện phục vụ cho dạy và học v.v...
đều là cơ sở quan trọng cho việc ra quyết định quản lý. Và quyết định đó sẽ ảnh
hưởng đến hoạt động của giáo viên và học sinh, tạo ra một bước chuyển mới
trong dạy và học.
* Vai trò kết hợp
Như ta biết, nhà trường là một tổ chức xã hội. Trong tổ chức này, quan hệ
giữa người với người (giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, giữa các đồng nghiệp, giữa
học sinh với học sinh, giữa học sinh với giáo viên,v.v...) luôn luôn diễn ra với
10


các hình thức, các tính chất, các mức độ vừa đa dạng vừa phong phú; mặt khác,
trong nhà trường cũng hình thành các tổ chức chính thức và không chính thức
đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp với các mức độ khác nhau đến hiệu

quả giáo dục của nhà trường; rồi quan hệ giữa nhà trường và xã hội,v.v... Tất cả
những quan hệ mang tính xã hội đó làm thành môi trường giúp cho người hiệu
trưởng thực hiện vai trò kết hợp của mình bằng những tác động trong nhóm xã
hội/ con người. Sức mạnh của người hiệu trưởng là kết quả của sự huy động, kết
hợp, điều chỉnh trí tuệ và tình cảm, sức mạnh vật chất và tinh thần của các lực
lượng trong và ngoài nhà trường vào việc giáo dục và dạy học. Kết hợp là quá
trình hợp nhất các hành động của các thành viên trong trường thành hành động
của toàn trường, các mục đích cá nhân hài hoà với mục đích của nhà trường.
Bốn vai trò trên đây, trong thực tế gắn bó, quan hệ hữu cơ, đan xen nhau.
Điều cần chú ý là trong quá trình hoạt động quản lý, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể,
người hiệu trưởng cần bảo đảm tính cân đối, hài hoà trong việc thực hiện bốn
vai trò trên. Đôi khi một vai trò nào đó nổi lên với tư cách chủ đạo, các vai trò
còn lại hỗ trợ cho nó để tạo thành sức mạnh tổng hợp đưa đến hiệu quả hoạt
động dạy học - giáo dục nói chung cũng như lãnh đạo và quản lý trong nhà
trường nói riêng.
3. Những con đường hình thành năng lực lãnh đạo, quản lý của Hiệu
trưởng trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
a. Hiệu trưởng là người lãnh đạo nhà trường, chịu trách nhiệm quản
lý các hoạt động của nhà trường.
Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về việc
đảm bảo chất lượng giáo dục ở trường mình. Tuy có các Phó Hiệu trưởng giúp
việc và liên đới chịu trách nhiệm, nhưng Hiệu trưởng phải giữ vai trò thủ trưởng,
thường xuyên nắm thông tin và có những quyết định kịp thời không để những
hiện tượng thiếu trách nhiệm, phản sư phạm xảy ra hoặc tiếp diễn làm tổn hại
đến chất lượng giáo dục thế hệ trẻ. Để đảm bảo trách nhiệm này, cần khẳng định
cho Hiệu trưởng quyền đề bạt và đề nghị thay thế các Phó Hiệu trưởng, quyền
đề nghị đình chỉ công tác và thay thế các giáo viên, nhân viên không còn đủ các
phẩm chất, năng lực làm công tác giáo dục.
b. Hiệu trưởng, nhà sư phạm mẫu mực, nhà giáo dục có tâm hồn.
Người Hiệu trưởng phải hiểu biết những cơ sở tâm lý học, giáo dục học,

