LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn thầy cô trường đại học Cửu Long, khoa Khoa
Học Nông Nghiệp và bộ môn Công nghệ Sinh Học đã trang bị cho tôi
những
kiến thức chuyên môn cần thiết để tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi chân thành cảm ơn!
Thầy ThS. Ngô Thanh Phong, bộ môn Sinh Học, khoa Khoa Học Tự
Nhiên, trương Đại Học Cần Thơ, đã tận
tình
hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt
quá trình làm luận văn tốt
nghiệp.
Thầy PGS.TS. Cao Ngọc Điệp, Viện Nghiên Cứu và Phát Triển Công
Nghệ Sinh Học, Trường Đại Học Cần Thơ đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá
trình làm luận văn.
Chân thành cảm ơn quí thầy cô phụ trách phòng thí nghiệm bộ môn
sinh h ọc đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn các thí
nghiệm.
Xin cảm ơn gia đình luôn quan tâm giúp đỡ tôi về mọi mặt.
Sau cùng tôi gởi lời cảm ơn đến bạn Nguyễn Thị Kim Ngân và bạn Lê
Văn Thắng cùng tất cả các bạn lớp Công nghệ sinh học khóa 8, tất cả những gì
các bạn đã dành cho tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề
tài.
Chân thành cảm
ơn!
Cần thơ, ngày 17 tháng 7 năm
2011
SINH VIÊN THỰC HIỆN
LÂM VĂN BẠCH
Trang i
TÓM LƯỢC
Đánh giá hiệu quả của vi khuẩn cố định đạm Burkholderia sp. KG1,
Burkholderia sp. KG2, và dòng phối trộn Burkholderia sp. KG1 với Burkholderia sp.
KG2, tác động đến năng xuất lúa cao sản OM4218 được trồng ở Hậu Giang.
Tuyển chọn chủng vi khuẩn có khả năng cố định đạm cung cấp cho cây lúa để
đạt năng suất cao nhất. Kết quả thí nghí nghiệm các chỉ tiêu nông học và năng xuất lúa
thực tế đạt hiệu quả cao khi chủng vi khuẩn Burkholderia sp. KG2 và phối trộn
Burkholderia sp. KG1 với Burkholderia sp. KG2 có thể giảm được 25-50% đạm hóa
học. Năng suất cao nhất là nghiệm thức có dòng phối trộn vi khuẩn cố định đạm
Burkholderia sp. KG1 với Burkholderia sp. KG2, bón 75% đạm hóa học nhưng năng
suất cao hơn nghiệm thức bón 100% đạm hóa học là 27,15% (3.06 kg/4 m
2
)
Từ khóa: lúa cao sản, vi khuẩn, Burkholderia sp., năng suất, cố định đạm.
Trang ii
Abstract
To assess the effects of nitrogen-fixing bacterium Burkholderia sp. KG1,
Burkholderia sp.KG2, and the mixing Burkholderia sp.KG1 with Burkholderia sp. KG2,
impact on high-yielding paddy rice was grown in Hau Giang OM4218.
Selection of bacteria capable of nitrogen fixation to rice plant gave the highest
yield survey. The results thought agronomic testing criteria and the fact showed that rice
production was seen to be effective when the bacteria Burkholderia sp. KG2 and the
mixing Burkholderia sp. KG1 with Burkholderia sp. KG2 could be 25-50% reduction in
chemical nitrogen fertilizer. The highest yield was mixed strains treatments had
nitrogen-fixing bacteria Burkholderia sp. KG1 with Burkholderia sp. KG2, chemical
nitrogen fertilizer 75%, but higher yields of 100% protein treatments, chemical fertilizer
was 27,15% (3,06 kg ure/ 4 m
2
).
Keywords: rice, bacteria, Burkholderia sp., yield components, nitrogen fixation
Trang iii
Mục Lục
Danh sách bảng
Tên bảng Trang
Bảng 1: Cách bón phân cho lúa............................................................................23
Bảng 2: Đặc điểm của từng loại phân vi sinh........................................................28
Bảng 3: Sơ đồ bố trí thí nghiệm............................................................................37
Bảng 4: Công thức bón phân vụ hè thu của nông dân...........................................39
Bảng 5: Công thức bón phân trong thí nghiệm kg/1000m
2
....................................39
Bảng 6 : Sự phát triển chiều dài rễ qua các giai đoạn (cm)....................................41
Bảng 7: Sự phát triển chiều cao cây qua các giai đoạn (cm)..................................43
Bảng 8: Số chồi lúa qua các giai đoạn..................................................................45
Bảng 9: Trọng lượng khô lúa các giai đoạn 14-84 ngày........................................47
Bảng 10: Trọng lượng lúa trên 4m
2
.......................................................................55
Trang iv
Danh sách hình
Tên hình Trang
Hình 1: Cỏ bãi biển châu phi................................................................................4
Hình 2:Vi khuẩn Burkholderia sp.KG1.................................................................6
Hình 3:Vi khuẩn Burkholderia sp.KG2.................................................................6
Hình 4: Một số dụng cụ, thiết bị thí nghiệm..........................................................35
Hình 5: Ruông lúa thí nghiệm...............................................................................38
Hình 6: Rễ lúa giai đoạn 35 ngày..........................................................................41
Hình 7: So sánh rễ lúa 84 ngày.............................................................................42
Hình 8: Cây lúa 35 ngày.......................................................................................44
Trang v
Hình 9: Biểu đồ số bông lúa trên m
2
các nghiệm thức...........................................49
Hình 10: Biểu đồ số bông lúa trên buội các nghiệm thức......................................50
Hình 11: Biểu đồ chiều dài bông lúa các nghiệm thức..........................................51
Hình 12: Biểu đồ thể hiện số hạt chắc trên bông lúa............................................52
Hình 13: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ hạt lép trên bông lúa (%)......................................52
Hình 14: Biểu đồ thể hiện số hạt chắc trên buội lúa.............................................53
Hình 15: Biểu đồ thể hiện tỉ lệ hạt lép trên buội lúa (%)......................................53
Hình 16: Biểu đồ thể hiện trọng lượng 1000 hạt...................................................54
Hình 17: Biểu đồ thể hiện sản lượng lúa trên 4m
2
.................................................55
Danh sách các từ viết tắt
ĐBSCL: Đồng bằng sông Cửu Long
Bcc: Burkholderia cepacia
SA: sunfate amôn
N: Đạm
Fd : Feredocine
NSG : Ngày sau gieo
VSV: Vi sinh vật
PTNT: phát triển nông thôn
BVTV: bảo vệ thực vật
Trang vi
Bt: Bacillus thuringiensis
EPN: Entomopathogenic nematodes
TNHH MTV: Trách nhiệm hửu hạn một thành viên
KHKTNN: khoa học kỹ thuật nông nghiệp
Chương 1: GIỚI THIỆU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây lúa Oryza sp. sativa là một trong những cây lương thực chính, cung cấp
lương thực cho hơn 65% dân số trên thế giới, sản lượng gạo đạt cao nhất.
