Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Bài Tập Học Kì Môn Bồi Thường Thiệt Hại Ngoài Hợp Đồng (9đ) Pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm theo quy định tại Bộ Luật dân sự 2015. Đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.29 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Ai gây thiệt hại cho ai thì người đó phải bồi thường – vấn đề này đã được các nhà
làm luật coi đó là nguyên tắc và cụ thể hóa trong văn bản pháp luật. Xét về nguồn
gốc lịch sử thì chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ra đời từ
rất sớm. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, mỗi quốc gia đều có những quy định
chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, bên cạnh đó còn có những quy định
cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong từng trường hợp
cụ thể bởi sự đa dạng về chủ thể gây ra thiệt hại, đối tượng bị thiệt hại, hoàn cảnh
bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại do
xâm phạm tính mạng nói riêng là một trong những loại trách nhiệm gây nhiều
tranh cãi về căn cứ phát sinh, mức bồi thường. Xuất phát từ những ý kiến trên đây,
em xinh trình bày bài tập học kì về vấn đề: “Pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật về xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm theo quy định tại Bộ Luật dân
sự 2015. Đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật”.

1


NỘI DUNG
I.

II.

Khái niệm, ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong luật dân sự
1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách
nhiệm pháp lý, là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước theo đó
người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình
gây ra khi hành vi đó được thực hiện với lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm


hại tới tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín, và
các quyền nhân thân khác của cá nhân, tài sản, danh dự, uy tín của
pháp nhân hoặc chủ thể khác
2. Ý nghĩa trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế
định góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế
định góp phần bảo đảm công bằng xã hội
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là chế
định góp phần răn đe, giáo dục, phòng ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật nói chung, gây thiệt hại trái pháp luật nói riêng
Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Thứ nhất: Có thiệt hại xảy ra
– Trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi được áp dụng là nhằm khôi phục
tình trạng tài sản cho người bị thiệt hại nên thiệt hại là yếu tố không thể
thiếu được trong việc áp dụng trách nhiệm này. Chỉ có thiệt hại mới phải
bồi thường, chỉ khi nào biết được thiệt hại là bao nhiêu mới có thể ấn
định người gây thiệt hại phải bồi thường bao nhiêu. Vì vậy, muốn áp
dụng trách nhiệm này thì việc đầu tiên là phải xem xét có thiệt hại xảy ra
hay không và phải xác định được thiệt hại là bao nhiêu.
– Thiệt hại về tài sản là những tổn thất vật chất thực tế được tính thành
tiền mà người có hành vi trái pháp luật đã gây ra cho người khác; thiệt
hại về thể chất là sự giảm sút về sức khoẻ, mất mát về tính mạng, hình
thể của người bị thiệt hại; thiệt hại về tinh thần là sự ảnh hưởng xẩu đến
danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc suy sụp về tâm lý, tình cảm của người
bị thiệt hại. Để có cơ sở cho việc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt
2


hại, các thiệt hại do xâm phạm đến sức khoẻ, tính mạng, danh dự, uy tín,

nhân phẩm cũng phải được xác định thành một khoản tiền cụ thể. Vì vậy,
thiệt hại là những tổn thất xảy ra được tính thành tiền bao gồm những mất
mát, hư hỏng, huỷ hoại về tài sản, nguồn thu nhập bị mất, chi phí nhàm
ngăn chặn, khắc phục những hậu quả xấu về tài sản, sức khoẻ, tính mạng,
danh dự, uy tín, nhân phẩm, tinh thần.
– Có thể chia thành hai loại thiệt hại sau đây:
+ Thiệt hại trực tiếp: Là những thiệt hại đã xảy ra một cách khách quan,
thực tế và có cơ sở chắc chắn để xác định, bao gồm mất mát, hư hỏng về
tài sản, các chi phí cho việc ngăn chặn, khắc phục các thiệt hại.
+ Thiệt hại gián tiếp: Là những thiệt hại mà phải dựa trên sự suy đoán
khoa học mới có thể xác định được thiệt hại. Thiệt hại này còn được gọi
là thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút, lợi ích gắn liền với việc sử dụng,
khai thác tài sản bị mất. Đổi với loại thiệt hại này nếu chỉ mang tính giả
định, không có cơ sở khoa học chắc chắn để xác định thì không được đưa
vào khoản thiệt hại để áp dụng trách nhiệm bồi thường.
Thứ hai: Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện
thông qua hành động hoặc không hành động trái với quy định (yêu cầu)
của pháp luật. Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
hành vi trái pháp luật là những hành vi xâm hại tới tài sản, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm uy tín, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
khác và đa phần được thể hiện dưới dạng hành động. Tuy nhiên, những
hành vi gây thiệt hại do xâm phạm các yếu tố trên nhưng được thực hiện
phù họp với quy định của pháp luật sẽ không bị coi là hành vi trái pháp
luật và vì vậy, người thực hiện hành vi đó không phải bồi thường thiệt
hại. Chẳng hạn, hành vi gây thiệt hại trong giới hạn của phòng vệ chính
đáng hoặc gây thiệt hại đúng với yêu cầu của tình thế cấp thiết.
Thứ ba: Có lỗi của người gây thiệt hại.
– Lỗi là quan hệ giữa chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật với xã hội
mà nội dung của nó là sự phủ định những yêu cầu của xã hội đã được thể