trựctiếp tham gia giáo dục một số học sinh và là người thầy giáo mẫu mực của
11


học sinhtrong nhà trường. Hiệu trưởng là người dạy tốt ít nhất là một môn học,
có khả năngthực hiện mẫu mực các nhiệm vụ của một nhà giáo bộ môn.Trình độ
chuyên môn về khoa học giáo dục, lý luận và thực hành là rất cầnthiết cho công
tác quản lý trường học.
Người Hiệu trưởng phải hiểu biết những cơ sở tâm lý học, giáo dục học,
trực tiếp tham gia giáo dục một số học sinh và là người thầy giáo mẫu mực của
học sinh trong nhà trường. Hiệu trưởng là người dạy tốt ít nhất là một môn học,
có khả năng thực hiện mẫu mực các nhiệm vụ của một nhà giáo bộ môn.
Trình độ chuyên môn về khoa học giáo dục, lý luận và thực hành là rất
cần thiết cho công tác quản lý trường học.
c. Hiệu trưởng, nhà hoạt động xã hội.
Một trong những phương tiện quan trọng để làm công việc này là bản thân
người Hiệu trưởng tham gia vào công tác của địa phương. Hoạt động xã hội của
Hiệu trưởng còn có ý nghĩa giáo dục tính tích cực xã hội cho học sinh rất nhiều.
Hiệu trưởng cần động viên các thành viên của tập thể tham gia vào đời sống xã
hội.
Nói chung, những người lãnh đạo nhà trường, nhất là ở nông thôn thường
được mọi người biết đến như là những diễn giả, những cán bộ tuyên truyền,
những thành viên tích cực của các tổ chức xã hội khác nhau. Nhờ đó, họ tạo ra
những điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục toàn diện đối với thế hệ trẻ.
d. Hiệu trưởng, người tổ chức trong thực tiễn.
Người Hiệu trưởng là người lãnh đạo cấp cơ sở trong sự nghiệp giáo dục,
và càng ở cấp cơ sở thì chức năng tổ chức thực hiện càng phong phú. Hoạt động
tổ chức về cơ bản là hoạt động với con người. Trong hoạt động với con người,
những Hiệu trưởng giỏi thường có những đặc điểm sau đây :
- Có sự đồng cảm hay sự nhạy cảm về tổ chức: Đó là khả năng đặt địa vị

của mình vào cương vị của người đối thoại, hiểu được thế giới nội tâm của họ,
hiểu được khó khăn của họ, cùng rung cảm với họ, khiến họ có thể dễ dàng bộc
lộ tâm tư với người lãnh đạo. Sự nhạy cảm về tổ chức còn thể hiện ở chỗ người
lãnh đạo biết rõ người dưới quyền đang cần gì và chủ động giúp đỡ họ cả trước
khi họ có sự yêu cầu.
- Có sự khéo léo đối xử: thể hiện ở chỗ tìm được cách cư xử thích hợp với
từng người, cách truyền thụ tế nhị kinh nghiệm và kiến thức của mình cho
những người khác để họ có thể tiến hành công việc có kết quả hơn.
12


e. Hiệu trưởng, người nghiên cứu khoa học giáo dục.
Hiệu trưởng cần lôi cuốn các giáo viên đi vào nghiên cứu khoa học giáo
dục. Bước thứ nhất là nghiên cứu, phân tích, phổ biến và áp dụng những kinh
nghiệm giảng dạy, giáo dục của các đồng nghiệp tiên tiến ở trường mình và các
trường bạn. Bước tiếp theo là cộng tác với các nhà khoa học của các Viện nghiên
cứu, các trường đại học, trong việc thực nghiệm một số đề tài khoa học ở trẻ em.
Người giáo viên trực tiếp tham gia công tác nghiên cứu khoa học sẽ cảm thấy
công việc hàng ngày của mình bớt đơn điệu, có thêm sức hấp dẫn và thấy được
niềm vui sáng tạo trong nghề nghiệp.
4. Năng lực lãnh đạo, quản lý của hiệu trưởng trường phổ thông
trong giai đoạn hiện nay.
- Năng lực tự hoàn thiện: Trong quá trình xã hội hóa cá thể - quá trình
phát triển và hoàn thiện nhân cách diễn ra trong suốt cuộc đời, mọi cá nhân đều
phải vàbiết tự học, tự tu dưỡng bằng nhiều con đường để khẳng định giá trị nhân
cách –bản chất con người của mình, nhất là trong bối cảnh học suốt đời và cùng
nhau xây dựng một xã hội học tập hiện nay. Chỉ có như vậy mới khẳng định
được vai trò chủ thể của mình – làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ
bản thân.Với tư cách là nhà quản lý giáo dục trong các nhà trường phổ thông,
muốn hình thành được những năng lực này ở các em thì điều trước tiên người