Hiện nay hơn 100 nước trên thế giới sản xuất lúa. Châu Á là vùng sản xuất lúa
gạo chủ yếu chiếm 90% về sản lượng cũng như về diện tích, là nơi có nền nông nghiệp
cổ xưa nhất gắn liền với canh tác lúa nước.
Việt Nam: Từ bao đời nay cây lúa đã gắn liền với đời sống dân tộc, với lịch sử
dựng nước và giữ nước. Nông dân ta rất giàu kinh nghiệm và giỏi nghề trồng lúa. Việt
Nam cũng là một trong những trung tâm phát sinh cây lúa và nghề trồng lúa của loài
người. Cây lúa luôn là cây lương thực chính trong sản xuất nông nghiệp và là nhân tố
quan trọng ổn định tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của đất nước.
Trong những thập kỷ qua loài người đang đứng trước nguy cơ bùng nổ về dân số,
trong đó có Việt Nam. Ở Việt Nam, dân số trên 80 triệu và 100% người Việt Nam sử
dụng lúa gạo làm lương thực chính. Vì thế việc đảm bảo an ninh lương thực và sản
lượng gạo xuất khẩu ở Việt Nam có vai trò vô cùng to lớn. Nhằm đáp ứng nhu cầu càng
Trang vii
cao về lương thực, các nhà nông ở Việt Nam và các nước khác trên thới giới phải canh
tác ba vụ lúa trên năm nên đã sử dụng biện pháp gia tăng các loại phân bón cho cây lúa,
nhất là đạm vì đạm là nguồn dinh dưỡng chính của cây trồng. Tuy nhiên , trên thực tế
chỉ 30% lượng đạm bón vào đất được cây hấp thụ. Do đó, việc bón quá nhiều đạm, nhất
là đạm hóa học không những dẫn đến chi phí cao mà còn gây ô nhiễm môi trường, hiệu
ứng nhà kính, tổn hại sức khỏe và hệ sinh thái.
Nhằm khắc phục những bất lợi của việc sử dụng quá mức phân bón hóa học
trong canh tác lúa, hạn chế ô nhiễm môi trường. Hiện nay đã và đang có nhiều nghiên
cứu ứng dụng về việc sử dụng phân bón sinh học trong nông nghiệp, đặc biệt là trên cây
lúa. Đây là một trong những biện pháp làm tăng độ phì nhiêu cho đất và hạn chế sự ô
nhiểm môi trường, tuy nhiên giá thành của loại phân này vẫn còn cao do phải vận
chuyển số lượng lớn từ nơi sản xuất đến đồng ruộng. Để hạn chế việc sử dụng phân bón
hóa học và sinh học, việc nghiên cứu và tìm ra các loại vi khuẩn có khả năng cố định
đạm là một nhu cầu cấp thiết.
Vì những lý do trên mà đề tài: “Hiệu quả của vi khuẩn cố định đạm Burkholderia
sp. trên cây lúa cao sản trồng ở Hậu Giang” được thực hiện nhằm mục đích đánh giá
hiệu quả của vi khuẩn cố định đạm Burkholderia sp. tác động đến năng xuất lúa, góp
phần giảm lượng phân hóa học và cải thiện độ phì nhiêu cho đất.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đánh giá mức độ phát triển và năng suất lúa khi chủng vi khuẩn cố định đạm vào hạt lúa
giống OM4218 (đã nẩy mầm 2-3 cm) được trồng ở Hậu Giang và đề suất công thức bón
phân vi sinh kết hợp với phân hóa học một cách hợp lí cho lúa đạt năng suất cao.
1.3 NỘI DUNG
Nghiên cứu được tiến hành trên hai dòng vi khuẩn cố định đạm Burkholderia sp.KG1,
Burkholderia sp.KG2 và phối trộn Burkholderia sp.KG1,sp.KG2. Đánh giá hiệu quả cố
định đạm của dòng vi khuẩn và trong điều kiện thí nghiệm đề nghị công thức bón phân
cho lúa cao sản.
1.4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trang viii
Nghiên cứu ngoài đồng ruộng tại đất của ông: Châu Trãi, số nhà 28/56 ấp Thạnh
Lợi, xã, Tân Phú Thạnh, huyện Châu Thành A, Tỉnh Hậu Giang. Trong vụ hè thu sớm
từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 6 năm 2011.
Trang ix
Chương 2: TỔNG QUAN
2.1 TÌNH HÌNH SỬ DỤNG PHÂN ĐẠM CHO CÂY LÚA CAO SẢN Ở
ĐBSCL
Đồng bằng sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất cả nước, với hơn 4 triệu ha gieo
trồng. Trong đó lúa cao sản chiếm hơn 80% diện tích, sản lượng lúa thu hoạch hàng
năm lên đến hơn 20 triệu tấn, chiếm trên 53% sản lượng lúa, hơn 90% lượng gạo xuất
khẩu cả nước. Để có được năng suất và sản lượng cao như vậy, bên cạnh yếu tố giống,
kỹ thuật canh tác…, hàng năm Đồng bằng sông Cửu Long còn phải sử dụng một lượng
phân bón hóa học tương đối lớn (trên 2 triệu tấn). (Xuân Diện, 2011). Với sự biến động
của tỷ giá ngoại tệ, giá dầu mỏ trên thế giới, giá phân bón hóa học liên tục tăng cao, ảnh
hưởng tới sản xuất nông nghiệp.
2.2 SƠ LƯỢC VI KHUẨN
2.2.1 Đặc điểm chung của vi khuẩn Burkholderia
Burkholderia là vi khuẩn gram âm, hình que, đường kính khoảng 1 µm, chúng có
thể di chuyển nhờ các chiêm mao ở đầu (Jesus et al, 2004). Vi khuẩn Burkholderia sinh
trưởng và phát triển trong điều kiện kị khí hoặc hiếu khí, nhưng trong môi trường ít khí
thì phát triển tốt nhất, chúng phát triển sâu trong môi trường nuôi cấy từ 1-4 mm
(Paulina et al., 2001). Trong môi trường nuôi cấy chúng tạo thành những khuẩn lạc
trắng hoặc hơi vàng, đường kính khoản 2-4 mm tròn phẳng hoặc lài (Jesus et al., 2004).