hiện thông qua các quy định của pháp luật. Khi một người có đủ nhận
thức và điều kiện để lựa chọn cách xử sự sao cho xử sự đó phù hợp với
3


pháp luật, tránh thiệt hại cho chủ thể khác nhưng vẫn thực hiện hành vi
gây thiệt hại thì người đó bị coi là có lỗi. Như vậy, lỗi là thái độ tâm lý
của người có hành vi gây thiệt hại, phản ánh nhận thức của người đó đối
với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ đã thực hiện. Bao gồm hai hình
thức lỗi sau đây:
+ Lỗi cố ý: Một người bị coi là có lỗi cố ý nếu họ đã nhận thức rõ hành vi
của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện hành vi đó.
Nếu người này mong muốn thiệt hại xảy ra từ việc thực hiện hành vi thì
lỗi của họ là lỗi cổ ý trực tiếp. Nếu họ không mong muốn thiệt hại xảy ra
nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra thì lỗi của họ là lỗi cố ý gián tiếp. “Cố
ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vỉ của mình sẽ
gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muon hoặc
không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra”.
+ Lỗi vô ý: người có hành vi gây thiệt hại được xác định là có lỗi vô ý
nếu họ không thấy trước được hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại
mặc dù họ phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra khi họ thực
hiện hành vi đó. Nếu người này cho rằng thiệt hại không xảy ra thì lỗi
của họ được xác định là lỗi vô ý cẩu thả; nếu họ cho rằng có thể ngăn
chặn được thiệt hại thì lỗi của họ là lỗi vô ý vì quá tự tin. “Vô ý gây thiệt
hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả
năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy
ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho
rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”.
Thứ tư: Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
hại xảy ra.

Quá trình phát sinh, phát triển và chẩm dứt giữa các sự vật và hiện tượng
bao giờ cũng có mối liên hệ nội tại, trong đó, sự vật, hiện tượng này là
nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng kia. Có thể một sự
vật, hiện tượng là nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của nhiều sự vật, hiện
tượng khác, có thể nhiều sự vật, hiện tượng cùng là nguyên nhân dẫn đến
sự ra đời của sự vật, hiện tượng khác. Vì vậy, để xác định chính xác
người phải bồi thường thiệt hại cần phải dựa vào cặp phạm trù: Nguyên
nhân và kết quả và tìm ra mối liên hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
4


III.

hại xảy ra, trong đó, thiệt hại xảy ra phải là kết quả tẩt yếu của hành vi
trái pháp luật và ngược lại, hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra
thiệt hại.
Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm được quy định
tại khoản 1 Điều 591 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể là: “Thiệt hại do
tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ
luật này;
b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ
cấp dưỡng;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.”
2. Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Theo quy định tại khoản 2 Điều 591 Bộ luật dân sự 2015 thì: “Người
chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác
bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều

này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những
người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu
không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp
nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được
hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do
các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa cho một
người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định.”
Theo quy định trên, người gây thiệt hại về tính mạng của người khác phải
chịu trách nhiệm bồi thường những chi phí sau:
– Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe trước
khi người bị thiệt hại chết: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi
cấp cứu tại cơ sở y tế, tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí
chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu,
vật lý trị liệu… theo chỉ định của bác sĩ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ,
tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khỏe cho người bị thiệt hại theo
chỉ định của bác sĩ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt
5


hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe
lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ… để hỗ trợ hoặc thay thế
một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt
hại (nếu có).
– Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu
trước khi sức khỏe bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế,
nhưng do sức khỏe bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu
nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường
khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.
– Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan

tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến,
hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc
hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi
thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ…
– Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa
vụ cấp dưỡng. Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà
người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi sức khỏe bị xâm
phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường
khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị
thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt
hại bị xâm phạm sức khỏe mất khả năng lao động, thì những người này
được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và
khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người
được bồi thường.
– Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích
gần gũi nhất của nạn nhân.
+ Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường
hợp này là những người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân bao gồm:
vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, người trực
tiếp nuôi dưỡng nạn nhân.
+ Không phải trong mọi trường hợp tính mạng bị xâm phạm thì những
người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân đương nhiên được bồi thường
6


IV.