quản lý phải rèn luyện, trau dồi để có được những năng lực này. Đó là tấm
gương sáng, cần được thể hiện sinh động trong mọi hoạt động của nhà quản lý.
- Năng lực giao tiếp ứng xử: Năng lực phản ánh nhận thức, thái độ cũng
nhưphương thức thể hiện của con người với các mối quan hệ trong gia đình, nhà
trường và ngoài xã hội. Trong xu thế hội nhập, giao lưu giao thoa giữa các nền
văn hóa hiện nay năng lực này ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết, nó
biểu hiện giá trị của mỗi cá nhân ra bên ngoài trong hoạt động sống của mình,
nó phản ánh nghệ thuật sống của con người, phản ánh giá trị văn hóa giao tiếp
của cá nhân.
- Năng lực thích ứng: Xã hội ngày càng có những biến động rất nhanh và
theo nhiều chiều hướng khác nhau. Vấn đề đặt ra là: Xuất phát từ lý tưởng cách
mạng trong sáng, quan điểm giai cấp rõ ràng và với năng lực, bản lĩnh của mình
mỗi cá nhân cần có sự thích ứng để phù hợp với những thay đổi của cuộc sống,
của điều kiện học tập và lao động... luôn làm chủ bản thân mình để “xuất tâm”
từ đó mà “nhập tâm” một cách có hiệu quả cao nhất.
13


- Năng lực tổ chức và quản lý: Năng lực này phản ánh chức năng kế
hoạch hóa, khả năng tổ chức chỉ đạo thực hiện các hoạt động, khả năng dự báo,
dự đoán và kiểm tra các hoạt động sống của con người. Đây là một năng lực cần
thiết và hết sức quan trọng của con người trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa, thời kỳ hội nhập, thời kỳ phát triển kinh tế tri thức của thế kỷ XXI. Với
tư cách là nhà quản lý giáo dục trong các nhà trường phổ thông, năng lực tổ
chức và quản lý là năng lực bản lề, có tính chất quyết định đến việc thực hiện
các chức năng quản lý của người hiệu trưởng, đến hiệu qủa hoạt động của toàn
bộ nhà trường.
- Năng lực hoạt động chính trị xã hội: Đây là năng lực đánh giá rõ nhất,
cụ thể nhất nhân cách người cách mạng, đánh giá những phẩm chất chính trị của
mỗi cá nhân. Trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều phức tạp như hiện

nay, đòi hỏi mỗi con người phải biết hợp tác và hợp tác trên cơ sở quan điểm
giai cấp rõ ràng, xác định rõ lý tưởng cách mạng đó là: Độc lập dân tộc và Chủ
Nghĩa Xã Hội. Mỗi người cần phải rèn luyện để có được những tri thức, kỹ năng
và thái độ từ đó phát triển năng lực hoạt động chính trị xã hội của mình. Đó là
một yêu cầu bức xúc nhằm giải quyết hàng loạt những mâu thuẫn giữa cá nhân
với cộng đồng, với dân tộc và với nhân loại.
- Năng lực hợp tác và cạnh tranh: Trong xu thế hội nhập, để phát triển mỗi
con người cần phải biết hợp tác với nhau và trên cơ sở hợp tác đó mà cạnh lành
mạnh với nhau – đó chính là động lực của sự phát triển, là đòi hỏi mang tính
khách quan.
Người cán bộ quản lý giáo dục cần nhận thức sâu sắc vấn đề này, từ đó
mới có thể thực hiện hiệu quả các chức năng quản lý trong tập thể của mình. Cụ
thể nhà quản lý giáo dục, cần phải thực hiện tốt năng lực này trong việc tổ chức
các hoạt động của tập thể giáo viên, tập thể học sinh. Nhất là trong công cuộc
đổi mới dạy và học, đổi mới việc giáo dục con người hiện nay.
- Năng lực lao động nghề chuyên biệt: Đây chính là giá trị để đánh giá và
khẳng định nhân cách của mỗi cá nhân. Đây cũng là vấn đề không thể thiếu
được trong giai đoạn CNH-HĐH đang diễn ra với tốc độ cao, với nhịp độ khẩn
trương. Mỗi cá nhân cần căn cứ vào những phẩm chất và năng lực của bản thân,
sở trường sở đoản của mình, căn cứ sở thích ước muốn, căn cứ quan điểm sống
để lựa chọn cho mình một nghề phù hợp mà xã hội đang cần. Từ đó có thể cống
hiến hết mình và tìm thấy niềm vui niềm hạnh phúc với nghề đã chọn.
14


Là người quản lý nhà trường tức là làm nghề sư phạm, nghề quản lý công
tác giáo dục và cảm hóa những con người đang lớn lên, từng thành viên phải
thấy rõ vai trò thay mặt Đảng, Nhà nước và Nhân dân của mình. Như vậy việc tu
dưỡng, trau dồi để có được tấm lòng, tài năng và tầm nhìn xa trông rộng là vấn
đề cốt yếu của mỗi cán bộ quản lý giáo dục.