Vi khuẩn Burkholderia có bộ gen lớn nhất so với các loài vi khuẩn trong đất đã được
biết đến có tiềm năng quan trọng trong hệ sinh thái và thương mại cho xử lý sinh học,
trình tự bộ gen Burkholderia sẽ đóng vai trò quan trọng trong các cơ chế bảo vệ môi
trường.
Trang x
2.2.2 Một số chủng Burkholderia điển hình
Cỏ bãi biển châu Phi không phát triển nốt sần nhưng cũng chứa vi khuẩn
Burkholderia cố định ni-tơ.
(Ảnh: USDA,Howieson, E. Cahill, iStockphoto)
Hình 1: Cỏ bãi biển châu phi
Vi khuẩn Burkholderia vietnamiensis và Burkholderia kuruiensis có dạng que
ngắn, một số có dạng que dài và tất cả đều có khả năng chuyển động nhờ chiêm mao
(Lương Thị Phương Thảo, 2010). Những đặc điểm trên cũng là những đặc điểm nổi bật
của hình dạng Pseudomonas cố định đạm. Đa số các dòng Burkholderia có khuẩn lạc
màu trắng đục, dạng tròn, có độ nổi mô, bìa nguyên, một số khuẩn lạc có màu vàng, bìa
răng cưa, kích thước khuẩn lạc từ 0.5–1.5 mm. (Nguyển Thị Minh Thư, 2010)
Burkholderia vietnamiensis được tìm thấy ở rễ bắp, lúa và cà phê (Estrada et al.,
2001). Loài Burkholderia vietnamiensis được tìm thấy ở rễ cây lúa trồng ở miền nam
Việt Nam, thí nghiệm ở cây lúa chủng Burkholderia vietnamiensis sau 14 ngày chúng
giúp tăng khả năng đâm chòi 33%, rễ tăng 57% diện tích lá tăng 30% năng xuất lúa tăng
13-22% (La Nguyễn Tường Vi, 2010)
Tiến hành chủng vi khuẩn Herpaspirillum seropedicae và giống vi khuẩn
Burkholderia vào cây lúa, kết quả cho thấy vi khuẩn có khả năng cố định đạm khoảng
19% tổng số đạm cần thiết cho cây (Vera et al., 2000). Những ngiên cứu khảo sát khả
năng cố định đạm của Burkholderia cho thấy khi chúng sống cộng sinh trong cây bắp
trồng ở Mexico cố định đạm tốt như ở cây mía trồng ở Brazil và Nam Phi (Reis et al.,
2004).
Trang xi
Burkholderia kurriensis là một loài proteobacteria được cô lập từ mẫu nước
ngầm bị nhiểm trichloroethylene và dung môi công nghiệp ở Nhật Bản (Zhang et
al.,2000).
Các phức Burkholderia cepacia bao gồm ít nhất là chín loài liên quan. Các loài
của tổ hợp nằm trong số các vi sinh vật đa năng trao đổi chất được biết đến nhiều nhất,
đang phát triển trên hơn 200 hợp chất hữu cơ, sửa chữa N
2
và mang nhiều kháng sinh.
Họ đang tham gia vào quá trình quan trọng như phân hủy sinh học các chất ô nhiễm,
nhưng một số cũng gây bệnh ở thực vật, động vật và con người. Bcc chủng được phân
lập từ môi trường sống rất khác nhau, bao gồm cả đất, suối, thực vật, động vật và các
mô của con người, đặc biệt là phổi của bệnh nhân xơ nang (Coenye et al., 2003). Bcc
chủng có bộ gen lớn (2-4) replicons, mà được cho là cung cấp cho chúng sự linh hoạt.
Các tính năng khá độc đáo cùng với hệ gen cấu trúc sinh thái rộng phạm vi làm cho
nhóm này hết sức quan tâm cho các nghiên cứu so sánh bộ gen. Các nghiên cứu này hy
vọng có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc và chặt chẽ về các dòng có liên quan của một
nhóm vi khuẩn được nhiều thành công trong môi trường rất khác nhau.
Chủng ATCC 17660 được phân lập năm 1958 từ một đất rừng ở Trinidad và là
một trong những bản gốc chủng pseudomonads nó được mô tả như là Pseudomonas
multivorans trong nghiên cứu của (Stanier et al., 1966). ATCC 17760 có kích thước
không điển hình nhỏ, (4,7 Mb bộ gen trong 2 replicons) do đó, phân tích so sánh với các
trình tự bộ gen Bcc sẽ giúp hiểu, mở rộng bộ gen và kiểm tra giả thuyết gene cho nhóm
Bcc. Tuy nhiên, trình tự bộ gen và các nghiên cứu xung quanh lĩnh vực mới hiện nay gợi
ý rằng ATCC 17760 có 8,5 Mb bộ gen trong 3 replicons. ATCC 17760 cũng được chọn
vì nó là trong cụm phát sinh loài giống như các chủng loại Bcc. Thông tin năm 2004 cho
thấy rằng chủng này không phải là một thành viên của bất kỳ của chín loài Bcc, và có
thể là một loài mới, nhưng trong số các loài được mô tả, nó xuất hiện hầu hết liên quan
chặc chẽ đến Burkholderia cepacia.
2.2.3 Vi khuẩn Burkholderia sp
Burkholderia sp. (Dòng 383) được phân lập năm 1958 từ đất rừng ở Trinidad và
là một trong những nguyên chủng trong nghiên cứu nổi tiếng (1966). Nó được mô tả
như là Pseudomonas multivorans. Thông tin năm 2004 cho thấy rằng chủng này không
phải là một thành viên của bất kỳ của chín loài Burkholderia cepacia, và có thể là một
Trang xii
loài mới. Tuy nhiên, trong số các loài được mô tả, nó xuất hiện hầu hết liên quan chặt
chẽ đến Burkholderia cepacia. ( />Khuẩn lạc của vi khuẩn Burkholderia sp.1 có màu vàng nhạt, và Burkholderia
sp.2 có màu trắng đục
Burkholderia sp.1 đã được giải trình tự và xác định tương quan di truyền với
Burkholderia vietnamiensis AU 0913 nifH gene là 99% trên ngân hàng dữ liệu NCBI và
được ký hiệu là Burkholderia sp. KG1, tổng hợp NH
4
+
trung bình của 3 lần đo trong 8
ngày là 42,52mg/l
Burkholderia sp.2 đã được giải trình tự và xác định tương quan di truyền với
Burkholderia vietnamiensis AU 0829 nifH gene trên ngân hàng dữ liệu NCBI và được
ký hiệu là Burkholderia sp. KG2, tổng hợp NH
4
+
trung bình của 3 lần đo trong 8 ngày là
29,37mg/l
(Nguyển Thị Minh Thư,2010)
Hình 2:Vi khuẩn Burkholderia sp.KG1
(Nguyển Thị Minh Thư, 2010)
Hình 3:Vi khuẩn Burkholderia sp.KG2
Môi trường sử dụng để nuôi cấy Burkholderia sp.KG trong phòng thí nghiệm là
môi trường Bunrk lỏng không đạm, hoặc môi trường King B. (Ngô Thanh Phong, 2010)
Trang xiii
2.3 VAI TRÒ CỦA ĐẠM ĐỐI VỚI CÂY LÚA VÀ CƠ CHẾ CỐ ĐỊNH ĐẠM
SINH HỌC
2.3.1 Vai trò của đạm đối với cây trồng
Thông thường trong đất có 2 nguồn đạm dễ thu hút đối với cây trồng là đạm amoniac và
nitrat. Nói chung, các dạng đạm khoáng cây hút rất nhanh và chuyển thành những dạng
đạm hữu cơ. Phân đạm là tên gọi chung của các loại phân đơn cung cấp chất đạm cho
cây. Bón đạm sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng của cây, giúp cho chồi, cành lá phát triển, làm
lá có kích thước to, xanh, quang hợp mạnh và làm tăng năng suất cây trồng.