V.


khoản tiền bù đắp về tinh thần. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh
thần phải căn cứ vào địa vị của nạn nhân trong gia đình, mối quan hệ
trong cuộc sống giữa nạn nhân và những người thân thích gần gũi nhất
của nạn nhân…
+ Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho
những người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải căn cứ vào mức
độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 100 tháng lương, tính
theo mức lương tối thiểu chung do Nhà nước quy định tại thời điểm giải
quyết bối thường.
Thực tiễn thực hiện pháp luật để giải quyết tranh chấp về bồi thường
thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm và giải pháp kiến nghị nhằm
nâng cao hiệu quả pháp luật
1. Thực tiễn thực hiện pháp luật
Bộ Luật Dân sự 2015 với các quy định cụ thể về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã tạo ra các cơ sở pháp lý cho
các cấp Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng nói riêng, bồi thường thiệt hại do xâm
phạm tính mạng nói chung. Theo số liệu của ngành Tòa án, các vụ
xâm phạm về tính mạng mà ngành Tòa Án thụ lý và giải quyết
trong các năm, diễn biến như sau:
-Năm 2016: 1.964 vụ
-Năm 2017: 4.427 vụ
-Năm 2018: 3.470 vụ
-Năm 2019: 2.915 vụ
Thứ nhất, các vụ án xâm phạm về sức khỏe và tính mạng hàng
năm chiếm số lượng cao.
Thứ hai, có thể nói rằng các cán bộ Toàn án đã vận dụng các quy
định của Bộ Luật dân sự để giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, góp phần to lớn khắc phục những tổn thất mà
người bị hại gánh chịu, giúp họ dần dần ổn định cuộc sống duy trì

hoạt động bình thường sản xuất kinh doanh
Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
Thứ nhất, rà soát lại toàn bộ các quy định của pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung, qua đó xem xét đến sự
7


thống nhất của các văn bản pháp luật khi quy định về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng để từ đó có sự sửa đổi bổ sung hoàn
thiện pháp luật
Thứ hai, cần nâng cao chất lượng của hoạt động xét xử, trong đó có trình
độ chuyên môn của đội ngũ thẩm phán là yếu tố không kém phần quan
trọng
Thứ ba, tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đến mọi
đối tượng để người dân hiểu rõ hơn các quy định của pháp luật, qua đó
hạn chế đến mức thấp nhất những hành vi gây thiệt hại hoặc khi có hành
vi gây thiệt hại thì người gây thiệt hại, người bị thiệt hại hiểu rõ hơn về
mức bồi thường để họ có thể thỏa thuận hoặc chấp nhận mức bồi thường
nếu Tòa án quy định

KẾT LUẬN
Pháp luật dân sự là công cụ pháp lý quan trọng thúc đẩy giao lưu dân sự
phát triển nhưng cũng là công cụ pháp lý để xử lý những hành vi vi phạm
pháp luật, trong đó có các hành vi xâm phạm tính mạng. Thông qua việc
tìm hiểu các quy định của pháp luật, xem xét áp dụng vào thực tiễn các
quy định của pháp luật trong việc giải quyết các tranh chấp về bồi thường
thiệt hại do xâm phạm về tính mạng, bài làm của em đã đưa ra những bất
cập khó khăn xung quanh các quy định của pháp luật cũng như việc tìm
hiểu thực tiễn và áp dụng giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại
nói chung, bồi thường thiệt hại về xâm phạm tính mạng nói riêng. Bài

làm của em còn có nhiều thiếu sót mong thầy cô bỏ qua. Em xin cảm ơn!

8


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Dân Sự 2 – ĐH Luật Hà Nội
2. Bộ Luật Dân sự 2015
3. />4. />5. />6. />7. />
9


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................1
NỘI DUNG........................................................................2
I. Khái niệm và ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong luật dân sự..............................................2
II. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng....................................................................................2
III. Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm........5
IV. Thực tiễn thực hiện pháp luật...................................7
V. Giải pháp kiến nghị......................................................8
KẾT LUẬN........................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................10

10




×