- Năng lực nghiên cứu khoa học: Con người của thời đại ngày nay là con
người phải có tính phê phán trí tuệ, không bằng lòng với cái hiện có, luôn tiến về
phía trước. Đó cũng là con người có khả năng tiếp cận và giải quyết vấn đề bằng
con đường riêng của mình. Như vậy có thể nói : Năng lực nghiên cứu khoa học
là một đòi hỏi đối với người lao động trong thời đại bùng nổ thông tin, thời đại
khoa học và công nghệ phát triển không ngừng, thời đại mà nhân loại đang từng
bước bước vào nền kinh tế tri thức.
Với tư cách là nhà quản lý giáo dục trong các nhà trường phổ thông, mỗi
người cần phải thấy được đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong công tác của
mình. Nếu bản thân anh không là tấm gương của việc nghiên cứu thì làm sao có
thể phát động, tổ chức, chỉ đạo và đánh giá việc nghiên cứu được!.
5. Bài học quản lý giáo dục rút ra.
Trong thực tiễn quản lý, lãnh đạo cơ sở, hiệu trưởng vừa là lãnh đạo vừa
là nhà quản lý. Quản lý là nghệ thuật hoàn thành công việc thông qua người
khác; là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc của các
giáo viên, cán bộ công nhân viên trong nhà trường, sử dụng các nguồn lực sẵn
có để đạt được các mục tiêu đề ra. Như vậy chức năng cơ bản của quản lý là:
Lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp và kiểm tra.
Nhà quản lý là những người làm việc trong tổ chức, điều khiển công việc
của người khác và chịu trách nhiệm trước kết quả hoạt động của họ. Nhà quản lý
là người lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát con người, tài chính, vật
chất và thông tin một cách có hiệu quả để đạt được mục tiêu.
Hiệu trưởng đóng vai trò quan trọng, góp phần chủ yếu quyết định hiệu
quả và sự phát triển bền vững của tập thể. Với chức trách của mình, người hiệu
trưởng đảm đương nhiều vai trò khác nhau. Có thể tổng hợp các vai trò cơ bản
chung nhất mà tất cả những người hiệu trưởng đều phải thực hiện:
- Vai trò giao tiếp, quan hệ:
+ Đối với bên ngoài là đại diện cho tập thể mà người đó quản lý.
15



+ Đối với bên trong là lãnh đạo, liên kết mọi người để hoàn thành mục tiêu
chung.
- Vai trò thông tin:
+ Thu thập thông tin từ cấp dưới.
+ Phổ biến thông tin từ cấp trên.
+ Cung cấp thông tin cho bên ngoài.
- Vai trò quyết định: Đây là vai trò quan trọng nhất của người quản lý. Nhà
quản lý là người có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về những quyết định
của mình.
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của cấp trên giao cho, một nhà quản lí
lí tưởng cần thực hiện các vai trò cụ thể sau:
- Đảm bảo sự an toàn, yên ổn của các giáo viên, cán bộ công nhân viên, học
sinh. Vì để hoàn thành một công việc theo cách có lợi nhất, con người luôn cần
có sự an toàn. Nhà quản lý sẽ không bao giờ thành công nếu như đặt sự an toàn
và sức khỏe của nhân viên vào vòng nguy hiểm, các cộng sự chính là đối tượng
mà nhà quản lý phải tìm kiếm sự trợ giúp và lòng trung thành ở họ vì thế nhất
thiết phải tạo cho họ niềm tin và sự an toàn.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho công việc chung: Nhà quản lý phải hợp tác
với nhóm cộng sự của mình, với cấp quản lý cao hơn và với toàn thể giáo viên,
nhân viên trong trường. Về nguyên tắc, một nhà quản lý tốt phải đặt lợi ích của
tập thể trong tính toàn thể. Vai trò của nhà quản lý vì thế chủ yếu là việc tìm thấy
một sự cân bằng giữa nhu cầu của đơn vị, yêu cầu của cấp quản lý cao hơn và
nhu cầu của cấp dưới.
- Khơi gợi và thiết lập tinh thần tập thể: Đạo đức tốt và tinh thần tập thể là
hai thành phần chủ yếu của một nhóm. Bản chất của tinh thần tập thể có thể là
sự nhiệt tình hứng khởi, những kết quả làm hài lòng, sự vui thích. Nó có thể bắt
nguồn từ sự quan tâm dù nhỏ của nhà quản lý như: tâm tư tình cảm, khó khăn
trong cuộc sống, gia đình, công việc, vật chất,… Tóm lại, những hành động như
thế phải được tiến hành đủ để cho nhân viên thấy được nhà quản lý có quan tâm