Thiếu đạm cây trồng tăng trưởng còi cọc, đẻ nhánh kém, ít phát triểm mầm non,
phân cành ra lá đều kém, lá nhỏ. Cây ra hoa kết quả muộn, ít hoa, ít quả, khả năng tích
lũy chất có đạm, bột đường đều kém. Tuy nhiên, nếu bón đạm nhiều cho cây sẽ có tác
dụng ngược lại: cây lớn nhanh, đẻ nhánh nhiều, lá phát triển quá mức, bộ rễ phát triển
kém, thân non mềm. Đó là hiện tượng “lốp cây”, cây dễ bị đổ, trổ chậm, chính chậm và
không chắc hạt. Mặt khác bón nhiều đạm làm tăng mức độ nhiễm sâu bệnh do màu sắc
xanh đậm của lá thu hút bướm, lá mềm sâu dễ đục, nấm bệnh, vi khuẩn dễ xâm nhập.
Ðặc điểm của phân đạm
Chúng ta biết rằng, trên thị trường nước ta hiện nay có 2 dạng phân đạm chính đó
là phân đạm ure và phân đạm sulphate (mà ta thường gọi là SA)
Phân Ure: (NH
2
)
2
CO là loại phân đạm màu trắng đục, dạng viên tròn, có loại nhỏ
như hạt mè, hoặc có loại lớn gần bằng hạt đậu xanh. Loại phân này trong thành phần chỉ
có phân đạm là có giá trị cho cây trồng. Hàm lượng đạm trong loại phân này rất cao,
chiếm tới 46%.
Phân đạm sunfate: (NH
4
)
2
SO
4
đây là loại phân cũng rất phổ biến như phân ure.
Phân đạm sunfate có chứa 21% đạm nguyên chất. Như vậy, hàm lượng đạm trong phân
sunfate đạm chỉ chưa bằng phân nửa so với phân ure. Có nghĩa là phải bón hơn 2 kg
phân sunfate đạm mới cho lượng đạm tương đương với 1kg phân ure. Tuy vậy, phân
đạm sunfate lại có ưu điểm là cùng một lúc cung cấp cả phân đạm và phân lưu huỳnh
cho cây nên phân có giá cao hơn phân ure nếu chỉ tính trên mỗi đơn vị đạm. Hiện nay,
do bà con chưa hiểu được nhiều về vai trò của lưu huỳnh đối với cây trồng nên đây cũng
là một thiếu sót đáng kể trong sản xuất nông nghiệp. Việc bón phân chỉ quan tâm đến
Trang xiv
đạm, lân và kali đã làm tình trạng thiếu lưu huỳnh ngày càng trở nên trầm trọng. Bón
thêm phân SA là một việc làm nhất cử lưỡng tiện và làm tăng hiệu lực phân bón lên rất
đáng kể.
Ngoài 2 dạng phân đạm chính đã nói trên, còn có những loại phân chứa đạm khác như :
- Trong phân DAP có 18% đạm nguyên chất - tức gần bằng với hàm lượng đạm trong
phân SA.
- Trong phân Multi-K ( Nitrat Kali) có 16% đạm nguyên chất.
Sử dụng phân đạm
Lâu nay nói đến phân đạm chúng ta thường nghĩ đến phân ure vì nó chứa hàm lượng
đạm rất cao (46% N). Trong các quy trình phân bón chúng ta cũng chỉ nghĩ đến việc
đảm bảo đủ số lượng phân đạm, phân lân và kali là được, chưa tính đến nhu cầu phân S
cho cây. Thực ra trong những năm gần đây nhu cầu S đã trở nên rất cần thiết trong quy
trình phân bón. Ngoài ra, do sự thâm canh và khai thác đất ngày càng nhiều nên ngoài
vấn đề lưu huỳnh còn nảy sinh thêm các vấn đề canxi, manhê và các nguyên tố vi lượng
khác.
Do vậy trong khi sử dụng phân đạm, đề nghị thay khoảng 30 - 40% dạng đạm ure
bằng dạng đạm sunfate là thích hợp. Nếu đã dùng phân DAP thay cho lân thì nên giảm
bớt lượng phân đạm, vì trong DAP đã có 18% đạm.
Vai tro của đạm đối với cây lúa
Nhu cầu dinh dưỡng của cây lúa hay nói cách khác là các chất dinh dưỡng cần thiết,
không thể thiếu được đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa bao gồm: đạm
(N), lân (P), kali (K), vôi, sắt, kẽm, đồng, magiê, mangan, mô-líp-đen, bo, silic, lưu
huỳnh và các-bon, ô-xy, hyđrô. Tất cả các chất trên đây (trừ các-bon, ô-xy, hyđrô) phân
bón đều có thể cung cấp được. Có nhiều chất dinh dưỡng khoáng mà cây lúa cần, nhưng
3 yếu tố dinh dưỡng mà cây lúa cần với lượng lớn là: đạm, lân và kali là những chất cần
thiết cho những quá trình sống diễn ra trong cây lúa. Các nguyên tố khoáng còn lại, cây
lúa cần với lượng rất ít và hầu như đã có sẵn ở trong đất, nếu thiếu thì tùy theo điều kiện
cụ thể mà bổ sung phù hợp.
( />Trang xv
Phân bón có vai trò quan trọng trong quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa, nó
cần thiết cho suốt quá trình phát triển, từ giai đoạn mạ cho đến lúc thu hoạch. Phân bón
cung cấp cho cây là nguồn nguyên liệu để tái tạo ra các chất dinh dưỡng như: tinh bột, chất
đường, chất béo, prôtêin. Ngoài ra chúng còn giữ vai trò duy trì sự sống của toàn bộ cây
lúa, không có nguồn dinh dưỡng thì cây lúa sẽ chết, không thể tồn tại.