đến họ. Từ đó, nhân viên sẽ hết lòng hết sức vì công việc chung.
- Truyền đạt sự hiểu biết, kinh nghiệm: Nhà quản lý tài năng thường dành
nhiều thời gian để cải thiện năng lực những cộng sự của mình, truyền cho họ
những hiểu biết, kinh nghiệm bản thân sao cho họ có thể từ đó mà phát triển
hơn. Chính qua hành động này, nhà quản lý đã đào tạo được người thay thế mình
16


trong tương lai, một nhân vật có đủ khả năng được thăng tiến, điều này càng có
ý nghĩa kích thích các cộng sự hơn.
- Sáng suốt trong việc xử lý tài liệu: Một nhà quản lý tốt phải biết mình
thuộc loại người nào để có cách khắc phục: nếu anh ta ghét loại công việc này
thì tốt nhất là nên giao việc này cho một ai đó làm, nên giao cho người có năng
khiếu và yêu thích việc soạn thảo hay đọc báo cáo và tài liệu; nhưng hãy biết
quản lý họ một cách có hiệu quả nhất. Nếu ngược lại, anh ta là người mê giấy tờ,
hãy tránh khả năng chìm đắm trong niềm say mê đó.
Thành tích vượt trội thường đến với những nhà quản lý có mối quan hệ tốt
và lôi cuốn được cả trái tim cũng như trí tuệ của cán bộ, giáo viên, nhân viên.
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, các tác động của quá trình toàn cầu hóa,
bước chuyển sang nền kinh tế tri thức, cuộc cách mạng về công nghệ thông tin
và truyền thông tạo ra cho giáo dục có thêm vai trò mới: Giáo dục vừa là động
lực cho việc vận hành nền kinh tế tri thức, vừa là hạ tầng xã hội cho việc hình
thành xã hội tri thức - đó là nền giáo dục đặt trên cơ sở thích ứng với điều kiện,
khả năng và nhu cầu phát triển của xã hội mới; đang tạo ra một bức tranh đa
dạng của các hệ thống giáo dục thế giới, nhưng vẫn có sự thống nhất về xu thế
vận động và phát triển, đó là: phổ cập hóa giáo dục, nâng cao chất lượng giáo
dục, dân chủ hóa giáo dục, thương mại hóa giáo dục, quốc tế hóa giáo dục...;
đồng thời tạo ra sức ép cho các hệ thống giáo dục phải có sự thay đổi trong đào
tạo - bồi dưỡng và cung cấp cho xã hội những con người có khả năng: làm việc
theo nhóm, làm công dân, làm lãnh đạo, năng động và sáng tạo... phù hợp với

nhu cầu của xã hội hiện đại.
Cán bộ quản lý giáo dục có vai trò của người điều hành một hệ thống lớn
và phức tạp, đồng thời thực thi các chính sách giáo dục đa dạng và mềm dẻo để
giải quyết một cách chủ động và sáng tạo các vấn đề mới nảy sinh như: Phân
cấp quản lý, trách nhiệm xã hội, huy động nguồn lực,dân chủ hóa giáo dục, tin
học hóa quản lý... Cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò quyết định trong việc
đảm bảo thực hiện thành công chính sách giáo dục và nâng cao hiệu quả hoạt
động giáo dục. Vai trò của Cán bộ quản lý giáo dục thay đổi một cách căn bản:
- Nếu Cán bộ quản lý giáo dục trước đây hướng tới ổn định và trật tự thì
Cán bộ quản lý giáo dục ngày nay hướng tới đổi mới và phát triển.

17


- Cán bộ quản lý giáo dục trước đây quản lý bằng mệnh lệnh; còn Cán bộ
quản lý giáo dục ngày nay phải đóng vai trò nhà chính trị để tạo được sự đồng
thuận trong đội ngũ và tổ chức.
- Cán bộ quản lý giáo dục trước đây không biết đến sức ép tài chính, còn
Cán bộ quản lý giáo dục ngày nay phải xoay xở như một doanh nhân...
- Cán bộ quản lý của cơ quan quản lý giáo dục trước đây thường chỉ huy, ra
lệnh và kiểm soát thì ngày nay cần hướng dẫn, tư vấn, hỗ trợ, tạo điều kiện.
- Cán bộ quản lý cấp trường trước đây: thực hiện mệnh lệnh cấp trên trong
mọi lĩnh vực: chuyên môn, tổ chức, nhân sự, tài chính thì ngày nay: quyết định,
tổ chức thực hiện, minh bạch hóa các hoạt động chuyên môn, tổ chức, nhân sự
và kĩ năng chủ yếu của họ là giải quyết vấn đề.
Trước yêu cầu mới của xã hội học tập, người Cán bộ quản lý giáo dục
không chỉ hô hào mọi người học tập thường xuyên mà phải là tấm gương cho
đội ngũ về học tập thường xuyên, suốt đời. Cán bộ quản lý giáo dục cần có kế
hoạch chiến lược về nghiên cứu khoa học, tự học, tự bồi dưỡng về các kiến thức
chính trị - xã hội, chuyên môn - nghiệp vụ quản lý, đo lường và đánh giá trong

giáo dục, công nghệ thông tin, ngoại ngữ... để phát triển chính mình. Muốn trở
thành Cán bộ quản lý giáo dục chất lượng cao phải có tính kiên nhẫn, sự khổ
luyện, lòng can đảm, tự tin... trong học tập thường xuyên và phấn đấu suốt đời
cho sự nghiệp.
Trong thời đại thông tin,vai trò của Cán bộ quản lý giáo dục không hề giảm
mà có cơ hội tăng lên, đòi hỏi Cán bộ quản lý giáo dục phải có kỹ năng sử dụng
CNTT&TT; làm chủ được môi trường CNTT&TT mới, vận dụng CNTT&TT
vào quản lý có hiệu quả, đồng thời phải chuẩn bị về mặt tâm lý cho một sự thay
đổi cơ bản của họ khi bổ sung và cập nhật kiến thức chuyên môn - nghiệp vụ
quản lý và sẽ phải đối mặt với sự gia tăng về số lượng người học, do đó Cán bộ
quản lý giáo dục phải chỉ đạo giáo viên luôn tự học, mạnh dạn đổi mới phương
pháp, dùng các phương pháp và công nghệ mới.
Quản lý giáo dục hiện đại đã và đang có thêm nhiều nội dung mới, đòi hỏi
Cán bộ quản lý giáo dục phải tiếp nhận và biết vận dụng nhiều phương pháp và
phương tiện quản lý hiện đại phù hợp và có hiệu quả. Do vậy, yêu cầu tất yếu
cần làm hiện nay là nâng cao chất lượng đội ngũ Cán bộ quản lý giáo dục mà
cách làm chủ yếu là thông qua đào tạo - bồi dưỡng.
18


Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cơ bản đã đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ, song vẫn còn nhiều bất cập:
- Nhìn chung đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng chuẩn trình độ đào
tạo; tuy nhiên, khả năng sử dụng ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ thông tin
trong công tác quản lý còn rất hạn chế. Đa số chưa được đào tạo có hệ thống về
công tác quản lý, trình độ và nănglực điều hành quản lý còn bất cập, tính chuyên
nghiệp thấp, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân nên chất lượng,
hiệu quả công tác còn nhiều hạn chế.
- Về cơ bản đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục có ý thức chính trị, phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn sư phạm cao (do hầu hết là những nhà giáo