Các yếu tố dinh dưỡng trong phân bón cung cấp cho cây lúa có vai trò khác nhau,
với hàm lượng cung cấp khác nhau trong quá trình sinh trưởng, phát triển của cây lúa.
Vì vậy việc bón phân, bổ sung dinh dưỡng cho lúa người ta đã nghiên cứu và đưa ra
những công thức bón phân hợp lý cho từng giống lúa, cho từng giai đoạn sinh trưởng,
phát triển, theo từng điều kiện đất đai, khí hậu cụ thể.
Phân đạm và hiệu suất của phân đạm: Đạm đóng vai trò quan trọng trong đời sống
cây lúa, nó giữ vị trí đặc biệt trong việc tăng năng suất lúa. Tại các bộ phận non của cây
lúa có hàm lượng đạm cao hơn các các bộ phận già. Đạm là một trong những nguyên tố
hóa học cơ bản của cây lúa, đồng thời cũng là yếu tố cơ bản trong quá trình phát triển
của tế bào và các cơ quan rễ, thân, lá...
Nếu thiếu đạm, cây lúa thấp, đẻ nhánh kém, phiến lá nhỏ, hàm lượng diệp lục
giảm, lá lúa ngả màu vàng và lúa sẽ trỗ sớm hơn, số bông và số lượng hạt ít hơn, năng
suất lúa bị giảm.
Nếu bón nhiều đạm và trong điều kiện ruộng thừa chất dinh dưỡng thì cây lúa
thường dễ hút đạm. Thừa đạm sẽ làm cho lá lúa to, dài, phiến lá mỏng, nhánh lúa đẻ vô
hiệu nhiều, lúa sẽ trỗ muộn, cây cao vóng dẫn đến hiện tượng lúa lốp đổ làm cho năng
suất lúa không cao. Cây lúa hút đạm nhiều nhất vào hai thời kỳ: thời kỳ đẻ nhánh và
thời kỳ làm đòng.
Nhu cầu về đạm của cây lúa ở từng mùa vụ khác nhau nên việc sử dụng phân đạm
cũng khác nhau.
Lượng phân đạm bón cho cây lúa phụ thuộc vào mùa vụ gieo cấy, độ màu mỡ
của đất, tiềm năng năng suất của giống lúa, giá cả phân bón, thời gian và cách bón phân.
Ngoài việc phải tuân thủ theo quy trình kỹ thuật của các giống lúa, còn phải quan sát, cân
nhắc lượng và thời điểm bón phân đạm dựa vào chân đất, thời tiết và màu sắc bộ lá lúa
(dùng bảng so màu lá lúa).
Trang xvi
Yêu cầu về đạm của cây lúa thay đổi theo thời gian sinh trưởng. Cây lúa cần nhiều
đạm trong thời kỳ đẻ nhánh, nhất là thời kỳ đẻ nhánh cực đại. Khi kết thúc thời kỳ phân
hóa đồng, hầu như cây lúa đã hút trên 80% tổng lượng đạm cho cả chu kỳ sinh trưởng.
Một trong những yếu tố quan trọng để tăng hiệu quả bón đạm cho cây lúa là cách
bón, hay nói cách khác là bón đạm như thế nào.
Thời điểm thích hợp nhất để bón đạm cho cây lúa vào lúc cấy (hoặc lúc gieo
thẳng) và lúc cây lúa bắt đầu làm đồng, cũng không nên bón đạm cho lúa khi vừa cấy
xong. Cách bón phân đạm tốt nhất là trước khi cấy (hoặc lúc gieo thẳng) phân đạm được
trộn với đất để cho phân đạm gần rễ hơn và được giữ trong keo đất.
Khi bón phân, không nên bón khi ruộng khô nẻ rồi cho nước vào ruộng thì một
phần phân đạm sẽ biến thành khí bốc hơi bay đi. Ngược lại nếu bón đạm cho đất ngập
nước thường xuyên làm thay đổi dạng đạm (dạng đạm này dễ chuyển thành thể khí bay
lên). Khi quan sát thấy trời sắp mưa không nên bón đạm vì như vậy lượng đạm vừa bón
sẽ dễ bị rửa trôi; khi nắng nóng gay gắt vào buổi trưa, đầu giờ chiều cũng không nên
bón đạm vì đạm dễ bị bay hơi, vào buổi sáng hoặc chiều mát là thời điểm bón đạm tốt
nhất.
Một điểm chú ý khác khi bón thúc phân đạm là không nên bón khi lá lúa còn ướt
bởi phân đạm sẽ dính lại trên lá ướt và với lượng nhiều có thể gây cháy lá; phân đạm đã
hòa tan vào những giọt nước trên lá lúa sẽ bị mất vào không khí khi các giọt nước đó
bốc hơi, khô đi. Cũng không nên bón thúc phân đạm nếu như thấy có mưa to vì đạm vừa
bón sẽ bị trôi đi mất. (Trần Thiên Văn)
2.3.2 Cơ chế cố định đạm sinh học
Nitơ là nguyên tố dinh dưỡng quan trọng không chỉ với cây trồng mà ngay
cả
đối với vi sinh vật. Nguồn dự trữ nitơ trong tự nhiên rất lớn, chỉ tính riêng
trong
không khí nitơ chiếm khoảng 78,16% thể tích. Người ta ước tính trong bầu
không
khí bao trùm lên một ha đất đai chứa khoảng 8 triệu tấn nitơ, lượng nitơ này có
thể
cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng hàng chục triệu năm nếu như cây trồng
đồng
hóa được
chúng.
Trong cơ thể các loại sinh vật chứa khoảng 4,1015 tỷ tấn nitơ.
Nhưng tất
cả
nguồn nitơ trên cây trồng đều không tự đồng hóa được mà phải nhờ
vi sinh
vật.
Thông qua hoạt động của các loài sinh vật, nitơ nằm trong các dạng khác
nhau
được
chuyển hóa thành dễ tiêu cho cây trồng sử
dụng.