được bổ nhiệm, điều động sang làm công tác quản lý), có kinh nghiệm trong
công tác quản lý giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận cán bộ quản lý giáo
dục có biểu hiện chạy theo những tiêu cực của kinh tế thị trường, chưa tích cực,
chủ động học tập, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Chính
vì vậy việc quản lý lãnh đạo nhà trường còn nhiều hạn chế, khó khăn khi xây
dựng kế hoạch phát triển nhà trường, xây dựng thương hiệu, xây dựng những giá
trị cốt lõi, chưa có tầm nhìn xa,..
Công tác sử dụng và quản lý đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục cũng còn
nhiều khó khăn, bất cập, như: chưa giải quyết thỏa đáng chế độ chính sách đối
với những nhà giáo được điều động sang làm công tác quản lý; thu nhập của cán
bộ quản lý giáo dục ở các trườngcông lập và ngoài công lập có khác biệt lớn;
đời sống của phần đông cán bộ quản lý giáo dục gặp khó khăn, điều kiện làm
việc còn hạn chế nên nhiều người chưa thực sự yên tâm công tác.
Vì vậy, chúng tôi có một số đề xuất sau:
Cần tăng cường công tác quản lý cán bộ, thực hiện tốt việc đánh giá gắn
với phân công bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ. Đây là một nội dung quan trọng, đòi
hỏi các cấp ủy, tổ chức Đảng phải nghiên cứu quán triệt một cách sâu sắc để mỗi
cán bộ, đảng viên nắm vững chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và
Nhà nước về công tác cán bộ; phải nắm vững mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc và
các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt,
đối với cấp ủy và người đứng đầu cơ quan, đơn vị để có đổi mới cách nghĩ, cách
làm cho phù hợp với tình hình mới. Quá trình thực hiện phải có sự nhất quán
nguyên tắc Đảng thống nhất lãnhđạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
tính chiến lược trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, nhằm đáp
19


ứng yêu cầu nhân sự cho nhiệm kỳ kế tiếp và chủ động tạo nguồn cán bộ cho
những nhiệm kỳ tiếp theo với chất lượng cao, đồng bộ về cơ cấu theo yêu cầu
của từng giai đoạn cách mạng. Có quản lý tốt mới có đánh giá chính xác về cán

bộ, là cơ sở để phân công, bố trí hợp lý, giúp cán bộ phát huy năng lực sở trường
công tác, cống hiến tài năng cho sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình đánh giá
cán bộ phải đảm bảo tính khách quan, công khai, trung thực và trách nhiệm của
cấp ủy Đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Đồng thời đề cao tính trung thực của cán
bộ khi tự đánh giá về mình và phát huy vai trò trách nhiệm của các tổ chức thành
viên trong hệ thống chính trị, kịp thời phát hiện nhân tài để bồi dưỡng, sử dụng
và phát huy hết khả năng của cánbộ.
Thực hiện đúng quy trình 3 khâu giữa công tác quy hoạch; đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng cán bộ. Phải căn cứ vào Nghị quyết 42 của Bộ Chính trị. Cán
bộ trong diện quy hoạch phải là những người đáp ứng cơ bản tiêu chuẩn chức
danh cán bộ, nhưng cần được tiếp tục hoàn thiện thông qua đào tạo, bồi dưỡng,
rèn luyện và thử thách trong thực tiễn; chú trọng lựa chọn nguồn cán bộ trẻ, mỗi
chức danh quy hoạch phải có từ 2 đến 3 đồng chí và một đồng chí có thể quy
hoạch từ 2 đến 3 chức danh, theo hướng “mở” và“động” (không khép kín, không
hạn chế số người được định sẵn một cách chủ quan như vừa qua nhiều nơi đã
làm và được rà soát, điều chỉnh thường xuyên theo sự phát triển của cán bộ để
kịp thời bổ sung nhân tố mới). Sau đào tạo nhất thiết phải gắn với bồi dưỡng, bố
trí, sử dụng cán bộ, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quy hoạch,
đào tạo cán bộ.
Tăng cường công tác luân chuyển cán bộ, coi đây là khâu đột phá trong
công tác cán bộ. Vừa đẩy mạnh việc luân chuyển, vừa thận trọng, giải quyết tốt
quan hệ giữa luân chuyển với ổn định và xây dựng đội ngũ cán bộ có chuyên
môn sâu; vừa coi trọng đáp ứng yêucầu trước mắt, vừa coi trọng mục đích bồi
dưỡng, rèn luyện, chuẩn bị đội ngũ cán bộ kế cận. Quá trình thực hiện công tác
luân chuyển cần có bước đi thích hợp, làm tốt công tác tư tưởng, nêu rõ mục
đích, yêu cầu luân chuyển đối với nơi đi, nơi đến và đối với cán bộ được luân
chuyển, đồng thời theo dõi, giúp đỡ, tạo điều kiện cho cán bộ luân chuyển hoàn
thành nhiệm vụ.
Nâng cao năng lực lãnh đạo. Trước hết, phải tiếp tục đổi mới phong cách
lãnh đạo, phương pháp ra nghị quyết theo hướng ngắn, gọn, thiết thực, mang

tính khả thi cao, xác định khâu trọng tâm, trọng điểm để tổ chức thực hiện. Chú
20


trọng việc xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp hoạt động giữa các
khối, các ngành, giảm bớt sự chỉ đạo bằng giấy tờ, hội họp. Tăng cường công tác
kiểm tra của Đảng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương trong Đảng coi trọng công tác
thanh tra của các cơ quan Nhà nước, đoàn thể trong việc chấp hành các Nghị
quyết của Đảng pháp luật của Nhà nước. Xây dựng một đội ngũ cán bộ cốt cán
từ trường đến phòng đến sở thật sự là hạt nhân lãnh đạo.
Phải tiếp tục kiện toàn các cơ quan tham mưu, tăng cường công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ có trình độ đại học, sau đại học chuyên ngành, chuyên sâu
từng lĩnh vực để có tâm nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ theo yêu cầu, góp
phần làm tốt vai trò tham mưu. Một vấn đề cũng hết sức quan trọng thuộc về
trách nhiệm của Đảng và Nhà nước cấp trên, đó là cần có chính sách, chế độ tốt
hơn, hợp lý hơn trong công tác cán bộ. Thực tế cho thấy: Chính sách, chế độ
công bằng, hợp lý là một trongnhững nguyên nhân khơi dậy lòng nhiệt thành,
sức cống hiến và sự đoàn kết của đội ngũ cán bộ; khuyến khích sự suy nghĩ sáng
tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn cá nhân, tạo điều kiện cho cán bộ trở
thành người lãnh đạo và quản lý giỏi.
Một tổ chức cũng như một xã hội ổn định hài hoà và hiệu quả cũng đều
cần cả lãnh đạo và quản lý. Tuy vậy, lãnh đạo phải đi trước một bước, biết nhìn
xa trông rộng, vạch đường chỉ lối và nói chung, không thể có sai lầm hệ thống;
lại phải luôn theo dõi tiến trình quản lý, chỉ huy bằng nhận thức chiến lược và
đánh giá kết quả chung, không chỉ của quá trình quản lý cũng như hoạt động chỉ
huy cụ thể.
Người lãnh đạo và quản lý phải biết làm cho người khác yêu mến mình.
Đó là lời giải đáp cho những suy nghĩ trăn trở mỗi lúc được đặt ra, khi ta hình
dung ra trách nhiệm hết sức nặng nề ấy. Hãy làm cho mọi người yêu mến mình,
tin tưởng mình, tất cả những khó khăn của người Hiệu trưởng sẽ được những

người cộng sự, thuộc cấp, nỗ lực vượt qua cùng với chính bản thân của người
lãnh đạo quản lý. Cũng cần nhớ tạo ra một sự công bằng trong đơn vị. Không
được xem nhẹ những người cộng sự, những thuộc cấp quanh mình là những kẻ
nô lệ. Hãy xem tất cả họ là bản thân của người lãnh đạo quản lý. Hãy làm cho họ
hiểu được các quan niệm kế hoạch, nỗ lực, ý chí của bạn – ước muốn, tầm nhìn,
chiến lược đều nhằm mục đích tạo một sự công bằng cần thiết và uy tín của đơn
vị cũng chính là uy tín của họ.Lòng bác ái, hòa nhã và tinh thần gương mẫu của
người lãnh đạo quản lýcũng rất quan trọng. Muốn thế, Người lãnh đạo quản lý
21


có một nhân cách, một tâm hồn cao thượng, để có thể cảm thụ được tính chất
của từng thuộc cấp, từng diễn biến nội tâm đang diễn ra trong mỗi giáo viên và
nhân viên, cũng như những nhu cầu tâm hồn của nơi họ. Như vậy có thể nói,
điều kiện kiên quyết của người lãnh đạo và quản lý là:Tình thương, Công bằng
và Bác ái. Dĩ nhiên, chỉ đơn thuần có được ba đức tính trên chưa thể kết luận
người lãnh đạo quản lý sẽ trở thành một người lãnh đạo và quản lý tài ba, vì đó
chỉ mới là điều kiện tiên quyết.
Một chiếc xe chạy không đúng hướng về đích trễ có thể do máy móc và
một phần là do năng lực của người điều khiển. Đối với một ngôi trường, người
hiệu trưởng phải thật sự năng động và nhạy bén thì mới hoàn thành sứ mệnh và
trách nhiệm của “người cầm lái”.

22



×