Hằng năm cây trồng lấy
Trang xvii
đi từ đất hàng trăm triệu tấn nitơ. Bằng cách
bón
phân con người trả lại cho đất
được khoảng > 40%, lượng thiếu hụt còn lại cơ
bản
được bổ sung bằng nitơ do hoạt
động sống của vi sinh vật. Vì vậy việc nghiên
cứu,
sử dụng nguồn đạm sinh học này
được xem là một giải pháp quan trọng trong
nông
nghiệp, đặc biệt trong sự phát triển
nền nông nghiệp bền vững của thế kỷ 21
này
. Cây trồng cũng như các loài động vật và
người không có khả năng đồng hóa trực tiếp nguồn N
2
tự do từ không khí (Nester et al.,
2004). N
2
là phân tử rất khó phản ứng với các phân tử khác để tạo thành hợp chất. Liên
kết N ≡ N có năng lượng liên kết rất lớn nên muốn xảy ra phản ứng giữa N
2
với các
nguyên tố khác thành các hợp chất vô cơ, trong kỹ thuật người ta phải dùng năng lượng
rất cao. Muốn thu được NH
3
từ N
2
phải dùng nhiệt độ 5000
0
C với áp suất 200-300atm.
Muốn tổng hợp cyanamide calcium (CaCN) phải dùng lò điện.
Trong
tự nhiên, khi có
sấm sét tạo nên áp
suất
và nhiệt độ rất cao mới cắt đứt liên kết
đó
để hình thành nên
đạm vô cơ. Vì vậy,
sau
trận mưa giông, cây tươi tốt hơn vì
được
bổ sung thêm đạm từ
nước
mưa.
Tuy nhiên, tồn tại một số vi sinh vật
có
khả năng biến N
2
trong khí
quyển
thành
NH
3
cung cấp đạm cho cây mà chỉ
cần
một lượng năng lượng rất ít
(3-5
kcal/M).
Chúng được gọi chung là các vi sinh
vật
cố định
đạm.
Quá trình cố định đạm bằng con đường sinh học có ý nghĩa to lớn đối với cân
bằng N
2
trên trái đất và việc duy trì độ phì của đất. Hiện nay, mặc dù việc sản xuất phân
đạm ngày một tăng nhưng mới chỉ đáp ứng được một lượng đạm rất nhỏ mà cây trồng
đòi hỏi hàng năm.
Theo tài liệu phân tích, trong trường hợp thuận lợi, vi khuẩn nốt sần có thể đồng
hóa 100-250 kg N/ha/năm. Cỏ Luzern: 300 kg, cỏ Stylo: 150-200 kg, các loại đậu
80-120 kg, các vi khuẩn sống tự do như Azotobacter 25-40 kg. Nói chung, mỗi năm
trên trái đất, các vi sinh vật cố định được khoảng 100 triệu tấn N ở dạng liên kết.
Lượng N sinh học được tích lại trong đất nhờ các vi sinh vật cố định đạm có
ý nghĩa rất lớn đối với nông nghiệp, đặc biệt là các nước có nền công nghiệp phân hóa
học chưa phát triển. Do đó, việc phát hiện ra các nhóm vi sinh vật có khả năng cố định
N
2
và sử dụng chúng như một nguồn phân bón hữu hiệu là biện pháp tích cực làm
giàu nguồn đạm cho đất và giảm bớt nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do sử dụng quá
nhiều phân bón hóa học.
Trang xviii
Cố định đạm sinh học trên lúa làm tăng đạm tổng số lên 20-25% (Dobereiner,
1992). Theo thí nghiệm của Cao Ngọc Điệp (2005), khi tưới dịch vi khuẩn
Pseudomonas spp. lên lúa cao sản trồng trên đất phù sa ở Cần Thơ đã giúp tăng năng
suất lúa lên 20-37%. Vì vậy, việc nghiên cứu cơ chế cố định đạm sinh học của vi
khuẩn là vấn đề cấp thiết đã được các nhà khoa học triển khai nhằm làm tăng tính hiệu
quả ứng dụng vi sinh vật cố định đạm,
Hiện nay, việc sử dụng quá nhiều phân đạm vô cơ đã làm cho môi trường đất và
nước bị ô nhiễm, hàm lượng nitrate tích lũy trong nhiều loại sản phẩm nông nghiệp
cũng tăng đến mức báo động. Chính vì vậy, thay thế một phần đạm vô cơ bằng đạm
sinh học sẽ góp phần làm cho môi trường sinh thái nông nghiệp bền vững hơn. Việc
trồng xen các cây họ đậu với các cây trồng khác cũng như trồng các cây họ đậu cải tạo
đất là biện pháp canh tác hợp lý, có hiệu quả cao và được ứng dụng ngày càng nhiều
nhằm tăng năng suất cây trồng, đồng thời đảm bảo bền vững cho sinh thái nông nghiệp.
Cơ chế hóa sinh của quá trình cố định N
cho đến nay vẫn chưa được sáng tỏ
hoàn toàn, nhưng đa số các nhà nghiên cứu đồng ý với giả thuyết cho rằng N
là sản
phẩm đồng hóa sơ cấp của N
2
và có thể nêu ra giả thuyết về 2 con đường cố định N
của
vi sinh vật sống tự do trong đất như sau:
Trong công nghiệp, nhờ các chất xúc tác nên năng lượng dùng cho phản ứng cố
định N
được giảm nhiều, chỉ vào khoảng 16-20
Kcalo/M, song lượng năng l
ượng
vẫn
còn lớn so với trong cơ thể sinh vật. Tốc độ phản ứng nhanh chóng trong tế bào vi sinh
Trang xix
vật ở nhiệt độ thấp nhờ có hệ thống enzyme hydrogenase họat hóa H
2
và enzyme
nitrogenase hoạt hóa N
2
. Năm 1961-1962, người ta đã tách từ Clostridium
pasteurrianum hai tiểu phần hoạt hóa H
2
và N
2
. Sau này người ta tìm t
h
ấ
y
ở
Azotobacter cũng có các tiểu phần đó. Trong quá trình hoạt hóa này có sự tham gia của
2 nguyên tố
khoáng Mo và Fe.
Nguồn hydro để khử N
2
có thể là hydro phân tử (H
2
).
Trong trường hợp này thì dưới tác dụng của enzyme hydrogenase, điện tử được chuyền
theo hệ thống.
Nguồn cho điện tử và hydro là acid pyruvic. Đáng chú ý là trong quá trình
chuyền điện tử có sự tham gia tích cực của feredocine (Fd). Feredocine là cầu nối giữa
2 hệ enzyme hydrogenase và nitrogenase để cố định N
2
.
Sự cố định N
2
của vi khuẩn nốt sần có thể xãy ra theo sơ đồ phức tạp hơn. Trong
các nốt sần có một c
h
ất có bản chất
hem rất giống với hemoglobin trong máu gọi là
leghemoglobin. Nó dễ dàng liên kết với O
2
đ
ể biến thành oxyhemoglobin.
Leghemoglobin chỉ
đư
ợc tạo nên
khi vi khuẩn sống cộng sinh với cây
họ
đậu, còn khi
nuôi
cấy tinh khiết các Rhizobium sẽ không tạo leghemoglobin và không cố định được
N
2
. Những
ngh
iê
n
cứu
g
ầ
n
đ
â
y
về quá trình cố định N
2
cho thấy quá trình cố định này
đòi hỏi: Có sự tham gia của enzyme nitrogenase. Có thể coi đây là nhân tố chìa khóa
cho quá trình này: Enzyme này hoạt động trong điều kiện yếm khí.
- Có lực khử mạnh với thế năng khử cao (NAD, NADP,...)
Trang xx
- Có năng lượng (ATP) đủ và có sự tham gia của nguyên tố vi lượng. Nhóm
hoạt động của enzyme nitrogenase có chứa Mo và Fe. Vì vậy sử dụng Mo và Fe cho
cây họ đậu thường có hiệu quả rất cao.
- Tiến hành trong điều kiện yếm
khí.
Các chất khử là NADH
2
và Fd cùng với năng
lượng do hô
hấp, quang hợp của cây chủ c
ung
cấp
.
Sự cố định N
2
cần năng lượng 16
ATP để khử 1 N
2
.
tạo thành 1 NH
3
trong quá trình cố định
N được sử dụng dễ dàng vào
quá trình amine hóa các cetoacid để tổng hợp một cách nhanh c
hóng
các acid amine, từ
đó tham gia vào tổng hợp protein và nhiều quá trình trao đổi chất khác.
Cố định đạm sinh học xảy ra khi nitơ trong khí quyển được chuyển thành
amoniac bởi một enzyme gọi là nitrogenase. (Ngô Thanh Phong, 2010)
Quá trình cố định đạm xảy ra trong tế bào vi khuẩn và vi khuẩn lam đều giống
nhau là nhờ chúng có hệ thống gen nif (ni là chữ viết tắt của nitrogen – nitơ và f là
fixing – cố định) điều khiển quá trình tổng hợp enzyme nitrogenase. Nitrogenase là hệ
enzyme xúc tác cho phản ứng khử N
2
thành NH
3
. Như vậy, hệ thống gen nif được xem
là hệ thống gen điều khiển cho quá trình cố định đạm sinh học. Tuy nhiên, ở vi khuẩn
lam, quá trình cố định đạm không phải xảy ra ở bất kỳ tế bào nào mà chỉ có thể xảy ra ở
dị bào.(Desnoues et al.,2003).
Khả năng cố đinh đạm sinh học hay các sinh vật mamg hệ thống gen nif được
phân phối ở nhiều loài vi khuẩn thực (eubacteria) và vi khuẩn cổ (archae) (Yan et
al.,2008).
N
2
+ 8 H + 6 e
-
→ 2 NH
3
+ H
2
Sự cố định đạm sinh học giới hạn ở vi sinh vật sơ hạch, nhóm này có thể là vi
sinh vật dị dưỡng và sự hoạt động của chúng cần năng lượng ( chủ yếu là nguồn
cacbonhidrat) bắt nguồn từ sự quan hệ giữa rễ cây và vi sinh vật cho nên nếu nguồn
năng lượng dồi dào thì cố định đạm ngày càng cao. Nguồn năng lượng cung cấp cho hệ
thống cố định đạm sinh học với sự hoạt động của enzim nitrogenase và hydrogenase
giúp cho N
2
được chuyển thành 2 phân tử NH
3
, sau đó kết hợp với chuổi carbon để
thành những acid amin đầu tiên cung cấp cho cây trồng.
Quá trình cố định nitơ phân tử theo 2 hướng cơ bản: Con đường khử và con
đường oxy hoá. Con đường khử theo chuỗi biến hoá:
Trang xxi
N2 → HN=NH → H2N-NH2 → NH3 → NH4OH
Con đường oxy hoá: N2 → N2O → (HNO)2 → NH4OH
Qua 2 hướng đó, người ta thu được kết quả sau:
- Nếu nồng độ Oxy nhiều sẽ ức chế quá trình cố định nitơ phân tử.
- Hiệu suất cố định nitơ phân tử của những vi sinh vật kỵ khí thường cao hơn những vi
sinh vật hiếu khí.
- Tìm thấy hợp chất loại khử khi nuôi các vi sinh vật cố định nitơ phân tử.
Qua đó cho thấy con đường khử có nhiều khả năng xảy ra hơn.
Quá trình cố định nitơ phân tử là quá trình đồng hóa nitơ của không
khí
thành đạm amôn dưới tác dụng của một số nhóm vi sinh vật có hoạt
tính
Nitrogenaza.
Bản chất của quá trình cố định nitơ phân tử được Hellrigel và Uynfac
tìm
ra
năm 1886. Có hai nhóm vi sinh vật tham gia đó là: Nhóm vi sinh vật sống tự
do và
hội
sinh và nhóm vi sinh vật cộng
sinh.
2.4 SƠ LƯỢC VỀ CÂY LÚA
3.1 Phân loại theo khoa học
Giới (regnum): Plantae
Ngành: Angiospermac – Thực vật có hoa
Lớp: Monocotyledones – lớp 1 lá mầm
Họ: Poales (Graminales) – Hòa thảo có hoa
Họ phụ: Poidae – Hòa thảo ưa nước
Chi (genus): Oryza - lúa
Loài: Oryza sativa – lúa trồng
3.2 Đặc điểm sinh vật học của cây lúa
* Cấu tạo hạt lúa
- Vỏ trấu: có 2 mảnh, một mảnh to và một mảnh nhỏ ôm lấy nhau. Vỏ trấu có màu
khác nhau tùy theo giống.
Trang xxii
- Râu: hạt thóc có thể có râu hoặc không có râu. Ở hạt có râu thì mỏ hạt kéo dài ra
thành râu, màu sắc của vỏ hạt và màu sắc của râu thường cùng một màu. Mỏ hạt là
một bộ phận của vỏ trấu to
- Mày trấu: Mỗi hạt trấu có hai mày trấu dính liền với cuống hạt. Mày trấu dài hay
ngắn tùy theo giống.
- Hạt gạo: gồm 2 phần: nội nhũ và phôi. Nội nhũ được bao bọc bởi lớp vỏ cám, màu
sắc lớp vỏ cám tùy theo giống. Nội nhũ là phần dự trữ dinh dưỡng để nuôi phôi và
khi nảy mầm thì cung cấp dinh dưỡng cho phôi phát triển thành cây lúa non. Phôi ở
phía cuối của hạt thóc, khi nảy mầm thì phôi phát triển thành mầm và rễ để bắt đầu
một chu kì mới của cây lúa.
* Sự nảy mầm của hạt
Hạt hút nước trương lên gặp nhiệt độ thích hợp và đầy đủ không khí thì nảy
mầm. Đầu tiên là một khối trắng xuất hiện, tiếp đến là rễ phôi xuất hiện và dài ra nhanh
chóng, rồi bao mầm có dạng mũi chông đâm ra.
Thời kỳ mạ: Nếu mạ gieo thưa, rễ mạ có thể dài 5-6 cm. Tiêu chuẩn của mạ tốt là
bộ rễ
ngắn, nhiều rễ trắng.
Thời kỳ sau cấy: Bộ rễ tăng dần về số lượng và chiều dài ở thời kỳ đẻ nhánh, làm
đồng.
Thời kỳ trỗ bông : Bộ rễ đạt giá trị tối đa vào thời kỳ trỗ bông. Số lượng rễ có
thể đạt tới 500
– 800 cái. Chiều dài rễ đạt 2- 3 km/ cây khi cây được trồng riêng trong
chậu.
Trên đồng ruộng, phạm vi ra rễ chỉ ở những mắc gần lớp đất mặt (0-20 cm là
chính). Khi cấy lúa quá sâu (>5 cm), cây lúa sẽ tạo ra 2 tầng rễ, trong thời gian này cây
lúa chậm phát triển giống như hiện tượng lúa bị bệnh ngẹt rễ. Cấy ở độ sâu thích hợp
(3-5cm) sẽ khắc phục được hiện tượng trên. Để tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển tốt,
cần làm cỏ sục bùn điều chỉnh lượng nước hợp lí, tạo điều kiện cho tầng đất vùng rễ
thông thoáng, bộ rễ phát triển mạnh, Cây lúa sinh trưởng tốt, chống chịu được sâu bệnh,
nâng xuất cao.
*Thân lúa
- Thân gồm nhiều mắt và lóng. Trước thời kỳ lúa trỗ, thân lúa được bao bọc bởi bẹ lá.
Trang xxiii
- Tổng số mắt trên thân chính bằng số lá trên thân cộng thêm 2. Chỉ vài lóng ở ngọn dài
ra, số còn lại ngắn và dày đặc. Lóng trên cũng dài nhất. Một lóng dài hơn 5 mm được
xem là lóng dài.
- Số lóng dài: Từ 3-8 lóng. Theo giải phẫu ngang lóng, lóng có một khoảng trống lớn
gọi là xoang lỏi.
- Chiều cao cây, thân: Chiều cao cây được tính từ gốc đến mút lá hoặc bông cao nhất.
Chiều cao thân được tính từ gốc đến cổ bông. Chiều cao thân và chiều cao cây liên quan
đến khả năng chống đổ của giống lúa.
*Nhánh lúa
Cây lúa có thể đẻ nhánh khi có 4-5 lá thật. Lúa kết thúc đẻ nhánh vào thời kỳ làm
đốt, làm đồng.
Từ cây mẹ đẻ ra nhánh con (cấp 1), nhánh cấp 1 đẻ nhánh cấp 2 , nhánh cấp 2 đẻ
nhánh cấp 3.
Những nhánh hình thành vào giai đoạn cuối thường là nhánh vô hiệu. Thường thì
các giống lúa mới khả năng đẻ nhánh cao, tỷ lệ nhánh hữu hiệu cũng cao hơn các giống
lúa cũ, cổ truyền. Khả năng đẻ nhánh của cây lúa phụ thuộc vào giống, nhất là điều kiện
chăm sóc, ngoại cảnh...Cây lúa có nhiều nhánh, tỷ lệ nhánh hữu hiệu cao, năng suất sẽ
cao.
*Lá lúa
- Lá lúa điển hình gồm: bẹ lá, phiến lá, lá thìa và tai lá.
+
Bẹ lá: là phần đáy lá kéo dài cuộn thành hình trụ và bao phần non của thân.
+ Phiến lá: hẹp, phẳng và dài hơn bẹ lá ( trừ lá thứ hai).
+ Lá thìa: là vảy nhỏ và trắng hình tam giác.
+ Tai lá: Một cặp tai lá hình lưỡi liềm
- Lá được hình thành từ các mầm lá ở mắt thân. Tốc độ ra lá thay đổi theo thời gian sinh
trưởng và điều kiện ngoại cảnh.
- Thời kỳ mạ non: trung bình 3 ngày ra được 1 lá.
- Thời kỳ mạ khoẻ: từ lá thứ 4, tốc độ ra lá chậm lại, 7-10 ngày ra được 1 lá.
Trang xxiv
- Thời kỳ đẻ nhánh: 5-7 ngày /1lá ở vụ mùa.
- Cuối thời kỳ đẻ nhánh - làm đồng: khoảng 12 - 15 ngày/lá. cây lúa trỗ bông cũng là lúc
hoàn thành lá đồng.
Số lá trên cây phụ thuộc chủ yếu vào giống, thời vụ, biện pháp bón phân và quả trình
chăm sóc. Thường số lá của các giống :
- Giống lúa ngắn ngày: 12 - 15 lá
- Giống lúa trung ngày: 16 - 18 lá
- Giống lúa dài ngày : 18 - 20 lá
*Chức năng của lá
Lá ở thời kỳ nào thường quyết định đến sinh trưởng của cây trong thời kỳ đó. Ba
lá cuối cùng thường liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến thời kỳ làm đồng và hình
thành hạt.
*Chức năng của bẹ lá
- Chống đỡ cơ học cho toàn cây
- Dự trữ tạm thời các Hydratcacbon trước khi lúa trỗ bông
Lá làm nhiệm vụ quang hợp, chăm sóc hợp lí, đảm bảo cho bộ lá khoẻ, tuổi thọ
lá (nhất là lá
đồng), lúa sẽ chắc hạt, năng suất cao.
*Hoa Lúa
• Quá trình thụ phấn, thụ tinh và hình thành hạt lúa
Lúa là loại cây tự thụ phấn. Sau khi bông lúa trỗ một ngày thì bắt đầu quá trình thụ
phấn. Vỏ trấu vừa hé mở từ 0-4 phút thì bao phấn vỡ ra, hạt phấn rơi vào đầu nhụy và
hợp nhất với noãn ở bên trong bầu nhụy để bầu nhụy phát triển thành hạt.
Thời gian thụ phấn kể từ khi vỏ trấu mở ra đến khi khép lại kéo dài khoảng
50-60 phút. Thời gian thụ tinh kéo dài 8 giờ sau thụ phấn.
Trong ngày thời gian hoa lúa nở rộ thường vào 8-9 giờ sáng khi có điều kiện
nhiệt độ thích hợp, đủ ánh sáng, quang mây, gió nhẹ. Những ngày mùa hè, trời nắng to
có thể nở hoa sớm vào 7- 8 giờ sáng. Ngược lại nếu trời âm u, thiếu ánh sáng hoặc gặp
rét hoa phơi màu muộn hơn, vào 12-14 giờ.
Trang xxv